Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Ảnh hưởng từ những biến động trên TT dầu mỏ TG đến TT VN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.47 KB, 40 trang )

Lời mở đầu
1. Tính tất yếu của việc nghiên cứu đề tài
Nhận định chung cho rằng thế kỷ XIX là thế kỷ của than, thế kỷ XX là thế kỷ
của dầu mỏ và trong những thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, chắc chắn loại nhiên
liệu không thể tái sinh đợc này vẫn cha thể bị thay thế bởi khí đốt, than, thuỷ
điện, năng lợng hạt nhân, năng lợng gió, mặt trời, địa nhiệt, bởi hơn 80%
năng lợng hiện nay đợc tạo ra bởi dầu mỏ.
Trong số các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam, mặt hàng dầu thô (dầu mỏ
cha qua tinh chế) là một mặt hàng xuất khẩu chủ lực, luôn chiếm vị trí số một
về giá trị kim ngạch xuất khẩu (tổng trị giá xuất khẩu của toàn bộ nền kinh tế
Việt Nam tính từ tháng 1 đến tháng 10 năm 2004 là 21331 triệu USD thì xuất
khẩu dầu thô đạt 4600 triệu USD - tơng đơng 39,26% tổng trị giá kim ngạch
xuất khẩu). Dự báo trong những năm tới mặt hàng dầu thô sẽ là một trong
những mũi nhọn xuất khẩu của Việt Nam. Việc khai thác và xuất khẩu hiệu
quả mặt hàng này sẽ mang lại rất nhiều lợi ích cho các doanh nghiệp Việt
Nam, tăng doanh thu xuất khẩu cho đất nớc.
Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, thị trờng dầu thô thế giới biến động
không ngừng do nhiều nguyên nhân khác nhau, do vậy làm ảnh hởng rất
nhiều tới tình hình xuất khẩu dầu thô của Việt Nam. Giá dầu trên thế giới
biến động lúc tăng, lúc giảm tạo ra những thuận lợi và cả những khó khăn cho
hoạt động xuất khẩu dầu của Việt Nam. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài
Những biến động trên thị trờng dầu mỏ thế giới và ảnh hởng của nó tới hoạt
động xuất khẩu dầu mỏ của Việt Nam để tận dụng những thuận lợi, khắc
phục khó khăn, tạo điều kiện cho hoạt động xuất khẩu dầu thô một cách hiệu
quả nhất là một tất yếu khách quan.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu những biến động trên thị trờng dầu mỏ thế giới, nguyên
nhân của những biến động, đồng thời chỉ ra những thuận lợi và khó khăn mà
biến động đó tạo ra cho hoạt động xuất khẩu dầu mỏ của Việt Nam. Từ đó đa
ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu mặt hàng này.
3. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu


- Đối tợng nghiên cứu là thị trờng dầu mỏ thế giới, đặc điểm cũng nh những
biến động trên thị trờng này; những thuận lợi và khó khăn của xuất khẩu dầu
mỏ Việt Nam do sự biến động này tạo ra.
- Phạm vi nghiên cứu là hoạt động xuất khẩu dầu mỏ của Việt Nam từ năm
1991 trở lại đây, đặc biệt là trong những năm gần đây: 2003 và 2004.
4. Phơng pháp nghiên cứu
Vận dụng phơng pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử kết hợp với
thống kê, phân tích để từ đó rút ra các kết luận làm cơ sở đa ra các giải pháp
làm cơ sở cho việc nghiên cứu.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài lời mở đầu, kết luận và phụ lục tham khảo, đề tài gồm những phần
sau:
Ch ơng I: Tổng quan chung về dầu mỏ và thị trờng dầu mỏ
Ch ơng II : Tác động của sự biến động thị trờng dầu mỏ thế giới đối với hoạt
động xuất khẩu dầu mỏ của Việt Nam
Ch ơng III : Các giải pháp nâng cao híệu qủa hoạt động xuất khẩu dầu mỏ của
Việt Nam trớc biến động trên thị trờng dầu mỏ thế giới
Chơng I: Tổng quan chung về dầu mỏ và
thị trờng dầu mỏ
I. Dầu mỏ và ngành công nghiệp dầu mỏ
1. Khái niệm dầu mỏ
Dầu mỏ là một loại tài nguyên khoáng sản quý mà thiên nhiên ban tặng cho
con ngời. So với các khoáng sản khác nh: than đá, đồng, chì, nhôm, sắt thì dầu
mỏ đợc con ngời biết đến và sử dụng tơng đối muộn hơn.
Dầu mỏ là hợp chất hydrocacbon đợc khai thác lên từ lòng đất, thờng ở thể
lỏng và thể khí. ở thể khí, chúng bao gồm khí thiên nhiên và khí đồng hành.
Khí thiên nhiên là toàn bộ hydrocacbon ở thể khí khai thác từ giếng khoan bao
gồm cả khí ẩm và khí thô. Khí đồng hành là khí tự nhiên nằm trong các vỉ dầu
dới dạng mũ khí hoặc khí hoà tan và đợc khai thác đồng thời với dầu thô. Trong
bảng tuần hoàn Menđêleep, các nguyên tố cacbon và hydro có đặc tính kỳ diệu

