Chuyên đề văn học
"Tây Tiến" của Quang Dũng & phong cách
nghệ thuật của Nguyễn Tuân & "Tuyên ngôn
Độc lập", Chủ tịch Hồ Chí Minh
Người xưa có nói: "Thi phú dục lệ" (Thơ phú phải đẹp - Tào Phi). Đoạn
thơ Quang Dũng mở ra một không gian nghệ thuật tuyệt đẹp: cảnh đẹp,
người đẹp, hồn thơ đẹp. Nhà thơ - chiến sĩ thuở ấy với "Tây Tiến", bài
thơ kiệt tác sống mãi trong lòng chúng ta.
Bài làm (Câu 2)
Với "Sông Đà", Nguyễn Tuân đã đề thơ vào sông núi Tây Bắc. Và
"Người lái đò Sông Đà", một trong 15 bài tuỳ bút của kiệt tác "Sông Đà"
ngào ngạt hương sắc như một cành hoa lan giữa mùa xuân tươi đẹp. Hai
hình tượng đầy chất thơ đồng hiện trong bài tuỳ bút là hình tượng con
Sông Đà và hình ảnh người lái đò, đúng là "mười phân vẹn mười".
Từ "Vang bóng một thời" đến "Sông Đà", một hành trình 20 năm có lẻ,
cụ Nguyễn đã "xê dịch" để đi tìm thứ "vàng mười" còn tiềm ẩn trong
lòng người đó đây. Và một trong hàng triệu độc giả, ta càng cảm thấy
sâu sắc hơn bao giờ hết "một trong những nét phong cách nghệ thuật
của Nguyễn Tuân là nhìn con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ". Ấn
tượng ấy càng rõ nét khi ta tiếp cận tuỳ bút "Người lái đò Sông Đà".
1. Thế giới nhân vật trên trang văn của Nguyễn Tuân thật đáng yêu vô
cùng. Một cụ Kép, lông mày bạc, tóc bạc, râu bạc thấp thoáng giữa vườn
lan "nguyện đem cái quãng đời xế chiều của một nhà nho để phụng sự lũ
hoa thơm cỏ quý" (“Hương Cuội”). Một cụ Ấm thức dậy lúc mờ sáng,
mang phong thái "một triết nhân ngồi tính bước đi của thời gian". Trong
ấm trà pha ngon, cụ đã "nhận thấy có một mùi thơm và một vị triết lí"
(“Chén trà sương”). Một Huấn Cao tử tù chân vướng xiềng, cổ đeo
gông, vung bút viết lên tấm lụa bạch những chữ như rồng bay phượng
múa, thể hiện "những cái hoài bão tung hoành của một đời người"
(“Chữ người tử tù”). Và hình ảnh ông lái đò người Thái (Tây Bắc). Đó
là những con người cực kì tài hoa mang cốt cách nghệ sĩ.
2. Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, ông lái đò Sông Đà hiện lên trong
tầm vóc một người lao động bình dị mà phi thường, tâm hồn và phong
thái mang cốt cách tài hoa nghệ sĩ. Cũng như trăm nghìn người lái đò
"chèo thuyền vượt thác" khác, ông lái đò Sông Đà này có "tay lái ra
hoa" và từng vượt qua bao trùng vây thạch trận, giao phong sinh tử với
"lũ đá nơi ải nước". Sau hơn mười năm chèo đò và chỉ huy một con
thuyền có 6 mái chèo đã ngược xuôi Sông Đà trăm chuyến, chở da trâu,
xương hổ, chè, cánh kiến về xuôi, ông nắm vững từng con thác cái
ghềnh, nắm chắc binh pháp thần sông, thần đá. Bước vào cái tuổi 70,
đầu tóc bạc trắng, thân hình ông đò vẫn đẹp như một pho tượng tạc bằng
đá cẩm thạch. Nước da ánh lên chất sừng chất mun. Cánh tay rắn chắc
trẻ tráng. Cặp mắt tinh anh, nhãn lực nhìn xa vời vợi. Trên ngực của ông
nổi lên một số "củ nâu" thương tích trên "chiến trường Sông Đà" mà
Nguyễn Tuân ngưỡng mộ gọi là "thứ huân chương lao động siêu hạng".
3. Vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của ông lái đò là sự tài ba dũng mãnh của một
vị thuyền trưởng dày dạn thuỷ chiến. Chất tài hoa nghệ sĩ của ông lái đò
là ở bản lĩnh chiến đấu và tinh thần dũng cảm phi thường. Cảnh vượt
thác của ông lái đò đã thể hiện rõ vẻ đẹp và cốt cách ấy. Ở trùng vây thứ
nhất, ông lái đò xung trận với khí thế nghênh chiến quyết thắng: "Thạch
trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới". Cảnh hỗn chiến ác liệt
diễn ra. Những hòn đá "bệ vệ oai phong lẫm liệt" được nước thác "reo
hò làm thanh viện" liều mạng xông vào "đá trái mà thúc gối vào bụng
hông thuyền". Ông đã bình tĩnh "hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên
khỏi sóng". Lúc bị sóng thác đánh miếng đòn hiểm độc "bóp chặt lấy hạ
bộ" đau điếng, nhưng vị thuyền trưởng "hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống
lái", tiếng chỉ huy của ông vẫn "gọn ngắn tỉnh táo" đưa con thuyền thoát
hiểm. Thật là cao cường biết bao!
Trùng vây thứ hai vô cùng hiểm trở, có nhiều cửa tử: "Dòng thác hùm
beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá". Ông lái đò tấn công ngay
"nắm chặt được cái bờm sóng" cho con thuyền "phóng nhanh vào cửa
sinh". Bọn tướng đá, đứa thì "ông tránh mà rảo bơi chèo lên", đứa thì bị
"ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến". Thằng đá tướng thất
bại thảm hại "tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng".
Trùng vây thứ ba, bên phải bên trái đều là "luồng chết". Thần sông còn
bố trí "bọn đá hậu vệ" của con thác hòng "bắt chết" cái thuyền. Ông lái
đò mưu trí "phóng thẳng con thuyền", "chọc thủng" trùng vây rồi "vút
qua cổng đá cánh mở cánh khép". Chiếc thuyền như một mũi tên tre
"vút, vút" xuyên nhanh qua hơi nước. Thế là hết thác. Sông nước lại
thanh bình.
Qua đó, ta thấy ông lái đò oai phong lẫm liệt như một vị danh tướng, trí
dũng song toàn, quyết đoán và quyết thắng. Đó là vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ
của ông lái đò được Nguyễn Tuân khám phá và ca ngợi. Những ẩn dụ,
so sánh, nhân hóa được tác giả sử dụng sáng tạo gợi lên cảm giác mãnh
liệt đầy ấn tượng. Cảnh vượt thác là bài ca chiến trận hào hùng. Với
niềm hào hứng bốc cao, cụ Nguyễn đã tung vào cuộc đọ trí đua tài của
ông lái đò với thần sông thần đá nơi thác ghềnh Đà giang cả cái kho
ngôn từ giàu có của mình, đã vận dụng con mắt và kĩ thuật của nhiều
ngành nghệ thuật khác nhau, đặc biệt là hội họa, điện ảnh, âm nhạc, và
cả khoa học quân sự, kiến thức võ thuật, v.v Câu văn co duỗi, dài
ngắn, biến hoá hấp dẫn lạ thường.
4. Vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của ông lái đò còn được thể hiện trong những
lúc ngừng chèo nghỉ ngơi. Sau một ngày giao tranh dữ dội với thần sông
thần đá, ông lái đò cùng các bạn chèo nghỉ trong hang đá. Lúc ngừng
chèo, họ chẳng bàn tán một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa
ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Rất ung dung và thanh thản, ông
lái đò vừa nướng ống cơm lam, vừa kể chuyện về cá anh vũ, về cá dầm
xanh, về những hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi
cá túa ra đầy tràn ruộng. Những câu chuyện rất đời thường nhưng phản
ánh một đời sống tâm hồn gắn liền với sông nước rất dung dị mà tài hoa,
cần lao mà nghệ sĩ.
