Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

BARACLUDE – Phần 2 pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.5 KB, 24 trang )

BARACLUDE – Phần 2

B.Theo dõi sau khi Điều trị
Thời gian điều trị tối ưu bằng BARACLUDE chưa được biết. Theo các tiêu chuẩn
được quy định trong kế hoạch tiến hành khảo sát của các thử nghiệm lâm sàng ở
Giai đoạn 3, bệnh nhân được phép ngưng chữa trị bằng BARACLUDE hay
lamivudine sau 52 tuần tùy theo đáp ứng được quy định dựa vào sự ngăn chặn vi
rút HBV (< 0,7 Meq/mL do thử nghiệm b DNA) và sự mất HbeAg (nơi những
bệnh nhân có HbeAg dương tính) hay bình thường hóa ALT (<1,25XULN nơi
những bệnh nhân có HbeAg âm tính) vào Tuần thứ 48. Đối với 21% bệnh nhân
chưa dùng nucleoside, có HbeAg dương tính và được điều trị bằng BARACLUDE
đã đáp ứng với điều trị đến mức độ được quy định, mức đáp ứng có được duy trì
trong suốt 24 tuần theo dõi sau khi điều trị ở 82% bệnh nhân. Đối với 85% bệnh
nhân chưa dùng nucleoside, có HbeAg âm tính và được điều trị bằng
BARACLUDE đã đáp ứng với điều trị 48% bệnh nhân. Trong nhóm bệnh nhân
kháng lamivudine ít người đáp ứng được với điều trị đến mức quy định để được
ngưng điều trị. Các hướng dẫn quản lý bệnh nhân được quy định trong kế hoạch
tiến hành khảo sát không được coi như là hướng dẫn cho việc thực hành lâm sàng.
C.Các đối tượng đặc biệt
Khảo sát A1463038 là một khảo sát về BARACLUDE đa quốc gia, ngẫu nhiên,
mù đôi có đối chứng giả được trên 68 bệnh nhân nhiềm đồng thời HIV và HBV đã
bị nhiễm vi rút huyết HBV tái hồi trong khi chữa trị theo liệu pháp kháng
retrovirus hoạt tính cao (HAART) chứa thuốc lamivudine. Những bệnh nhân này
đã tiếp tục chế độ điều trị HAART chứa lamivudine (liều lamivudine 300mg/ngày)
và đã được chỉ định dùng thêm hoặc là BARACLUDE 1mg mỗi ngày một lần (51
bệnh nhân) hoặc là thuốc giả dược (17 bệnh nhân) trong 24 tuần, tiếp sau có một
giai đoạn điều trị bổ sung 24 tuần được gọi là open label phase (là giai đoạn mà
bệnh nhân biết mình được điều trị như thế nào) trong đó tất cả các bệnh nhân được
nhân được nhận BARACLUDE. Vào lúc bắt đầu khảo sát, các bệnh nhận có mức
HBV DNA trong huyết thanh trung bình theo PCR là 9,13 log10 bản sao/mL. Chín
mươi chín phần trăm bệnh nhân đều có HbeAg dương tính vào lúc bắt đầu, với


mức ALT trung bình là 71,5 U/L. Mức HIV PNA vẫn ổn định ở khoảng 2log10
bản sao/mL trong suốt 24 tuần nghiên cứu mù. Các điểm mốc về virut học và sinh
hóa ở Tuần thứ 24 được trình bày ở Bảng 6. Không có dữ liệu nào về những bệnh
nhân bị nhiễm đồng thời HIV/HBV mà không được điều trị bằng liệu pháp
lamivudine trước đó.
Bảng 6: Điểm mốc về virút học và sinh học vào Tuần thứ 24, khảo sát AI463038.
Baraclude
1mg*
n = 51
Placebo*

n = 17
HBV DNA**
Tỷ lệ không phát hiện được (< 300 bản sao/mL 6% 0
Thay đổi trung bình so v
ới trị số ban đầu (log10 bản
sao/mL)
-3,65*** +0,11
Bình thường hóa ALT (<=1X ULN) 34% 8%