là trong các điều kiện nhiệt độ và áp suất khác nhau chúng kết hợp và tạo thành
những hợp chất hydrocacbon khác nhau. Loài ngời đã sớm biết sử dụng đặc tính
quý giá này để phục vụ nhu cầu cuộc sống của mình.
Có nhiều lý thuyết giải thích việc hình thành dầu mỏ. Theo lý thuyết tổng
hợp sinh học đợc nhiều nhà khoa học đồng ý, dầu mỏ phát sinh từ những xác
chết của các sinh vật ở đáy biển, hay từ các thực vật bị chôn trong đất. Khi thiếu
khí ôxy, bị đè nén dới áp suất và ở nhiệt độ cao các chất hữu cơ trong các sinh
vật này đợc chuyển hoá thành các hợp chất tạo nên dầu. Dầu tích tụ trong các
lớp đá xốp, do nhẹ hơn nớc nên dầu đã chuyển dần dần lên trên cho đến khi gặp
phải các lớp đá không thẩm thấu thì tích tụ lại ở đấy và tạo thành mỏ dầu.Cuối
thế kỷ XIX, nhà hoá học ngời Nga Menđêleep đã đa ra lý thuyết vô cơ giải
thích sự hình thành của dầu mỏ. Theo lý thuyết này, dầu mỏ phát sinh từ phản
ứng hoá học giữa cacbua kim loại với nớc tại nhiệt độ cao ở sâu trong lòng đất
tạo thành các hiđrôcacbon và sau đó bị đẩy lên trên. Các vi sinh vật sống trong
lòng đất qua hàng tỷ năm đã chuyển chúng thành các hỗn hợp hiđrocacbon
khác nhau. Lý thuyết này là một đề tài gây nhiều tranh cãi trong giới khoa học.
Dầu mỏ là loại khoáng sản năng lợng, có tính linh động cao. Sau nữa,
chúng có bản chất sinh thành, di c và tích tụ gần giống nhau. Giống nh nhiều
loại tài nguyên khoáng sản khác, dầu mỏ đợc hình thành do kết quả quá trình
vận động phức tạp lâu dài hàng triệu năm về vật lý, hoá học, địa chất, sinh
học trong vỏ trái đất. Thông th ờng dầu mỏ sau khi khai thác có thể xử lý, tàng
trữ và xuất khẩu ngay.
2. Vai trò của dầu mỏ
Dầu mỏ cùng với các loại khí đốt đợc coi là Vàng đen, đóng vai trò quan
trọng trong đời sống kinh tế toàn cầu. Đây cũng là một trong những nguyên liệu
quan trọng nhất của xã hội hiện đại dùng để sản xuất điện và cũng là nhiên liệu
của tất cả các phơng tiện giao thông vận tải. Hơn nữa dầu mỏ cũng đợc sử dụng
trong công nghiệp hoá dầu để sản xuất các chất dẻo và nhiều sản phẩm khác.
Dầu mỏ mang lại lợi nhuận siêu ngạch cho các quốc gia và dân tộc trên thế
giới đang sở hữu và tham gia trực tiếp kinh doanh nguồn tài nguyên trời cho

này.
Hiện nay, trong cán cân năng lợng, dầu mỏ vẫn giữ vai trò quan trọng nhất so
với các dạng năng lợng khác. Cùng với than đá, dầu mỏ cùng các loại khí đốt
khác chiếm tới 90% tổng tiêu thụ năng lợng toàn cầu.
Không ít các cuộc chiến tranh, các cuộc khủng hoảng kinh tế và chính trị có
nguyên nhân sâu xa từ các hoạt động cạnh tranh sản xuất kinh doanh trong lĩnh
vực dầu mỏ. Không phải ngẫu nhiên mà giá cổ phiếu của các công ty sản xuất
kinh doanh dầu mỏ biến động tuỳ thuộc rất lớn vào những kết quả tìm kiếm
thăm dò của chính các công ty đó trên thế giới. Lợi dụng hiện tợng biến động
này, không ít các những thông tin không đúng sự thật về các kết quả thăm dò
dầu mỏ đợc tung ra làm điêu đứng những nhà đầu t chứng khoán trên lĩnh vực
này, thậm chí làm khuynh đảo cả chính sách của các quốc gia.
Đối với nớc ta, vai trò và ý nghĩa của dầu khí nói chung trong đó có dầu mỏ
càng trở nên quan trọng trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá. Không chỉ là vấn đề thu nhập kinh tế đơn thuần, trong những năm
qua dầu mỏ đã góp phần đáng kể vào ngân sách quốc gia, làm cân đối hơn cán
cân xuất nhập khẩu thơng mại quốc tế, góp phần tạo nên sự phát triển ổn định
nớc nhà trong những năm đổi mới đất nớc.
Hơn thế nữa, với sự ra đời của dầu mỏ đã giúp chúng ta chuyển sang thế chủ
động trong việc thu hút vốn đầu t trực tiếp, tiếp thu công nghệ hiện đại của nớc
ngoài, phát triển ngành nghề dịch vụ, giải quyết công ăn việc làm. Đồng thời,
dầu mỏ có thể chủ động đảm bảo cung cấp nhiên liệu cho các ngành kinh tế
quốc dân, cung cấp nhiên liệu cho các ngành công nghiệp khác.
3. Ngành công nghiệp dầu mỏ
Thứ nhất, ngành công nghiệp dầu mỏ là một ngành mang tính tổng hợp và đa
dạng cao. Ngành này cũng đòi hỏi vốn đầu t rất lớn, rủi ro nhiều và lợi nhuận
cao. Thông thờng, khi đầu t vào một lô tìm kiếm thăm dò, các công ty phải bỏ
ra hàng trăm triệu đôla Mỹ. Nếu kết quả tìm kiếm, thăm dò không đạt kết quả
(thờng xác suất xảy ra điều này rất cao), số tiền đầu t coi nh mất trắng. Các sự
cố trong khi khai thác, vận chuyển dầu thờng gây những tổn thất vô cùng lớn.

