Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Các câu chuyện lịch sử và truyền thuyết thành Cổ Loa ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (733.81 KB, 8 trang )

Các câu chuyện lịch sử và truyền
thuyết thành Cổ Loa


Lập quốc
Chuyện xưa kể rằng: "Vua Hùng Vương có người con gái nhan sắc tuyệt
vời tên gọi là Mỵ Nương. Vua nước Thục nghe tin, sai sứ cầu hôn. Vua
Hùng Vương muốn gả nhưng Lạc Hầu can rằng: Thục muốn lấy nước ta,
chỉ mượn tiếng cầu hôn đó thôi. Không lấy được Mỵ Nương, Thục
Vương căm giận, di chúc cho con cháu đời sau thế nào cũng phải diệt
nước Văn Lang của Vua Hùng. Đến đời cháu là Thục Phán mấy lần đem
quân sang đánh nước Văn Lang. Nhưng Vua Hùng Vương có tướng sĩ
giỏi, đã đánh bại quân Thục. Vua Hùng Vương nói: Ta có sức thần,
nước Thục không sợ hay sao? Bèn chỉ say sưa yến tiệc không lo việc
binh bị. Bởi thế, khi quân Thục lại kéo sang đánh nước Văn Lang, vua
Hùng Vương còn trong cơn say. Quân Thục đến gần, Vua Hùng trở tay
không kịp phải bỏ chạy rồi nhảy xuống sông tự tử. Tướng sĩ đầu hàng.
Thế là nước Văn Lang mất."

Chống Tần


Cùng thời kỳ này, bên Trung Hoa, Tần Thủy Hoàng sát nhập 6 nước sau
nhiều năm hỗn chiến thời chiến quốc. Ông tiếp tục tham vọng xâm
chiếm Bách Việt, vùng đất đai của các bộ tộc người Việt ở phía nam
Trung Quốc và bắc Việt Nam ngày nay. Đoàn quân viễn chinh nhà Tần
do Đồ Thư chỉ huy đã tiến sâu vào lãnh thổ Âu Lạc nhưng vấp phải
chiến thuật kháng chiến kéo dài của Thục Phán. Sau 10 năm giao chiến,
Đồ Thư bị giết và quân Tần phải rút lui.



Năm 218 trước công nguyên, Tần Thuỷ Hoàng huy động 50 vạn quân
chia làm 5 đạo đi chinh phục Bách Việt. Để tiến xuống miền Nam, đi
sâu vào đất Việt, đạo quân thứ nhất phải đào con kênh nối sông Lương
(vùng An Hưng, Trung Quốc ngày nay) để chở lương thực. Nhờ vậy,
đạo quân chủ lực của do viên tướng Đồ Thư thống lĩnh đã vào được đất
Tây Âu, giết tù trưởng, chiếm đất rồi tiến vào Lạc Việt. Thục Phán được
các Lạc tướng suy tôn làm lãnh tụ chung chỉ huy cuộc kháng chiến này.
Khi Đồ Thư đem quân tiến sâu vào đất Lạc Việt, chúng gặp khó khăn
chồng chất. Quân Tần tiến sâu đến đâu, người Việt làm vườn không nhà
trống và trốn vào rừng đến đó. Quân Tần dần lâm vào tình trạng thiếu
lương thực trầm trọng. Khi quân Tần đã mệt mỏi, chán nản và khổ sở vì
thiếu lương hoặc như sử Tần cho là quân Tần không quen khí hậu
phương nam , thì người Việt, do Thục Phán chỉ huy, mới bắt đầu xuất
trận. Tướng Đồ Thư trong một trận giáp chiến đã bị bắn hạ. Mất chủ
tướng, quân Tần hoang mang mở đường tháo chạy về nước. Sau gần 10
năm kháng chiến, nhân dân Âu Việt – Lạc Việt giành được độc lập.
Thục Phán củng cố uy tín và nắm trọn uy quyền về quân sự lẫn chính trị.