* Tất cả bệnh nhân cũng được điều trị theo chế độ HAART với lamivudine.
** Thử nghiệm Roche COBAS Amplicor PCR (LLOQ = 300 bản sao/mL)
*** p < 0,0001.
IV.CHỐNG CHỈ ĐỊNH
BARACLUDE chống chỉ định ở các bệnh nhân có tiền sử quá mẫn cảm với
entecavir hay với bất cứ thành phần nào của thuốc.
V.CẢNH BÁO
Sự trầm trọng thêm của chứng viêm gan sau khi ngưng điều trị.
Đã có báo cáo về trường hợp bệnh viêm gan B trở nên trầm trọng cấp tính nơi
những bệnh nhân đã ngưng liệu pháp chống viêm gan B, kể cả điều trị với

entecavir. Chức năng gan với những bệnh nhân ngưng liệu pháp chống viêm gan B
nên được quan sát chặt chẽ bằng cách theo dõi cả về lâm sàng lẫn trong phòng thí
nghiệm trong vòng ít nhất là vài tháng. Nếu thích hợp, có thể nên thực hiện việc
bắt đầu điều trị viêm gan B
VI.THẬN TRỌNG
1.Thận trọng chung
Suy giảm Chức năng Thận.
Việc điều chỉnh liều lượng BARACLUDE được khuyến cáo đối với các bệnh nhân
có độ thanh lọc creatinin <50ml/phút, kể cả các bệnh nhân được thẩm phân máu
hoặc được thẩm phân phúc mạc liên tục ngoại trú (CAPD)
2.Thông tin dành cho bệnh nhân
Một phụ lục hướng dẫn bệnh nhân kèm theo bao bì (PPI) về BARACLUDE có sẵn
để hướng dẫn bệnh nhân.
Bệnh nhân phải được chăm sóc sức khỏe của họ thường xuyên trong khi dùng
BARACLUDE. Bệnh nhân nên thảo luận với bác sĩ của mình về chăm sóc sức
khỏa của họ thường xuyên trong khi dùng chung với BARACLUDE.
Bệnh nhân cần được hướng dẫn nên dùng BARACLUDE khi bụng đói (ít nhật là 2
giờ sau khi ăn và 2 giờ trước bữa ăn kế tiếp)
Bệnh nhân cần được cho biết là bệnh gan có thể xấu đi trong một vài trường hợp
nếu ngưng điều trị, và bệnh nhên nên thảo luận với bác sĩ của mình về bất cứ thay
đổi nào trong chế độ trị liệu.
Bệnh nhân cần được cho biết là rằng việc điều trị với BARACLUDE chưa chứng
tỏ là giảm được nguy cơ lây truyền HBV cho người khác qua tiếp xúc tình dục hay
lây nhiễm qua đường máu
3.Tương tác thuốc
Vì entecavir được thải chủ yếu qua thận nên việc dùng chung BARACLUDE với
các thuốc làm suy giảm chức năng thận hoặc các thuốc cạnh tranh với
BARACLUDE để được thải ở ống thận có thể làm gia tăng nồng độ trong huyết
thanh của entecavir hoặc của các thuộc được dùng chung.
Việc dùng đồng thời entecavir với lamivudine, adefovir dipovoxil, hoặc tenofovir