Sự cố chìm giàn khoan dầu P - 36 ngoài khơi Braxin tháng 3 - 2001 vừa qua đã
gây tổn thất tới 450 triệu đôla Mỹ cho Công ty Petrobras. Vì vậy các công ty
dầu mỏ thờng liên minh để giảm thiểu rủi ro và một khi phát hiện dòng dầu
công nghiệp, thì họ càng khai thác càng nhanh càng tốt để sớm thu hồi vốn đầu
t.
Thứ hai, ngành công nghiệp dầu mỏ cũng là ngành công nghệ cao và là con
đẻ của ngành công nghiệp nặng. Tiến bộ kỹ thuật trong các lĩnh vực thăm dò,
khoan, khai thác, xây dựng công trình biển có nhiều b ớc nhảy vọt . Có thể nói,
ngành công nghiệp dầu mỏ nói riêng và công nghiệp dầu khí noi chung đang sử
dụng những công nghệ hiện đại nhất trong tất cả các lĩnh vực và đang là ngành
dẫn đầu trong phát triển và ứng dụng các công nghệ ngày càng tiên tiến hơn.
Thứ ba, công nghiệp dầu mỏ là một ngành mang tính quốc tế cao, khác với
than đá trớc đây, việc thăm dò, khai thác, chế biến và phân phối dầu khí đã
nhanh chóng mang tính toàn cầu. Có lẽ, hiện tợng toàn cầu hoá xảy ra sớm nhất
trong ngành này. Trong quá trình phát triển của mình, đặc biệt nhất là trong
thập kỷ vàng, các hoạt động dầu khí chủ yếu đợc tiến hành thông qua các hợp
đồng ký giữa các công ty đa quốc gia với nớc chủ nhà có nguồn tài nguyên dầu.
Có nhiều dạng hợp đồng đã đợc sử dụng, nhng phổ biến và vẫn còn ý nghĩa cho
tới ngày nay là dạng hợp đồng phân chia sản phẩm. Điều khoản cơ bản của
dạng hợp đồng này là nhà đầu t (các công ty dầu mỏ) đồng ý tiến hành mọi hoạt
động tìm kiếm, thăm dò bằng nguồn tài chính của riêng mình. Nếu có phát hiện
thơng mại, nhà đầu t tiếp tục chi cho các hoạt động phát triển, khai thác. Lợng
dầu khí khai thác lên sau khi nộp cho thuế tài nguyên sẽ đợc chia theo tỷ lệ sản
lợng cho nớc chủ nhà. Để san sẻ rủi ro và đảm bảo lợi nhuận ổn định, ngoài việc
liên minh, liên kết trong các hợp đồng phân chia sản phẩm, hầu hết các công ty
dầu mỏ có chiến lợc phát triển theo mạng đầu t ở nhiều nơi, nhiều nớc và theo
chiều dọc.
Trong quá trình thực hiện các hợp đồng phân chia sản phẩm, các nớc sở hữu
dầu mỏ nhận thấy rằng cần phải giảm thiểu sự phụ thuộc vào các công ty đa
quốc gia, tiếp cận trực tiếp với ngành công nghiệp này và đảm bảo an ninh năng

lợng cho mình vì thế các công ty dầu mỏ ở các quốc gia ra đời. Quá trình
chuyển giao năng lợng trong ngành này từ các nớc phát triển sang các nớc đang
phát triển đã diễn ra mạnh mẽ. Nhờ đó các công ty dầu mỏ quốc gia này ngày
càng tham gia tích cực hơn vào thị trờng dầu mỏ quốc tế. Nhiều công ty đã tiến
hành hoạt động xuất khẩu và đầu t rất có hiệu quả.
Một đặc điểm nữa của công nghiệp dầu mỏ là luôn tồn tại sự biến động về
giá dầu thô và sản phẩm buộc các tập đoàn phải có những giải pháp tổ chức áp
dụng các tiến bộ kỹ thuật, nghiên cứu ứng dụng và phát triển, để tạo thế cạnh
tranh về môi trờng địa chất, địa lý, về giá thành thăm dò, khai thác, vận chuyển,
chế biến, lợi nhuận.
4. Khai thác và xuất khẩu dầu mỏ
Suốt từ năm 1858 đến năm 1960, mọi hoạt động dầu mỏ đợc thực hiện chủ
yếu ở các vùng thuộc châu Mỹ, Trung Đông và một số vùng khác. Các tập đoàn
t bản đã nhanh chóng nắm bắt khai thác nguồn năng lợng mới này để khống chế
chi phí và thu lợi nhuận tối đa. Hoạt động xuất khẩu dầu mỏ đầu tiên đợc thực
hiện tại nớc Nga (1884) và sự phát hiện vùng dầu Texas vào cuối thế kỷ XIX,
những năm đầu thế kỷ XX Venuezela bắt đầu khai thác dầu, đến chiến tranh thế
giới lần hai thì về cơ bản giá dầu đã ở mức từ 5 - 7 USD/1thùng. Cuối năm
1960, Tổ chức các nớc xuất khẩu dầu mỏ OPEC ra đời, từ đó lấy lại thế bình
quân trong cạnh tranh và chi phối giá cả, lợi nhuận dầu khí trên toàn thế giới và
cũng đặt nền móng cho hoạt động xuất khẩu dầu khí của các quốc gia - một
hoạt động mang lại rất nhiều lợi nhuận cho các quốc gia.
Tuỳ theo nguồn tính toán, trữ lợng dầu mỏ thế giới vào khoảng từ 1148 tỉ
thùng (theo BP Statistical Review 2004) đến 1260 tỉ thùng (theo Oeldorado
2004 của Exxon Mobil). Trữ lợng dầu mỏ tìm thấy và có khả năng khai thác
mang lại hiệu quả kinh tế với kỹ thuật hiện đại đã tăng lên trong những năm gần
đây và đạt mức cao nhất vào năm 2003. Ngời ta dự đoán rằng trữ lợng dầu mỏ
sẽ đủ dùng cho 50 năm nữa.
Việt Nam đợc xếp vào các nớc xuất khẩu dầu mỏ là từ năm 1991, khi sản lợng
khai thác mới đạt vài ba triệu tấn. Đến nay, sản lợng dầu khí khai thác và xuất