Xây thành Cổ Loa
Sau chiến thắng trước quân Tần, Thục Vương quyết định giao cho tướng
Cao Lỗ xây thành Cổ Loa nhằm củng cố thêm khả năng phòng thủ quân
sự. Tục truyền rằng Thục An Dương Vương xây thành nhiều lần nhưng
đều đổ. Sau có thần Kim Quy hiện lên, bò quanh bò lại nhiều vòng dưới
chân thành. Thục An Dương Vương bèn cho xây theo dấu chân Rùa
vàng. Từ đó, thành xây không đổ nữa. An Dương Vương cũng phát triển
thuỷ binh và cho chế tạo nhiều vũ khí lợi hại, tạo lợi thế quân sự vững
chắc cho Cổ Loa.




Sơ đồ thành Cổ Loa

Thành Cổ Loa được xây bằng đất do thời ấy ở Âu Lạc chưa có gạch
nung. Thành có 3 vòng. Chu vi ngoài 8 km, vòng giữa 6,5 km, vòng
trong 1,6 km Diện tích trung tâm lên tới 2 km². Thành được xây theo
phương pháp đào đất đến đâu, khoét hào đến đó, thành đắp đến đâu, lũy
xây đến đó. Mặt ngoài lũy, dốc thẳng đứng, mặt trong xoải để đánh vào
thì khó, trong đánh ra thì dễ. Lũy cao trung bình từ 4-5 m, có chỗ 8-12
m. Chân lũy rộng 20-30 m, mặt lũy rộng 6-12 m. Khối lượng đất đào
đắp ước tính 2,2 triệu mét khối. Khu vực Cổ Loa được coi là một nền đất
yếu nên việc xây dựng thành Cổ Loa có thể khó khăn và thành bị đổ
nhiều lần là dễ hiểu. Khi xẻ dọc thành để nghiên cứu, các nhà khảo cổ
học phát hiện kỹ thuật gia cố thành của Thục Phán: chân thành được
chẹn một lớp tảng đá. Hòn nhỏ có đường kính 15 cm, hòn lớn 60 cm.
Xung quanh Cổ Loa, một mạng lưới thủy văn dầy đặc đã được tạo ra,
thành một vùng khép kín, thuận lợi cho việc xây dựng căn cứ thủy binh
hùng mạnh. Thuở ấy, sông Thiếp – Ngũ Huyền Khê - Hoàng Giang
thông với sông Cầu ở Thổ Hà, Quả Cảm (Hà Bắc) thông với sông Hồng
ở Vĩnh Thanh (Đông Anh). Ngay sau khi xây thành, Thục An Dương
Vương đã chiêu tập những thợ mộc giỏi, sử dụng gỗ ở địa phương đóng
thuyền chiến. Nhân dân cũng được điều tới khai phá rừng đa (Gia Lâm),
rừng Mơ (Mai Lâm), rừng dâu da (Du Lâm) thành ruộng. Những hiệp
thợ chuyên rèn vũ khí cũng xuất hiện, chế tạo côn, kiếm, dáo, mác và nỏ
liên châu, mỗi phát bắn nhiều mũi tên. Có nhiều bằng chứng khảo cổ về
sự tồn tại của hàng chục vạn mũi tên đồng, có thể dùng nỏ liên châu ở
đây. Xem thêm truyền thuyết Cổ Loa.