disoproxil fumarate không gây nên tương tác thuốc đáng kể. Hậu quả của việc
dùng chung BARCLUDE với các thuộc khác được đào thải qua thận hoặc được
biết là có ảnh hưởng đến chức năng thận hiện chưa được đánh giá, do đó bệnh
nhân nên được theo dõi chặt chẽ về các tác động có hại của thuốc khi
BARCLUDE được dùng chung với các loại thuốc này.
4.Tính Sinh Ung Thư, Gây Đốt Biến, Giảm Khả Năng Sinh Sản.
Nhiều cuộc khảo sát về tác dụng sinh ung thư do thuốc lâu dài bằng đường ống
trên loài chuột nhắt và chuột cống được thực hiện với mức phơi nhiễm thuốc là
khoảng gấp 42 lần (ở chuột nhắt) và khoảng gấp 35 lần (ở chuột cống) so với mức
phơi nhiễm được thấy ở người thì khi dùng liều entecavir cao nhất được đề nghị là
1mg/ngày. Trong các cuộc nhiên cứu thuốc entecavir trên chuột nhắt và chuột
cống, có kết quả cho thấy tác hại gây ung thư.
Ở chuộc nhắt, chứng u tuyến ở phổi gia tăng khi có mức phơi nhiễm thuốc gấp 3
lần (ở chuột đực) và gấp 40 lần (ở chuột cái) so với mức phơi nhiễm ở người. Ung
thư liên bào phổi ở cả chuột đực và chuột cái đều tăng khi có mức phơi nhiễm gấp
40 lần so với người. Chứng u tuyến kết hợp với ung thư liên bào gia tăng khi có
mức phơi nhiễm gấp 3 lần ở chuột đực và gấp 40 lần ở chuột cái so với người.
Sự phát triển của khối u được báo trước bằng sự tăng sinh tế bào phổi tại phổi.
Không có hiện tượng này khi nghiên cứu thuốc entecavir trên chuột cống, chó
hoặc khỉ. Điều này xác minh cho kết luận là các khối u ở phổi của chuột có thể là
một tai biến gan cũng gia tăng khi có mức phơi nhiễm gấp 42 lần so với người.
Chứng u mạch máu ở chuột cái (u mạch của buồng trứng và tử cung và sạc-côm
mạch ở lách) gia tăng khi có mức phơi nhiễm gấp 40 lần so với ở người.
Ở chuột cống, u tuyến tế bào gan tăng ở chuột cái khi có mức phơi nhiễm gấp 24
lần so với người, u tuyến kết hợp với ung thư liên bào gan cũng tăng ở chuột cái
khi có mức phơi nhiễm gấp 24 lần so với ở người. U thần kinh đệm ở não phát
sinh trong chuột đực ở mức phơi nhiễm gấp 35 lần và trong chuột cái ở mức gấp
24 lần so với người. U xơ ở da phát sinh ở chuột cái ở mức phơi nhiễm gấp 4 lần
so với người.
Người ta chưa biết được các kết quả khảo sát về tính gây ung thư ở loài gặm nhấm

có giá trị dự báo như thế nào đối với con người.
Entecavir là tác nhân làm vỡ vụn nhiễm sắc thể trong các mảnh nuôi cấy tế bào
lymphocyte người. Entecvir không gây đột biến trong thử nghiệm đột biến đảo
ngược vi khuẩn Ames, có sử dụng trực khuẩn S.typhimurium và E.coli và có hoặc
không có hoạt hóa sự chuyển hóa, cũng như không gây đột biến trong thử nghiệm,
gây đốt biến gen ở tế bào của động vật có vú và thử nghiệm gây biến đổi với tế
bào phôi của loài chuột hang Xy – Ri. Cho chuột nhắt uống entecavir, entecavir
cũng có kết quả âm tính trong khảo sát trên các nhân nhỏ và trên sự chỉnh sửa
DNA. Trong các khảo sát độc tính trên hệ sinh sản trong đó con vật được uống
entecavir với liều lên đến 300mg/kg trong tối đa 4 tuần, không có bằng chứng nào
cho thấy khả năng sinh sản bị suy giảm ở chuột đực hay chuột cái khi mức phơi
nhiễm >90 tuần so với mức phơi nhiễm ở người khi dùng liều cao nhất được đề
nghị là 1mg/1 ngày. Trong các khảo sát về tác dụng gây độc trên loài gặm nhấm
và chó, hiện tượng thoái hóa ống dẫn tinh được quan sát ở mức phơi nhiễm 35 lần
so với người. Không xảy ra biến đổi nào của tinh hoàn ở loài khỉ cả.
5.Mang thai
Các khảo sát về sinh sản đã được tiến hành trên chuột cống với liều entecavir lên
đến 200mg/kg/ngày, và trên thỏ với liều lên đến 16mg/kg/ngày và không cho thấy
có hiện tượng nhiễm độc nào ở phôi hay ở mẹ khi có mức phơi nhiễm toàn thân
gấp 28 lần và 212 lần so với mức phơi nhiễm ở người dùng liều cao nhất được đề
nghị là 1mg/ngày. Ở chuột cống, các hiện tượng nhiễm độc ở chuột mẹ, nhiễm độc
phôi thai (tiêu hủy phôi thai), giảm thấp thể trọng thai và dị dạng bất thường ở cột
sống và đuôi, giảm cốt hóa (ở đốt sống, đốt ức và đốt ngón), đốt sống dư ở thắt
lưng và xương sườn dư được quan sát thấy khi mức phơi nhiễm gấp 3100 lần so
với ở người.
Còn ở thỏ, hiện tượng nhiễm độc phôi thai (tiêu hủy phôi thai), giảm cốt hóa (ở
xương móng) và gia tăng tỷ lệ mọc xương sườn thứ 13 được quan sát thấy ở mức
phơi nhiễm gấp 883 lần so với ở người. Trong một khảo sát trong giai đoạn trong
khi và sau khi sinh, không thấy phản ứng bất lợi nào trên chuột thế hệ sau khi cho
chuột cống uống entecavir đến mức phơi nhiễm >94 lần so với ở người.