khẩu hàng năm đã đạt hơn hai chục triệu tấn. Công việc khai thác đã từng bớc
đợc hoàn thiện.
II. Thị trờng dầu mỏ thế giới
1. Đặc điểm thị trờng dầu mỏ thế giới
Thị trờng dầu mỏ thế giới là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch, mua bán về
dầu mỏ giữa các quốc gia trên khắp thế giới. Nó có những đặc điểm chung song
cũng có những điểm hết sức khác biệt so với các thị trờng khác.
Thứ nhất, đây là một thị trờng lớn do nhu cầu phong phú, đa dạng về dầu mỏ
của các quốc gia trên khắp thế giới. Trong khi mà các nguồn tài nguyên không
thể tái sinh ngày càng cạn kiệt và những nguồn năng lợng khác cha thể thay thế
đợc vai trò chiến lợc của dầu mỏ thì nhu cầu về dầu mỏ vẫn ngày một tăng với
một số lợng lớn các giao dịch mua bán dầu mỏ giữa các quốc gia, các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu trên thế giới.
Thứ hai, thị trờng dầu mỏ còn hết sức nhạy cảm với những biến động về kinh
tế, chính trị trên toàn cầu từ đó dẫn đến những biến động trên chính thị trờng
dầu mỏ. Chỉ cần xảy ra một sự bất ổn định về mặt chính trị của một trong những
quốc gia xuất khẩu dầu nh là sự căng thẳng về chính trị tại Nigieria hay các
hoạt động phá hoại của lực lợng chống đối tại iraq, sự bất ổn các nguồn cung từ
Nga (vụ Yukos) cũng có thể làm chao đảo thị trờng dầu mỏ mà điển hình là sự
tăng giá dầu đến mức kỷ lục vào tháng 10/2004.
Thứ ba, thị trờng dầu mỏ thế giới chịu sự chi phối rất lớn của tổ chức OPEC.
Các quyết định, chính sách của OPEC về cung cầu dầu mỏ cũng nh giá dầu đều
có tác động rất lớn đến thị trờng dầu mỏ thế giới. Chẳng hạn nh khi OPEC ra
quyết định cắt giảm sản lợng vào tháng 4/2004, ngay lập tức thị trờng đã có
những phản ứng và biến động khác nhau trớc quyết định này. Trên các thị trờng
kỳ hạn, giá dầu có xu hớng giảm nhẹ ngay sau khi OPEC cắt giảm sản lợng do
các nhà giao dịch bán ồ ạt các hợp đồng kỳ hạn để kiếm lợi. Ngày 1/4/2004, giá
dầu thô tại thị trờng New York giao tháng 5 giảm 1,49 USD xuống còn 34,27
USD/1 thùng nhng sau đó giá dầu lại tiếp tục tăng mạnh trên các thị trờng giao
dịch. Bảng 1 sẽ cho ta thấy sự biến động giá xăng dầu sau quyết định cắt giảm

sản lợng của OPEC.
Bảng 1: Biến động giá xăng dầu sau quyết định cắt giảm sản lợng
của OPEC
Đơn vị: USD/thùng
Ngày 02/04 Ngày 08/04 Ngày 16/04
Tại sở giao dịch hàng hoá New York
Dầu thô, kỳ hạn
- Giao tháng 5/2004 34,39 36,15
- Giao tháng 6/2004 33,87 35,60 36,99
- Giao tháng 7/2004 33,44
Tại sở giao dịch dầu lửa quốc tế
London
Dầu thô Bren biển Bắc, kỳ hạn
Dầu thô, kỳ hạn
- Giao tháng 5/2004 30,02 32,45
- Giao tháng 6/2004 30,02 32,26 33,64
- Giao tháng 7/2004 29,84
Giá sản phẩm dầu tại thị trờng
Singapore, FOB Singapore
- Xăng 97 RON 46,95-47,05 45,70-45,80
- Xăng 95 RON 43,65-43,75 43,55-43,65
Nguồn: Viện nghiên cứu Bộ Thơng mại
2. Tổ chức các nớc xuất khẩu dầu mỏ OPEC
Thị trờng dầu mỏ thế giới chịu sự chi phối và phụ thuộc rất nhiều vào tổ chức
xuất khẩu dầu mỏ OPEC. Đây là một tổ chức đa chính phủ đợc thành lập bởi
các nớc iran, I-rắc, Kwait, ả Rập Saudi và Venezuela trong hội nghị tại Baghda
(từ ngày 10 tháng 9 đến 14 tháng 9 năm 1960). Các thành viên gồm Qatar
(1961), Nam Dơng (1962), LiBi (1962). Các tiểu vơng quốc ả Rập thống nhất
(1967), Algeria (1969) và Nigeria (1971) lần lợt gia nhập tổ chức sau đó.
Ecuador (1973 - 1992) và Gabon (1975 - 1994) cũng từng là thành viên của

