Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

CHỨNG ĐAU THẦN KINH TỌA - Phần III potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.72 KB, 7 trang )

CHỨNG ĐAU THẦN KINH TỌA
Phần III
CÁC YẾU TỐ GÂY NGUY CƠ
Trong đa số các trường hợp được biết đến, cơn đau nhức bắt đầu bằng một sự
thương tổn, thường là sau khi nâng một vật nặng, hoặc là sau khi di chuyển một
cách đột ngột. Tuy nhiên, không phải mọi người đều bị đau lưng sau khi bị thương
tổn như thế. Trong phần lớn các trường hợp bị đau lưng, các nguyên nhân gây ra
cơn đau thường không được nhận ra.

Tuổi tác
Các đĩa đệm bắt đầu bị thoái hóa và trở nên mỏng hơn vào tuổi 30. Một phần ba số
người trưởng thành trên 20 tuổi cho thấy những dấu hiệu bị thoát vị đĩa đệm (mặc
dù chỉ có 3% số đĩa đệm này gây ra các triệu chứng). Khi con người càng có tuổi
và các đĩa đệm bị khô dần và co lại, thì nguy cơ bị chứng hẹp cột sống càng gia
tăng. Tỉ lệ bị đau vùng thắt lưng và đau thần kinh tọa gia tăng ở phụ nữ vào thời
kỳ tắt kinh do bị loãng xương. Ở những người lớn tuổi, chứng loãng xương và
viêm xương khớp cũng khá phổ biến. Tuy nhiên, nguy cơ bị đau vùng thắt lưng
không luôn luôn đi kèm với tuổi tác, điều này cho thấy rằng ở một thời điểm nào
đó, các chứng bệnh gây đau vùng thắt lưng trở nên bão hòa.

Các Ngành Nghề Có Nhiều Nguy Cơ
Những công việc mà bao gồm nâng, khom lưng, và xoay ở những tư thế không
bình thường, cũng như những công việc mà gây ra trạng thái rung toàn thân (như
lái xe tải đường dài), sẽ làm cho những người làm những công việc này gặp những
nguy cơ đặc biệt mắc phải chứng đau vùng thắt lưng. Nếu một người làm công
việc này càng lâu, thì nguy cơ càng cao. Một số công nhân đeo đai lưng bảo vệ,
nhưng có chứng cứ rõ ràng cho thấy rằng những đai lưng bảo vệ này chỉ có hiệu
quả đối với những người hiện đang bị đau vùng thắt lưng. Những đai lưng này
không chịu được nhiều sức nặng cho lưng và không giúp ngăn cản được những
thương tổn về lưng.
Một số công ty đang phát triển những chương trình bảo vệ chống lại những thương


tổn về lưng. Tuy nhiên, các nghiên cứu không thống nhất về kết quả của những
biện pháp can thiệp của các công ty. Các chủ công ty và các công nhân nên cố
gắng tạo ra môi trường làm việc an toàn. Những nhân viên văn phòng nên dùng
những loại ghế, bàn, và những thiết bị mà chịu sức nặng cho lưng hoặc giúp duy
trì tư thế đúng cách.
Đau vùng thắt lưng giải thích cho những tổn thất nghiêm trọng về chi phí trả cho
những ngày nghỉ bệnh. Theo Cục Thống Kê Lao Động Hoa Kỳ (the Bureau of
Labor Statistics), đau lưng chịu trách nhiệm cho khoảng 60% các trường hợp nghỉ
bệnh do cơn đau từ phần thắt lưng trở lên. Một nghiên cứu năm 2004 đã phân tích
những chi tiêu về chăm sóc sức khỏe ở Hoa Kỳ. Sự phân tích này đã tìm thấy phí
tổn cho chứng đau lưng vượt quá 90 tỉ mỹ kim, trong đó 26 tỉ mỹ kim được chi
tiêu trực tiếp cho việc điều trị chứng đau lưng.



Normal bone: Xương bình thường
Osteoporotic bone: Xương bị loãng

Chứng loãng xương là một chứng bệnh đặc trưng bởi mật độ xương bị giảm đáng
kể, mô xương bị mỏng đi, rất dễ bị nứt (gãy) xương. Chứng loãng xương có thể là
kết quả của một chứng bệnh, do thiếu dinh dưỡng trong bữa ăn hoặc thiếu hooc
môn, hoặc do cao tuổi. Tập thể dục thường xuyên, sử dụng vitamin và các thực
phẩm chức năng có chứa khoáng chất có thể giúp giảm bớt hoặc đảo ngược quá
trình loãng xương.