Chưa có các khảo sát thích đáng và được kiểm tra chặt chẽ nào trên phụ nữ mang
thai. Do các khảo sát về sinh sản ở loài vật không nhất thiết dự báo trước được các
đáp ứng ở người. Do đó BARCLUDE (entecavir) chỉ nên được dùng trong thai kỳ
khi thật sự cần thiết và sau khi đã cần nhắc kỹ về những nguy cơ và lợi ích của
thuốc.
Đăng ký Thai Kỳ: Để theo dõi hậu quả của bào thai của các sản phụ có dùng
entecavir, một Danh sách Đăng ký Thai kỳ đã được thiết lập. Các cơ sở cung cấp
dịch vụ chăm sóc sức khỏe được khuyến khích đăng ký cho bệnh nhân bằng cách
gọi số 1 -800-256-4263.
6.Chuyển dạ và Sinh đẻ.
Chưa có cuộc khảo sát nào trên các sản phụ và chưa có dữ liệu nào về tác dụng
của BARCLUDE đối với sự lây truyền HBV từ mẹ sang con. Do đó, các biện pháp
can thiệp thích hợp nên được sử dụng để phòng ngừa việc mắc phải HBV trong
gia đoạn sơ sinh.
7.Các bà mẹ cho con bú
Entecavir được bài tiết trong sữa của chuột cống. Người ta chưa biết được là loại
thuốc này có bài tiết trong sữa hay không. Các bà mẹ cần được hướng dẫn không
nên cho con bú sữa mẹ khi đang dùng BARCLUDE
8.Dùng cho Bệnh Nhi
Tính an toàn và hữu hiệu của entecavir trong điều trị cho bệnh nhi dưới 16 tuổi
chưa được xác lập.
9.Dùng cho Người già.
Các khảo sát lâm sàng về BARCLUDE không có đủ những đối tượng ở tuổi 65 trở
lên để có thể xác định xem có đáp ứng khác với những đối tượng trẻ hơn hay
không.
Entercavir được thải chủ yếu qua đường thận và nguy cơ nhiễm độc thuốc có thể
lớn hơn ở những bệnh nhân suy giảm chức năng thận. Do các bệnh nhận lớn tuổi
dễ có khả năng suy giảm chức năng thận hơn, vì thế nên thận trọng khi lựa chọn
liều lượng và việc theo dõi chức năng thận có thể có ích .
10.Dùng cho các Nhóm Chủng tộc/ Sắc tộc.