OPEC. Trong năm năm đầu tiên đặt trụ sở cuả OPEC tại Geneve, Thuỵ Sĩ, sau
đó chuyển về Viên, áo từ tháng 9/1965. Các nớc thành viên OPEC khai thác
vào khoảng 40% tổng sản lợng dầu thế giới và nắm giữ khoảng 3/4 trữ lợng dầu
thế giới.
OPEC có khả năng điều chỉnh hạn ngạch khai thác dầu của các nớc thành
viên và qua đó có khả năng khống chế giá dầu trên thị trờng thế giới. Hội nghị
các bộ trởng phụ trách vấn đề năng lợng và dầu mỏ thuộc tổ chức OPEC đợc tổ
chức mỗi năm hai lần nhằm đánh giá thị trờng dầu mỏ và đề ra các biện pháp
phù hợp để đảm bảo việc cung cấp dầu trên thị trờng dầu mỏ thế giới. Bộ trởng
các nớc thành viên thay nhau theo nguyên tắc xoay vòng làm chủ tịch của tổ
chức hai năm một nhiệm kỳ.
Mục tiêu chính thức đợc ghi vào hiệp định thành lập OPEC là ổn định thị tr-
ờng dầu thô, bao gồm các chính sách khai thác dầu, ổn định giá dầu thế giới và
ủng hộ về mặt chính trị cho các thành viên khi bị các biện pháp cỡng chế vì các
quyết định của OPEC. Nhng thật ra nhiều biện pháp đợc đề ra lại có động cơ bắt
nguồn từ quyền lợi quốc gia, thí dụ nh trong cơn khủng hoảng dầu, OPEC đã
không tìm cách hạ giá dầu mà lại duy trì chính sách cao giá trong thời gian dài.
Mục tiêu của OPEC thật ra là một chính sách dầu chung nhằm để giữ giá.OPEC
dựa vào việc phân bổ hạn ngạch cho các thành viên để điều chỉnh lợng khai thác
dầu, tạo ra khan hiếm hoặc d dầu giả, thông qua đó có thể có thể tăng, giảm
hoặc giữ giá dầu ổn định. Có thể coi OPEC nh là một liên minh độc quyền luôn
tìm cách giữ giá dầu ở mức có lợi nhất cho mình. OPEC giữ một vị trí quan
trọng nhất trên thị trờng dầu mỏ thế giới. Các mốc chính đánh dấu hoạt động
của OPEC.
* 14/9/1960: thành lập tổ chức OPEC theo đề xuất của Venezuela tại
Baghdad.
* 1965: Dời trụ sở về Viên. Các thành viên thống nhất một chính sách khai
thác chung để bảo vệ giá.
* 1970: Nâng giá dầu lên 30%., nâng thuế tối thiểu áp dụng cho các công
ty khai thác dầu lên 55% của lợi nhuận.

* 1971: Nâng giá dầu sau khi thơng lợng với các tập đoàn khai thác. Tiến
tới đạt tỷ lệ quốc gia hoá 50% các tập đoàn.
* 1973: Tăng giá dầu từ 2,89 USD một thùng lên 11,65USD. Thời gian này
đợc gọi là cuộc khủng hoảng dầu lần thứ nhất, OPEC khai thác 55% lợng dầu
của thế giới.
* Từ 1974 đến 1978: tăng giá dầu 5-10% hầu nh mỗi nửa năm một lần để
chống lại việc USD bị lạm phát.
* 1979: Khủng hoảng dầu lần thứ hai. Sau cuộc cách mạng Hồi giáo, giá
dầu từ 15,5 USD/1 thùng đợc nâng lên 24USD. Lybia, Algeria và iraq thậm chí
đòi đến 30 USD cho một barrel.
* 1980: Đỉnh điểm chính sách cao giá của OPEC. Lybia đòi 41 USD, ả
Rập Saudi đòi 32 USD và các nớc thành viên còn lại là 36 USD cho một thùng
dầu.
* 1981: Lợng tiêu thụ dầu giảm do các nớc công nghiệp lâm vào cuộc
khủng hoảng kinh tế và bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng dầu lần thứ nhất, do giá
dầu cao, nhiều nớc trên thế giới đầu t vào các nguồn năng lợng khác. Lợng tiêu
thụ dầu trên thế giới giảm 11% trong thời gian từ năm 1979 đến 1983, thị phần
dầu của OPEC trên thị trờng giảm còn 40%.
* 1982: Quyết định cắt giảm sản lợng sản xuất tuy đợc thông qua nhng lại
không đợc các thành viên giữ đúng. Thị phần của OPEC giảm xuống còn 33%
và vào năm 1985 còn 30% trên tổng số lợng khai thác dầu trên thế giới. Lợng
khai thác dầu giảm xuống mức kỷ lục là 17,43 triệu thùng một ngày.
* 1983: Giảm giá dầu từ 34 USD xuống 29 USD/1 thùng. Giảm hạn ngạch
khai thác từ 13,5 triệu xuống 16 triệu thùng một ngày.
* 1986: Giá dầu rơi xuống đến dới 10 USD một thùng do sản xuất d thừa
và do một số nớc trong OPEC giảm giá dầu.
* 1990: Giá dầu đợc nâng lên trong tầm từ 18 đến 21 USD/1 thùng. Nhờ
vào chiến tranh vùng vịnh giá dầu đạt đến mức đề ra.
* 2000: Giá dầu đã dao động mạnh, vợt qua cả hai mức thấp và cao nhất
trong lịch sử. Nếu trong quý I, chỉ với 9 USD ngời ta cũng có thể mua đợc một