Tuỳ bút "Người lái đò Sông Đà" đích thực là trang hoa, tờ hoa. Nguyễn
Tuân đã khám phá ra bao vẻ đẹp kì thú trong thiên nhiên và con người,
đã nhìn sự vật ở phương diện văn hóa nghệ thuật, nhìn con người ở
phương diện tài hoa nghệ sĩ. Mạch văn tự do theo dòng cảm xúc lai láng.
Ông lái đò trong bài tuỳ bút là một sáng tạo nghệ thuật sáng bừng lên vẻ
đẹp nhân văn. Trên cái mênh mang của "Dải sông Đà bọt nước lênh
bênh", và giữa lớp lớp trùng vây thạch trận "nước xô đá, đá xô sóng,
sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè", ta thấy ông lái đò người
Thái quắc thước và con thuyền 6 tay chèo đang dũng mãnh băng băng
lướt qua. Ông lái đò là một bài ca về lao động và sự sống. Hình ảnh ông
đẹp quá, một vẻ đẹp Tây Bắc, như đang "đề thơ vào sông nước" Đà
Giang.
Bài làm (Câu 3)
Cách mạng tháng Tám thành công. Ngày 2.9.1945, tại quảng trường Ba
Đình, trước hơn nửa triệu đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt
Chính phủ Lâm thời đọc bản "Tuyên ngôn Độc lập". Áng văn này mang
ý nghĩa lịch sử vô cùng trọng đại: tuyên bố thủ tiêu vĩnh viễn chế độ
thực dân - phong kiến trên đất nước ta, khai sinh ra nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà, mở ra một kỷ nguyên độc lập, tự do của dân tộc.
Kết thúc bản "Tuyên ngôn Độc lập", Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh
trọng tuyên bố:
"Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành
một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả
tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do,
độc lập ấy".
Một lời tuyên bố đanh thép và hùng hồn, đã kết tinh một cách sáng ngời
những nội dung cơ bản của "Tuyên ngôn độc lập".
1. Trước hết, Hồ Chủ tịch khẳng định: "Nước Việt Nam có quyền hưởng
tự do và độc lập" vì đó là điều phù hợp với đạo lí và pháp lí. Đất nước
và con người Việt Nam cũng như tất cả mọi quốc gia, mọi dân tộc và
mọi người "đều sinh ra có quyền bình đẳng ( ), có quyền được sống,
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc" ("Tuyên ngôn Độc lập năm
1776 của nước Mỹ"). "Nước Việt nam có quyền hưởng tự do và độc lập"
bởi lẽ "người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn
luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi" (Tuyên ngôn Nhân quyền và
Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791).
Từ nhân quyền, Hồ Chủ tịch đã "suy rộng ra", nói đến quyền tự quyết
mọi dân tộc: "Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân
tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do". Lẽ phải
ấy không ai chối cãi được, và vô cùng thiêng liêng. Sau hơn 80 năm bị
thực dân Pháp thống trị, lời tuyên bố "Nước Việt nam có quyền hưởng tự
do và độc lập" biểu lộ niềm tự hào dân tộc và khát vọng độc lập, tự do
của đất nước và con người việt Nam.
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra
đời, "và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập". Đó là một thực tế
lịch sử không ai chối cãi được. Hồ Chủ tịch đã vạch trần những tội ác dã
man về chính trị, về kinh tế của thực dân Pháp đối với dân tộc ta trong
suốt 80 năm trời. Chúng áp bức, bóc lột dân ta đến tận xương tuỷ, "khiến
cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều". Thực dân
Pháp đã tước đoạt tự do, dìm nhân dân ta vào máu và nước mắt trong
đêm trường nô lệ: "Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng
thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. chúng tắm
các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu", Thực dân Pháp chỉ
trong vòng 5 năm (1940 - 1945), chúng đã bán nước ta 2 lần cho Nhật.