Các cuộc khảo sát lâm sàn về BARCLUDE không có đủ những đối tượng từ các
nhóm thiều số chủng tộc/sắc tộc (người da đen/người Mỹ gốc Phi, người gốc Tây
Ban Nha) để có thể xác định xem họ có đáp ứng với điều trị bằng thuốc này một
cách khác biệt hay không. Không có sự khác biệt đáng kể về chủng tộc đối với
entecavir về mặt dược động học.
VII.CÁC PHẢN ỨNG CÓ HẠI.
Việc đánh giá các phản ứng có hại dựa vào bốn cuộc khảo sát (AI463014,
AI463022, AI463026 và Ai463027) trên 1720 bệnh nhân bị nhiễm viêm gan
BARCLUDE mạn tính đã được điều mù đôi bằng BARCLUDE 0,5mg/ngày (n =
679). BARCLUDE 1mg/ngày (n = 183) hay lamivudine (n=858) trong tối đa 107
tuần. Thời gian trung bình của chế độ trị liệu là 54 tuần đối với các bệnh nhân điều
trị bằng BARCLUDE và 53 tuần đối với bệnh nhân trị liệu bằng lamividine trong
các khảo sát AI463022 và AI463027, và 69 tuần đối với các bệnh nhân điều trị
bằng BARCLUDE và 52 tuần đối với các bệnh nhân điều trị bằng lamivudine
trong các khả sát AI463026 và AI463014.
Các bảng phân tích về độ an toàn của BARCLUDE và lamivudine có thể so sánh
được trong các khảo sát này. Bảng phân tích về độ an toàn của BARCLUDE 1mg
(n=51) nơi những bệnh nhân bị nghiễm cùng lúc HIV/HBV có tham gia vào khảo
sát AI463038 củng tương tự như các bệnh nhân nhóm placebo (n = 17) trong giai
đoạn 24 tuần nghiên cứu mù và tương tự như bảng phân tích về các bệnh nhân
không bị nhiễm HIV.
Những tai biến phổ biến nhất nơi những bệnh nhân được điều trị với lamivudine là
nhức đầu, mệt mỏi và choáng váng. Một phần trăm bệnh nhân điều trị bằng
BARCLUDE trong bốn cuộc khảo sát này so với 4% bệnh nhân điều trị bằng
lamivudine đã ngưng điều trị vì các tai biến hay các kết quả xét nghiệm bất thường
trong phòng thí nghiệm
1.Các phản ứng Lâm sàng có hại.
Các tai biến lâm sàng ở mức độ trầm trọng trung bình được chọn lọc và được xem
như ít nhất là có khả năng liên quan đến điều trị trong suốt quá trình trị liệu trong
bốn cuộc khảo sát lâm sàng so sáng BARCLUDE với lamivudine được trình bày

trong Bảng 7.
Bảng 7: Các tai biến lâm sàng ở mức độ vừa nặng (cấp 2 -4) được báo cáo trong
bốn thử nghiệm lâm sáng với Entecavir.
Bệnh nhân ch
ưa dùng
Nucleoside**
Bệnh nhân kháng lamivudine*

Hệ thống c
ơ
thể/tai biến
Baraclude
0,5mg
n = 679
Lamivudine
100mg
n = 668
Baraclude
1mg
n = 183
Lamivudine
100mg
n = 190
Đường ruột
Tiêu chảy <1% 0 1% 0
Rối loạn tiêu hóa <1% <1% <1% 0
Buồn nôn <1% <1% <1% 2%
Ói mửa <1% <1% <1% 0
Tổng quát
Mệt mỏi 1% 1% 3% 3%

Hệ thần kinh
Đau đầu 2% 2% 4% 1%
Choáng váng <1% <1% 0 1%
Buồn ngủ <1% <1% 0 0
Tâm thần
Mất ngủ <1% <1% 0 <1%

*Bao gồm các tai biến có mối liên quan có thể, hầu như chắc chắn, chắc chắn hay
chưa được biết đối với chế độ trị liệu.
**Các khảo sát A1463022 và A1463027
***Bao gồm các khảo sát A1463026 và các nhóm điều trị bằng Baraclude 1mg và
lamivudine của khảo sát A1463014, là môt cuộc khảo sát giai đoạn 2, đa quốc gia,
ngẫu nhiên, mù đôi về ba liều lượng Baraclude (0,1, 0,5 và 1mg) dùng mỗi ngày
một lần so sánh với việc tiếp tục dùng 100mg lamivudine mỗi ngày 1 lần cho đến
52 tuần đối với các bệnh nhân bị nhiễm vi rút huyết nhiều trong khi điều trị bằng
lamivudime.
2.Các bất thường trong phòng thí nghiệm.
Tần số của những bất thường chọn lọc xuất hiện trong phòng thí nghiệm đã được
báo cáo trong quá trình trị liệu trong bốn cuộc thử nghiệm lâm sàng so sánh thuốc
Baraclude (entercavir) với lamivudine được liệt kê trong bảng 8.
Bảng 8: Những bất thường chọn lọc trong phìng thí nghiệm xuất hiện trong quá
trình điều trị “báo cáo trong bốn thử nghiệm lâm sàng với Entercavir.
Bệnh nhân chưa dùng