thùng dầu thì trong quý IV giá đã vợt trên 37 USD/thùng. Các nớc thành viên
của OPEC đồng ý giữ giá dầu ở mức 22-28 USD/thùng.
* 1/2005: OPEC quyết định giữ nguyên lợng khai thác 27 triệu thùng. Các
thành viên đã nhất trí tạm ngng không giữ giá dầu ở mức 22-28 USD/thùng.
3. Những biến động trên thị trờng dầu mỏ thế giới
Kể từ khi có ngành công nghiệp dầu khí đến nay, với khởi đầu Công nghiệp
dầu khí Mỹ, rồi khi Nga bắt đầu xuất khẩu dầu (1884), và phát hiện vùng dầu
Texas vào cuối thế kỷ XIX, những năm đầu thế kỷ XX Venezuala bắt đầu khai
thác dầu, đến chiến tranh thế giới lần thứ hai thì về cơ bản giá dầu cũng chỉ ở
mức từ 5 - 7 USD/1 thùng. Từ thập kỷ 70 của thế kỷ XX đã liên tiếp xảy ra
nhiều cuộc khủng hoảng giá dầu. Đặc biệt trong những năm gần đây giá dầu thế
giới luôn ở mức cao, gây ra sự biến động trên thị trờng dầu mỏ đặc biệt là từ
năm 2004 đến nay.
Từ năm 1948 đến những năm cuối 1960, giá dầu trung bình của thế giới chỉ
dao động từ 2,5 - 3 USD/1 thùng. Sự ra đời của các nớc thành viên OPEC đảm
bảo cho sự ổn định về giá dầu. Cú sốc giá dầu lần thứ nhất bắt đầu vào cuối
tháng 10/1973 khi Syria và Ai Cập tấn công isarel. Mỹ và các nớc phơng tây đã
hỗ trợ mạnh cho isarel. Trả đũa cho hành động này, hàng loạt các nớc xuất khẩu
dầu trong khối arab đã cấm vận xuất dầu cho các nớc thân với isarel. Họ đã cắt
giảm lợng dầu sản xuất từ 5 triệu thùng một ngày xuống còn một triệu thùng.
Kết quả là trong vòng 6 tháng, giá dầu thế giới đã tăng 400%. Từ năm 1972 -
1978, giá dầu dao động từ 12 - 14 USD/1 thùng so với giai đoạn trớc chỉ có 3
USD/1 thùng. Lần biến động tiếp theo đợc châm ngòi bằng cuộc chiến tranh
giữa iran và iraq năm 1979. Kết quả là lợng dầu sản xuất của hai quốc gia này
sụt giảm. Giá dầu lập tức tăng từ 14 USD/1 thùng năm 1978 lên 38 USD/1
thùng năm 1981, tức tăng 271%. Cú sốc giá dầu thứ ba xảy ra vào giai đoạn
iraq tấn công Kuwait năm 1990 - 1991. Giá dầu từ mức 20 USD/1 thùng đã tăng
lên 35 USD/1 thùng vào tháng 10/1990.
Lần giá dầu tăng vọt gần đây là vào năm 2002. Theo dõi diễn biến giá dầu
thô từ đầu năm 2002 đến nay, nếu bỏ qua các thăng giáng đột xuất, ngắn ngày,

thì khuynh hớng chung là tăng tuyến tính theo thời gian đặc biệt là biến động
tăng giá dầu trong những năm gần đây. Giá dầu thị trờng thế giới vào tháng
1/2003 là khoảng 32 USD/1 thùng, đến tháng 1/2004 là 34 USD/1 thùng và cứ
tăng dần.
Bảng 2: Sự biến động giá dầu từ năm 2003 đến 2004
Đơn vị: USD/1 thùng
Loại dầu
2003 (Quý) 8 tháng 2004 (Tháng)
Q1 Q2 Q3 Q4 T1 T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8
Dầu nhẹ - rập 28 23 26 27 28 27 28 29 30 32 35 40
Dầu Brent 29 26 28 29 30 31 32 33 34 38 41 45
Dầu WTI (Mỹ) 29 34 30 32 34 35 36 38 40 42 44 48
Nguồn: Viện nghiên cứu Bộ Thơng mại
4. Nguyên nhân của biến động
Giá dầu thô cùng với những sản phẩm của nó có những vị trí hết sức quan
trọng. Khi giá dầu lên cao có thể gây thiệt hại to lớn cho nền kinh tế các nớc và
tác động đến nền kinh tế toàn cầu nói chung, làm cho thơng mại và đầu t quốc
tế suy giảm. Bối cảnh kinh tế nói chung khi giá dầu tăng hiện nay rất khác so
với những cơn sốt giá dầu trớc đây, tất cả đều xảy ra đồng thời với với hiện tợng
phát triển bùng nổ kinh tế do nhiều nền kinh tế hoạt động quá nóng. Biến động
của giá dầu do nhiều nhân tố nh nhân tố chính trị và sự bất ổn trên thế giới với
yếu tố tâm lý, là những nhân tố có tác động mạnh, còn nhân tố cung cầu là nhân
tố quyết định sự biến động giá dầu trên thị trờng thế giới.
Nhân tố quyết định gây nên sự biến động trên thị trờng mỏ chính là nhân tố
cung cầu. Cung dầu thô ngày càng hạn chế do dầu thô là nguồn tài nguyên
không tái tạo đợc. Hiện nay trên thế giới đang diễn ra hàng loạt các tranh luận
gay gắt về tình trạng cạn kiệt dầu. Trong những năm gần đây, các mỏ mới và
lớn, phát hiện ngày càng ít dần, trong lúc các mỏ đang khai thác thì đang đi vào
giai đoạn đỉnh điểm của hoặc đang chuyển sang giai đoạn kết thúc. Theo thông
báo của Trung tâm phân tích tình trạng cạn kiệt dầu có trụ sở ở London, thì năm