Mắc kế thông gia

Ít lâu sau, Triệu Đà từ quận Nam Hải (Quảng Đông bây giờ) sang đánh

Âu Lạc. Nhờ vào chuẩn bị quân sự tốt, An Dương Vương đã chống cự
được hiệu quả. Triệu Đà buộc phải dùng kế nội gián bằng cuộc kết hôn
giữa con trai mình, Trọng Thủy, và con gái An Dương Vương là Mỵ
Châu. Sau khi nắm được bí mật quân sự của An Dương Vương thông
qua con trai, Triệu Đà đã thành công trong việc chinh phục Âu Lạc,
buộc An Dương Vương bỏ chạy và tự tử, kết thúc thời kỳ An Dương
Vương. (Xem thêm truyền thuyết Mỵ Châu Trọng Thủy). Về năm mất
của triều đại An Dương Vương, các tài liệu ghi chép khác nhau. Đa phần
sách sử Việt Nam (Đại Việt Sử ký Toàn thư, Khâm định Việt sử Thông
giám Cương mục, Việt sử Tiêu án) đều chép là An Dương Vương mất
nước năm 208 TCN. Sách giáo khoa của Việt Nam căn cứ vào Sử Ký
của Tư Mã Thiên ghi nước Âu Lạc mất năm 179 TCN. Sở dĩ như vậy vì
Sử Ký chép là Triệu Đà diệt nước Âu Lạc "Sau khi Lã Hậu chết", mà Lã
Hậu chết năm 180 TCN, do đó nước Âu Lạc mất khoảng năm 179 TCN.
Truyền thuyết An Dương Vương, Nỏ Thần, và con trai Triệu Đà là
Trọng Thuỷ ở rể nước Việt có nhiều chỗ không hợp với Sử Ký của Tư
Mã Thiên, mặc dầu Sử Ký là nguồn tư liệu sớm nhất mà các nhà viết sử
Việt Nam có được để tham khảo. Nếu việc Trọng Thủy chết theo vợ là
đúng, thì điều này mâu thuẫn với thông tin về con của Thủy là Triệu Hồ.
Triệu Hồ là cháu Triệu Đà, được nối ngôi ông nội khi cha đã mất, sử ghi
Hồ mất năm 124 TCN, thọ 52 tuổi. Như vậy Hồ sinh năm 175 TCN.
Nếu Thủy mất ngay năm 179 TCN thì không thể sinh ra Hồ. Do đó, theo
truyền thuyết, Triệu Đà không diệt Âu Lạc ngay sau khi Lã Hậu chết
như chép trong Sử Ký của Tư Mã Thiên (xem thêm bài Triệu Đà). Tóm
lại, câu chuyện về An Dương Vương và nỏ thần mang đậm màu sắc
truyền thuyết, còn nhiều điều chưa sáng tỏ, nhưng theo nhà triết học
Hegel thì "truyền thuyết ví như dàn giáo làm chống đỡ lịch sử, nếu gỡ
bỏ truyền thuyết thì lịch sử có nguy cơ bị sụp đổ theo."



Chuyện xưa kể rằng:"Một lần Thục An Dương Vương hỏi tướng quân
Cao Lỗ, người thiết kế và chỉ huy công trình xây thành Cổ Loa: Mấy
năm nay nhà Triệu với Âu Lạc giao hảo thuận hòa. Nay con trai họ là
Trọng Thủy muốn cầu hôn với Mỵ Châu, ông nghĩ thế nào? Riêng ta
muốn chấp thuận lời cầu hôn cốt để hòa hiếu, tránh nạn binh đao? Cao
Lỗ suy nghĩ hồi lâu rồi tâu: Việc này hệ trọng lắm, xin Vương thượng
cho nghĩ ba ngày. Về nhà, Cao Lỗ suy nghĩ băn khoăn lắm. Ý vua An
Dương Vương đã rõ, nếu không chấp thuận, có thể bị bãi chức. Nếu
đồng tình thì vận nước có cơ nguy. Mấy hôm sau, vào chầu vua, Cao Lỗ
tâu: Xưa nay chưa thấy kẻ bại trận lại xin cho con trai ở gửi rể. Chẳng
qua họ muốn biết cách bố phòng của Loa Thành mà thôi. Việc ngàn lần
không nên. Thục An Dương bỗng nỗi giận: Nhà Triệu đánh mãi Âu Lạc
không thắng, muốn mượn chuyện cầu hôn để xí xóa hiềm khích, ta lẽ
nào không thuận? Ông già rồi, ta cho ông về nghỉ. Cao Lỗ không ngạc
nhiên. Vốn điềm đạm, ông chỉ nói: Việc đúng sai còn có vầng nguyệt soi
sáng, thần không ân hận khi nói điều phải. Vì không nghe lời khuyên
của Cao Lỗ, An Dương Vương đã mắc mưu giặc khiến cho vận nước tan
tành."


Ngày nay, mẫu truyện lịch sử này đã được liệt vào một trong những
dạng chiến tranh gián điệp rất sớm của lịch sử Việt Nam.



Đền thờ An Dương Vương gần Hà Nội


Di tích của thành Cổ Loa vẫn còn lưu lại cho đến nay, cách trung tâm Hà
Nội khoảng 20 km về phía đông bắc. Đền thờ An Dương Vương nằm ở

trung tâm di tích này. Các nghiên cứu khảo cổ học tại đây vẫn tiếp tục
làm sáng tỏ các thời kỳ lịch sử mà thành đã trải qua.

×