Nucleoside**
Bệnh nhân kháng
lamivudine***
Thử nghiệm
Baraclude


0,5mg
n= 679
Lamivudine

100mg
n = 668
Baraclude

1mg
n = 183
Lamivudine

100mg
n = 190
ALT > 10 x ULN và > 2 x tr
ị số ban
đầu
2% 4% 2% 11%
ALT > 5,0 x ULN 11% 16% 12% 24%
AST > 5,0 x ULN 5% 8% 5% 17%

Albumin < 2,5 g/dL < 1% < 1% 0 2%
Tổng lượng bilirubin > 2,5 x ULN 2% 2% 3% 2%
Amylase > 2,0 x ULN 2% 2% 3% 3%
Lipase > 2,0 x ULN 7% 6% 8% 7%
Creatinine > 3,0 x ULN 0 0 0 0
Gia tăng creatinin đư
ợc xác nhận
*** 0,5mg/dL
1% 1% 2% 1%

Tăng đư
ờng huyết, trong khi bụng
đói > 250mg/dL
2% 1% 2% 1%
Glucoza niệu*** 4% 3% 4% 6%
Huyết liệu*** 9% 10% 9% 6%
Tiểu cầu máu < 50.000/ mm3 < 1% < 1% < 1% < 1%

*Trị số của tất cả các thông số trong khi đang điều trị đã kém dần đi từ trị số ban
đầu xuống cấp 3 hay cấp 4, ngoại trừ trị số của albumin (luôn ở tầm < 2,5g/dL),
gia tăng creatinin được xác định, luôn 0,5mg/dL và nồng độ men ATL > 10 x
ULN và > 2 x trị số ban đầu.
**Các khảo sát A1463026 và các nhóm điều trị bằng Baraclude 1 –mg và
laminvudine của khảo sát A1463014, là một cuộc khảo sát giai đoạn 2, đa quốc
gia, ngẫu nhiên, mù đôi về ba liều lượng Baraclude (0, 1, 0, 5 và 1mg) dùng mỗi
ngày một lần so sánh với việc tiếp tục dùng 100mg lamivudine mỗi ngày một lần
cho đến 52 tuần đối với các bệnh nhân bị nhiễm vi rút huyết tái hồi trong khi điều
trị bằng lamivudine.
***Cấp 3 = 3+, lớn (tính luôn 500, 1000 > và 1000 cho glucoza – niệu); cấp 4 =
4+, 5+, rõ rệt, nghiêm trọng (tính luôn ++++, 4+: Nhiều cho huyết – liệu).
Trong số những bệnh nhân được điều trị bằng BARACLUDE trong các khảo sát
này. Sự tăng cao khi đang điều trị của nồng độ men ALT > 10 x ULN và 2 x trị số
ban đầu thường được giải quyết bằng cách tiếp tục điều trị. Phần lớn tình trạng
trầm trọng thêm đều có liên kết với sự giảm nồng độ vi rút trong máu a 2
log10/mL xẩy ra trước hay trùng với việc tăng nồng độ men ALT. Việc theo dõi
định kỳ chức năng gan được khuyến cáo trong suốt quá trình điều trị.
3.Sự Trầm Thêm của Bệnh Viêm gan sau khi Ngưng Điều trị
Trong các khảo sát Giai đoạn 3, một nhóm nhỏ bệnh nhân được phép ngưng chữa
trị ở tuần thứ 52 nếu đáp ứng với điều trị đến mức độ được quy định trong kế
hoạch tiến hành khảo sát. Sự trầm trọng thêm của viêm gan hay tình trạng men