2000 có 13 mỏ mới đợc phát hiện với trữ lợng 500 triệu thùng trở lên, năm 2001
giảm xuống còn 6 mỏ, năm 2002 phát hiện 2 mỏ và đến năm 2003 chỉ còn 1 mỏ
thuộc tầm cỡ nói trên. Các mỏ có trữ lợng trên 500 triệu thùng cung cấp đến
80% sản lợng dầu tiêu thụ trên thị trờng thế giới, do đó hiện tợng cạn kiệt dầu
trở thành một nguy cơ đối với toàn cầu.Trong khi đó, nhu cầu tiêu thụ dầu
không ngừng gia tăng, đặc biệt ở những nớc đang phát triển, nhất là Trung
Quốc và ấn Độ. Và từ năm 2003, Mỹ đã tăng mức dự trữ dầu thô chiến lựoc lên
đến 700 triệu thùng, cũng làm cho nhu cầu sử dụng dầu trên thế giới tăng lên.
Để đảm bảo an ninh năng lợng, các nớc công nghiệp đều lo dự trữ dầu và tìm
cách khống chế các nguồn cung dầu bằng các biện pháp quân sự, gây bất ổn
định chính trị xã hội.
Những tác động về mặt kinh tế toàn cầu cũng có ảnh hởng không nhỏ đến sự
biến động của giá dầu. Nền kinh tế thế giới ngày càng tăng trởng mạnh. Cùng
với việc tăng trởng, thì nhu cầu sử dụng dầu thô cũng tăng theo; đặc biệt là nhu
cầu dầu thô của Trung Quốc, Mỹ và ấn Độ trong đó Trung Quốc chiếm đến
40% lợng dầu tăng của toàn thế giới. Năm 2003, Trung Quốc đã vợt Nhật Bản
và trở thành quốc gia thứ hai tiêu thụ dầu thô trên thế giới, sau Mỹ. Nhìn chung
các nguồn năng lợng của Trung Quốc tơng đối phong phú nhng chủ yếu là than
đá, còn dầu mỏ và khí đốt là để phục vụ nhu cầu trong nớc vẫn còn thiếu hụt.
Trong 10 năm qua mức tiêu thụ dầu mỏ của Trung Quốc tăng khoảng 6%/năm
trong khi sản lợng dầu chỉ tăng 1,5%. Chính sách truyền thống về tự cung tự cấp
dầu mỏ nay đã trở thành dĩ vãng. Là nớc nhập khẩu lớn thứ hai trên thế giới sau
Mỹ và chiếm 40% mức tăng tiêu thụ dầu mỏ thế giới, hàng ngày Trung Quốc
nhập khẩu khoảng hai triệu thùng, tơng đơng 270.000 tấn. Chính phủ Trung
Quốc dự báo đến năm 2030, con số này sẽ tăng lên 9,8 triệu thùng, tơng đơng
1,35 triệu tấn. Đến năm 2020, theo nh cam kết tăng gấp bốn lần GDP hiện nay
tại Đại hội Đảng thứ XVI, Trung Quốc sẽ nhập khẩu khoảng 250 triệu tấn dầu
mỗi năm và trở thành quốc gia nhập khẩu dầu lớn nhất trên thế giới.
Bên cạnh đó, chính trị cũng là một nhân tố rất quan trọng gây nên sự biến
động trên thị trờng dầu mỏ. Trớc mắt, chính trị dầu mỏ không phải liên quan

đến vấn đề thế giới sẽ thiếu dầu mà liên quan đến sự ra đời và ảnh hởng ngày
càng tăng của Tổ chức các nớc xuất khẩu dầu mỏ OPEC đối với nền kinh tế thế
giới, tình hình bất ổn ở Trung Đông và các cuộc xung đột, tranh chấp biên giới,
lãnh thổ ở các khu vực hiện nay đặc biệt ở các khu vực có trữ lợng dầu lớn.
Cuối cùng, tâm lý lo ngại cũng là một trong những nguyên nhân gây nên sự
biến động tăng của giá dầu. Tâm trạng lo ngại, sự lo lắng của giới kinh doanh
về sự biến động giá dầu có thể phần nào đợc tạo ra bởi sự đầu cơ, đã kéo dài
cơn sốt giá của thị trờng dầu mỏ thế giới.
5. Kinh nghiệm của các nớc trớc sự biến động giá dầu
Giá dầu cao tác động tiêu cực đến toàn bộ nền kinh tế thế giới, hạn chế tốc đô
tăng trởng, làm cho đời sống khó khăn và theo sau đó là những lộn xộn về chính
trị xã hội. Các nớc xử lý vấn đề này tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội và
tình hình tài nguyên mỗi nớc.
Các nớc OPEC chủ trơng giữ giá dầu cao một cách hợp lý theo lý luận của họ
bằng cách điều chỉnh sản lợng chi để mức cung xấp xỉ mức cầu. Khung giá dầu
thô của OPEC hiện nay là 22 - 28 USD/thùng, nhng vì đồng USD mất giá nên
xu hớng sắp tới sẽ là 30 - 35USD/1 thùng. Với biện pháp này OPEC vừa đảm
bảo có thu nhập cao vừa giữ đợc nguồn tài nguyên mà họ tin rằng sau vài chục
năm nữa, vai trò của họ trên thị trờng dầu khí sẽ là tuyệt đối.
Các nớc sản xuất và xuất khẩu dầu nhỏ hơn thì hoặc là tranh thủ khai thác để
tăng nguồn thu, hoặc là hạn chế khai thác trong nớc, mở rộng đầu t khai thác ở
nớc ngoài, phụ thuộc vào nhu cầu ngân sách. Chủ trơng tăng cờng khai thác để
xuất khẩu chứa một nguy cơ tiềm ẩn, bởi vì sau này họ sẽ là những nớc nhập
khẩu với giá dầu cao hơn gấp nhiều lần. Do vậy, các nớc có tiềm năng tài chính
thì phát triển chế biến trong nớc để xuất khẩu sản phẩm lọc dầu, hạn chế tối đa
xuất sản phẩm thô.
Các nớc công nghiệp phát triển và các nớc thiếu dầu khí thì chủ trơng đa
dạng hoá nguồn cung, đa dạng hoá nguồn nhiên liệu (sử dụng điện, hydro thay
xăng hoặc sản xuất xăng dầu từ khí đốt, than đá ), tiết kiệm năng l ợng kể cả
đánh thuế cao, nhằm hạn chế nhu cầu sử dụng, đồng thời đầu t nghiên cứu các