Các Chứng Bệnh ở Trẻ Em
Chứng đau thắt lưng dai dẳng ở trẻ em có nhiều khả năng có một nguyên nhân
nghiêm trọng (mà cần được điều trị) hơn là chứng đau lưng ở những người trưởng
thành.
Những vết nứt nhỏ (thoái hóa đốt sống) ở cột sống là nguyên nhân phổ biến của

chứng đau lưng ở những vận động viên trẻ. Thỉnh thoảng một vết nứt (gãy) có thể
không xuất hiện trong 1 hoặc 2 tuần sau khi bị tổn thương. Thoái hóa đốt sống có
thể gây ra bệnh trượt đốt sống ra trước (spondylolisthesis), là một tình trạng trong
đó cột sống trở nên không ổn định và các đốt sống bị trượt khỏi nhau.
Tật tăng ưỡn cột sống (hyperlordosis) là một tình trạng ưỡn vào trong nghiêm
trọng bẩm sinh ở phần thắt lưng. Chứng vẹo cột sống (scoliosis), là tình trạng bị
uốn cong bất thường của cột sống ở trẻ em, thường không gây ra đau lưng.
Bệnh khớp mãn tính ở trẻ vị thành niên (Juvenile chronic arthropathy) là một dạng
do di truyền của viêm khớp. Nó có thể gây đau ở xương cùng và các khớp hông ở
trẻ em và những người trẻ. Chứng bệnh này từng được đưa vào nhóm bệnh viêm
khớp dạng thấp ở trẻ vị thành niên (juvenile rheumatoid arthritis), nhưng bây giờ
đã được tách ra.
Những chấn thương cũng có thể gây ra đau lưng ở trẻ em.

Mang Thai
Những phụ nữ mang thai có khuynh hướng bị đau lưng do sự thay đổi vị trí của
các cơ quan ở bụng, sự tái phân bố về phía trước của trọng lượng cơ thể, và sự nới
lỏng của các dây chằng ở vùng khung chậu khi cơ thể chuẩn bị cho việc sinh đẻ.
Những phụ nữ có vóc dáng cao lớn có nhiều nguy cơ bị đau lưng hơn những phụ
nữ thấp người.

Các Yếu Tố Tâm Lý và Xã Hội
Các yếu tố tâm lý được biết đến là đóng một vai trò khá quan trọng trong 3 giai
đoạn của cơn đau vùng thắt lưng:
• Một số chứng cứ cho thấy chứng trầm cảm từng tồn tại và thiếu khả năng đối
phó có thể có nhiều khả năng dự đoán sự khởi phát của cơn đau hơn là những vấn
đề về thể chất. Một kiểu đối phó mang tính “bị động” (không muốn đối diện với
các vấn đề) có liên quan mật thiết với nguy cơ phát triển tình trạng vùng cổ bị mất
khả năng hoạt động hoặc bị đau vùng thắt lưng.
• Những yếu tố xã hội và tâm lý, cũng như sự thỏa mãn trong công việc, tất cả đều

đóng một vai trò quan trọng về mức độ nghiêm trọng trong cảm nhận của mỗi
người về đau lưng. Ví dụ, có một nghiên cứu đã so sánh những tài xế xe tải và
những tài xế xe buýt. Hầu như tất cả các tài xế xe tải đều hài lòng với công việc
của họ. Một nửa trong số họ báo cáo là bị đau lưng nhưng chỉ có 24% số tài xế xin
nghỉ bệnh. Ngược lại, các tài xế xe buýt báo cáo tỉ lệ thỏa mãn với công việc thấp
hơn nhiều so với các tài xế xe tải, và những tài xế xe buýt bị đau lưng có tỉ lệ nghỉ
bệnh cao hơn nhiều so với các tài xế xe tải mặc dù các tài xế xe buýt ít bị áp lực ở
lưng hơn. Tương tự, một nghiên cứu khác đã tìm thấy rằng các phi công, là những
người thường báo cáo là “yêu thích công việc của họ”, đã báo cáo là rất ít bị các
vấn đề về lưng hơn các nhân viên khác trong phi hành đoàn của họ. Và thêm một
nghiên cứu nữa báo cáo rằng chức vị thấp, ít quan hệ xã hội, và luôn ở trạng thái
căng thẳng ở những người lính có liên quan đến nhiều nguy cơ bị đau lưng mất
khả năng hoạt động.
• Trầm cảm và một khuynh hướng phát triển những tình trạng bộc lộ cơn đau về
thể chất để phản ứng lại stress cũng làm gia tăng khả năng mà đau lưng cấp tính sẽ
trở nên một chứng bệnh mãn tính. Cách thức mà một bệnh nhân cảm nhận và đối
phó với cơn đau nhức vào lúc bắt đầu cơn bộc phát cấp tính có thể thực sự tạo điều
kiện cho bệnh nhân hoặc là hồi phục hoặc là phát triển thành tình trạng mãn tính.
Những cá nhân mà có phản ứng quá mạnh mẽ đối với cơn đau và lo sợ kết quả lâu
dài có khuynh hướng cảm thấy mất kiểm soát và trở nên mất tự tin, như vậy làm
gia tăng nguy cơ bị những vấn đề có tính dài hạn.
Các nghiên cứu cũng cho thấy rằng những bệnh nhân bị trầm cảm kéo dài thì ít có
được những kết quả khả quan sau những cuộc giải phẫu lưng. Cần hết sức lưu ý
rằng sự hiện diện của các yếu tố tâm lý không có cách nào làm giảm bớt được hiện
thực của cơn đau và những hiệu ứng làm tê liệt chức năng hoạt động do cơn đau
gây ra.
Tuy nhiên, nhận thức được sự hiện diện này như một vai trò quan trọng trong
nhiều trường hợp bị đau vùng thắt lưng có thể giúp xác định được toàn bộ phạm vi
của những chọn lựa trong việc điều trị.

×