ALT tăng cao được được định nghĩa là khi nồng độ men ALT > 10 x ULN và > 2
x trị số ban đầu cảu người bệnh. Như trình bày trong Bảng 9, một tỷ lệ bệnh nhân
trong cuộc khảo sát những người chưa được điều trị bằng nucleoside đã bị nồng độ
men ALT tăng cao sau khi ngưng điều trị.
Trong nhóm bệnh nhân kháng lamivudine, số người được phép ngưng điều trị rất
ít nên tỷ lệ người trong nhóm bệnh nhân này bị nồng độ men ALT tăng cao sau
điều trị không thể xác định được. Nếu ngưng điều trị bằng BARACLUDE
(entercavir) mà không lưu ý đến đáp ứng với điều trị thì tỷ lệ bệnh nhân bị nồng
độ men ALT tăng cao sau khi ngưng điều trị có thể còn cao hơn nữa.
Bảng 9: Sự trầm trọng thêm của Bệnh viêm gan trong quá trình theo dõi sau khi
ngưng điều trị ở các bệnh nhân chưa dùng nucleoside trong các khảo sát
A1463022 và A1466027
Bệnh nhân có tăng nồng độ men ALT > 10 x ULN v
à >
2 x trị số ban đầu
Baraclude Lamivudine
Bệnh nhân ch
ưa dùng
Nucleoside
25/431 (6%) 38/392 (10%)
HbeAg – dương tính* 2/134 (1%) 9/129 (7%)
HbeAg – âm tính* 23/297 (8%) 19/236 (11%)

*Thời gian trung bình để kết luận bệnh bị trầm trọng thêm sau khi ngưng trị liệu là
23 tuần đối với bệnh nhân được điều trị bằng Baraclude và 12 tuần đối với bệnh
nhân được điều trị bằng lamvudine.
**Thời gian trung bình để kết luận bệnh trầm trọng thêm sau khi ngừng trị liệu là
24 tuần đối với bệnh nhân được điều trị bằng Baraclude và 9 tuần đối với bệnh
nhân được điều trị bằng lamivudine.
VIII.QUÁ LIỀU

Không có báo cáo nào về việc dùng entecavir quá liều ở bệnh nhân. Những đối
tượng khỏe mạnh đã nhận entecavir liều đơn đến 40mg hay entecavir nhiều liều
đến 20mg/ngày trong hơn 14 ngày không bị gia tăng tỷ lệ xảy ra tay biến hay
không có tai biến đột xuất nào. Nếu có trường hợp dùng thuớc quá liều, bệnh nhân
phải được theo dõi xem có biểu hiện nào về sự nhiễm độc, và nếu cần thì phải áp
dụng phương pháp điều trị hỗ trợ chuẩn.
Sau khi dùng entecavir 1mg liều đơn, một cuộc thẩm tách máu trong vòng 4 giờ đã
loại khoảng 13% liều entecavir.
IX.LIỀU LƯỢNG VÀ CÁCH DÙNG
1.Liều lượng khuyến cáo
Liều lượng BARACLUDE được đề nghị cho bệnh nhân người lớn và vị thành niên
từ 16 tuổi trở lên bị nhiễm vi rút viêm gan B mạn tính và chưa dùng nucleoside là
0,5mg dùng một lần/ ngày.
Liều lượng BARACLUDE được đề nghị cho bệnh nhân người lớn và vị thành niên
( 16 tuổi) có tiền sử nhiễm vi rút huyết viêm gan B trong khi dùng lamivudine
hoặc được biết là có đột biến kháng thuốc lamivudine là 1mg dùng một lần/ ngày.
Bệnh nhân nên được dùng BARACLUDE khi bụng đói (ít nhất là 2 giờ sau khi ăn
và 2 giờ trước bữa ăn kế tiếp). Dung dịch uống BARACLUDE chứa chứa 0,05mg
entecavir/ ml. Do đó, 10ml dung dịch sẽ cung cấp một liều 0,5 mg và 20ml sẽ
cung cấp một liều 1 mg entecavir/ ml. Do đó, 10ml dung dịch sẽ cung cấp một liều
0,5 mg và 20ml sẽ cung cấp một liều 1 mg entecavir.
2.Suy giảm Chức năng Thận
Ở những bệnh nhân bị suy giảm chức năng thận, độ thanh lọc của entecavir qua
đường miệng giảm khi độ thanh lọc creatinin giảm . Việc điều chỉnh liều lượng
được khuyến cáo đối với những bệnh nhân có độ thanh lọc creatinin < 50ml/ phút,
kể cả những bệnh nhân đang được thẩm phân máu hay thẩm phân phúc mạc liên
tục ngoại trú (CAPD) như trình bày nơi Bảng 10.
Bảng 10: Liều lượng Baraclude được khuyến cáo đối với bệnh nhân suy giảm
chức năng thận.
Độ thanh lọc creatinin