nguồn năng lợng mới. Để giữ cho giá xăng dầu nội địa ít biến động, các nớc
này rất tích cực lập kho dự trữ chiến lợc, đặc biệt là Mỹ, mục tiêu dầu dự trữ
phải đủ dùng trong 9 tháng, Trung Quốc mục tiêu này là 3 tháng.
Chơng II: Tác động của sự biến động thị trờng
dầu mỏ thế giới đối với hoạt động xuất khẩu
dầu mỏ của Việt Nam.
I. Thực trạng xuất khẩu dầu mỏ của Việt Nam
1. Khai thác dầu mỏ ở Việt Nam
Công tác tìm kiếm thăm dò dầu mỏ trên đất liền miền Bắc đã bắt đầu từ
những năm 60 của thế kỷ trớc và thực sự đợc mở rộng ra toàn lãnh thổ và lãnh
hải Việt Nam từ sau ngày đất nớc thống nhất. Ngày 26/6/1986 đã đánh dấu sự
bắt đầu của ngành công nghiệp khai thác dầu khi mỏ Bạch Hổ (thuộc thềm lục
địa phía Nam, ngoài khơi tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) đã khai thác dòng dầu đầu
tiên và chính thức đa Việt Nam vào danh sách các nớc xuất khẩu dầu thô từ năm
1991. Điều đặc biệt quan trọng mang tính bớc ngoặt là vào năm 1988 đã khẳng
định nguồn trữ lợng dầu lớn tích tụ trong đá móng granít nứt nẻ và đã đợc khai
thác. Từ đó đến nay, móng granít nứt nẻ thuộc mỏ Bạch Hổ luôn đóng vai trò
chủ lực trong khai thác dầu của Việt Nam. Với việc phát hiện và đa vào khai
thác dầu từ móng granít nứt nẻ tại mỏ Bạch Hổ, ngành dầu khí Việt Nam chẳng
những đã chứng tỏ đợc sự lớn mạnh của mình mà còn mang đến cho nền công
nghiệp dầu thế giới những quan điểm hết sức mới mẻ về việc tìm kiếm, thăm
dò, khai thác dầu trong đá móng granít nứt nẻ, một đối tợng mà từ trớc đến nay
thờng ít đợc chú ý.
Sau gần 30 năm hoạt động, sản lợng trung bình ngày trong năm 2004 là 400
nghìn thùng (53 nghìn tấn) dầu thô. Điều này đã đa Việt Nam trở thành quốc gia
đứng thứ ba về sản xuất và xuất khẩu dầu trong khu vực. Hiện tại, trên thềm lục địa
và đất liền của nớc ta có các mỏ Bạch Hổ, Rồng, Đại Hùng, Rạng Đông, Hồng
Ngọc, S Tử Đen, Cái Nớc, Bunga Kekwa, Bunga Raya, Bunga Seroja, Lan Tây và
Tiền Hải C đang khai thác. Cho tới thời điểm hết tháng 10/2004, tổng sản lợng
khai thác đợc là 16,95 triệu tấn dầu thô đạt 97,5% kế hoạch năm. Nhà sản xuất dầu

mỏ lớn nhất trên cả nớc là Vietsopetro, công ty liên doanh giữa Petro Việt Nam và
Zarubezhneft của Nga.
2. Tình hình xuất khẩu dầu mỏ của Việt Nam
Do cha có nhà máy lọc dầu trong nớc, nên từ năm 1986 đến nay Việt Nam
chủ yếu xuất khẩu dầu thô - sản phẩm dầu mỏ song cha qua tinh chế. Theo
dòng thời gian, sau Bạch Hổ, dầu thô khai thác từ những mỏ khác cũng lần lợt
đợc đa vào thị trờng thế giới. Năm 1994, từ mỏ Đại Hùng đã có dầu thô xuất
khẩu, đây là những sản phẩm đầu tiên có sự hợp tác với các công ty dầu khí ph-
ơng tây, khi đó là công ty BHPP của australia. Tiếp đến năm 1997, ta có xuất
khẩu dầu thô từ mỏ PM3 - CAA, năm 1998 từ hai mỏ Rạng Đông và Ruby và
năm 2003 có thêm hai mỏ nữa có dầu đó là mỏ S Tử Đen và mỏ Cái Nớc.
Việt Nam đợc xếp vào các nớc xuất khẩu dầu mỏ là từ năm 1991 khi sản lợng
khai thác mới đạt vài ba triệu tấn. Đến nay, hàng năm sản lợng dầu khai thác và
xuất khẩu của Việt Nam đã đạt hai chục triệu tấn. Tổng số dầu thô xuất khẩu
của Việt Nam tính đến năm 2004 đạt khoảng trên 160 triệu tấn với doanh thu
trên 30 tỷ USD.
Bảng 3: Xuất khẩu dầu thô của Việt Nam từ 1991 - 2000
Đơn vị: triệu tấn
Năm Sản lợng
1991 2078,1
1992 2580,7
1993 2985,2
1994 4054,3
1995 5448,9
1996 7255,9
1997 9185,0
1998 9360,3
1999 11540,0
2000 14308,0
Nguồn: Tổng cục thống kê

Việt Nam đứng thứ 31 trong số các quốc gia xuất khẩu dầu mỏ về sản lợng
dầu xuất ra so sánh với các quốc gia khác trên thế giới và khu vực. Dầu thô giữ
vị trí số một trong xuất khẩu song kim ngạch xuất khẩu phụ thuộc nhiều vào
biến động giá cả trên thị trờng quốc tế. Năm 2002, giá dầu ít biến động so với
năm 2002 và kim ngạch xuất khẩu chỉ tăng 4,6% chủ yếu nhờ vào tăng sản lợng
khai thác. Đến năm 2003 sản lợng xuất khẩu dầu thô đạt 17169 nghìn tấn với
tổng giá trị xuất khẩu là 3777 triệu USD. Hoạt động thăm dò, khai thác và sản
xuất dầu thô trong năm 2003 tiến triển tốt, dầu thô khai thác đạt 17,34 triệu tấn,
tăng 2,8% so với cùng kỳ năm trớc. Trong năm 2004, ngành dầu khí Việt Nam

×