Pháp và Nhật đã gây ra nạn đói năm Ất Dậu (1945) làm cho hơn hai
triệu đồng bào ta bị chết đói. Trước khi thua chạy (3.9.45), bọn thực dân
Pháp "còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao
Bằng".
"Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành
một nước tự do, độc lập". Đó là lẽ phải, là sự thật lịch sử không ai chối
cãi được. Cách mạng tháng Tám bùng nổ và thắng lợi, "dân ta đã lấy lại
nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp". Nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời khi ba kẻ thù bị lật đổ, bị thất bại: "Pháp
chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị". Độc lập và tự do là thành quả
đấu tranh và cách mạng bền bỉ, gan góc, lâu dài của dân tộc ta:
"Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay,
một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm
nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!".
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời là một sự thật lịch sử, nên Hồ
Chủ tịch mới tuyên bố một cách đanh thép, hùng hồn: "Tuyên bố thoát li
hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã
kí về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất
nước Việt Nam".
2. Độc lập tự do là khát vọng, là ý chí của đất nước và con người Việt
Nam, của dân tộc Việt Nam. Lời tuyên bố vang lên như một lời thề
thiêng liêng làm chấn động lòng người: "Toàn thể dân tộc Việt Nam
quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ
vững quyền tự do, độc lập ấy".
Cụm từ "Toàn thể dân tộc Việt Nam" nói lên sức mạnh đại đoàn kết,
triệu triệu con người Việt Nam kết thành một khối mà không một kẻ
thù tàn bạo nào có thể khuất phục được! "Tự do hay là chết!", "Dù phải
đốt cháy dãy Trường Sơn cũng phải giành lại nền độc lập!". Quyết tâm
ấy được Hồ Chủ tịch tuyên bố đanh thép hùng hồn. Triệu triệu con
người Việt Nam "quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và
của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy".
Lời tuyên bố của Hồ Chủ tịch là lời cảnh cáo nghiêm khắc đối với thực
dân Pháp đang âm mưu tái chiếm Việt Nam một lần nữa, đồng thời kêu
gọi toàn thể dân tộc Việt Nam sẵn sàng chiến đấu hi sinh cho độc lập, tự
do của Tổ quốc. Ba mươi năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ
của nhân dân ta đã thể hiện một cách hùng hồn lời tuyên bố mạnh mẽ ấy.
Đó là khát vọng, là ý chí sắt đá về độc lập tự do của dân tộc ta, của nhân
dân ta. Một lần nữa, Người lại Tuyên bố: "Chúng ta thà hi sinh tất cả,
chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ!"
(“Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến” - 19.12.1946).
Hơn nửa thế kỉ đã trôi qua, kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc
"Tuyên ngôn Độc lập". Những chặng đường lịch sử vẻ vang của dân tộc
ta đã trải qua rất đáng tự hào: Cách mạng tháng Tám - chiến thắng Điện
Biên oai hùng - Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng - Non sông liền một
dải, Bắc Nam sum họp một nhà
"Tuyên ngôn Độc lập" xứng đáng là một áng "thiên cổ hùng văn". Nó đã
kế tục truyền thống vinh quang của "Nam quốc sơn hà", của "Bình Ngô
đại cáo". Nó là lời Non Nước cao cả và thiêng liêng, thể hiện sâu sắc tư
tưởng vĩ đại: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do".
Đọc đoạn văn cuối bản "Tuyên ngôn Độc lập", chúng ta càng thấm thía
tự hào về độc lập, tự do mà dân tộc ta đã giành được bằng xương máu
của bao thế hệ, của bao anh hùng liệt sĩ.