(mL/min)
Liều thường dùng
(0,5mg)
Bệnh nhân kháng lamivudine

(1mg)
³ 50 0,5mg dùng một lần/ ngày

1mg dùng một lần/ngày
30 - < 50 0,25mg ngày một lần 0,5 mg dùng một lần/ ngày
10 - < 30 0,15mg ngày một lần 0,3mg dùng một lần/ ngày
< 10 0,05mg ngày một lần 0,1mg dùng một lần/ ngày
Lọc máu* hoặc CADP



* Dùng thuốc sau lọc máu
3.Suy giảm chức năng Gan
Không cần phải điều chỉnh liều lượng với bệnh nhân bị giảm chức năng gan
4.Thời gian điều trị.:
Thời gian điều trị tối ưu bằng Baraclude với những bệnh nhân bị nhiễm viêm gan
B mạn tính mà mối liên hệ giữa việc điều trị với các hậu quả dài hạn như là xơ gan
và ung thư liên tế bào gan chưa được biết.
X.CUNG CẤP NHƯ THẾ NÀO
BARACLUDE ® (entecavir) Viên nén và Dung dịch uống được bán ra theo các
hàm lượng khác nhau, chứa trong các loại chai nhựa an toàn trẻ em.
Hàm lượng và d
ạng
Mô tả Số

liều lượng lượng
Viên bao phim
0,5mg
Viên trắng đến trắng ngà, hình tam giác, m
ột mặt có
chữ “BMS” va mặt kia có số “1612”
30 viên

Viên bao phim 1mg Viên màu hồng, hình tam giác, m
ột mặt có chữ nổi
“BMS” và mặt kia có số “1612”
30 viên

Dung d
ịch uống
0,05mg/ml
Dung d
ịch nuớc pha sẵn, đựng trong chai 260ml,
hương vị cam, trong, không màu đến vàng nhạt
210ml

Dung dịch uống BARACLUDE là một sản phẩm pha sẵn, không nên hòa tan hoặc
pha lẫn với nuớc hay bất kỳ dung môi hay chất lỏng nào. Mỗi chai đựng dung dịch
này đều có kèm theo một cái muỗng định lượng có những vạch đơn vị là 1 ml đến
tối đa là 10 ml. Bệnh nhân cần được hướng dẫn để giữ cho muỗng vị trí thẳng
đường và đổi thuốc từ từ cho đến vạch tương ứng với liều lượng chỉ định. Sau mỗi
liều uống mỗi ngày, bệnh nhân được khuyến cáo nân rửa muỗng định lượng bằng
nước.
*Bảo quản.
Viên BARACLUDE nên được bảo quản trong hộp đậy kín ở nhiệt độ 250C

(770F), được phép mang ra ngoài ở nhiệt độ từ 15 – 300C (59 – 860F) [xem nhiệt
độ trong phòng có kiểm soát do USP qui định]. Đừng cho ánh sáng lọt vào khi cai
đã khui, dung dịch có thể sử dụng cho đến khi mãn hạn dùng ghi trên chai. Chai và
dung dịch bên trong nên được vứt bỏ khi hết hạn dùng.


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×