Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Bài giảng Môi trường mỏ Nguyễn Thu Thùy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (798.73 KB, 80 trang )

BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG CAO ĐẲNG CÔNG NGHIỆP & XÂY DỰNG

BÀI GIẢNG MÔN HỌC
MÔI TRƯỜNG MỎ
Dùng cho hệ Cao đẳng chuyên nghiệp
(Lưu hành nội bộ)
Người biên soạn: Nguyễn Thu Thùy
Uông Bí, năm 2010
LỜI NÓI ĐẦU
Con người đang tồn tại trên Trái đất, trong một môi trường thiên nhiên tự
cân bằng và ổn định sau hàng tỷ năm phát triển, với một hệ thống các quần thể
liên quan chặt chẽ với nhau như không khí, nước, đất đai, các động vật, thực
vật,… Sự rối loạn của bất kỳ một bộ phận nào đó trong hệ thống cũng có thể gây
ra những hậu quả nghiêm trọng, hoặc nhanh chóng hoặc từ từ, đối với bộ phận
khác, đối với chính bản thân hoặc đối với toàn hệ thống.
Trong những năm cuối của thế kỷ XX, con người nhận được những tín
hiệu báo động từ môi trường: thời tiết thay đổi bất thường, thiên tai liên tục xảy
ra trên nhiều vùng của Trái đất, bệnh tật và nhiều hình thái ô nhiễm tấn công sức
khẻo của cộng đồng nhân loại,… Nguyên nhân chính là do bầu không khí ngày
càng bị ô nhiễm, lớp khí thải CO
2
ngày càng dày đặc và đã tạo ra hiệu ứng nhà
kính làm Trái đất nòng lên, nguồn nước cũng bị ô nhiễm, cảnh quan thiên nhiên
bị biến dạng, rừng bị tàn phá nặng nề, sự đa dạng của sinh học ngày càng thu
hẹp….làm thay đổi địa hình bề mặt mà trong đó ảnh hưởng do các hoạt động
khai thác mỏ cũng không phải là nhỏ.
Sự phát triển của ngành mỏ trong những năm qua không chỉ nhờ vào sự
phát triển vượt bậc cảu khoa học kỹ thuật mà còn nhờ vào sự rộng lớn bao la của
bề mặt Trái đất. Ngaỳ nay, khi con người đã có ý thức cao hơn về bảo vệ môi
trường thì những hoạt động khai thác mỏ ngày càng bị ràng buộc bởi nhiều điều


kiện khắt khe không chỉ về kinh tế kỹ thuật mà còn về khía cạnh bảo vệ môi
trường.
Tuy các hoạt động khai thác mỏ không phải là tác nhân chính trong việc
làm suy giảm môi trường sinh thái, nhưng cũng có ảnh hưởng trực tiếp và đáng
kể đến sự thu hẹp diện tích đất đai canh tác và thảm thực vật, làm biến động
dòng chảy đầu nguồn cũng như chất lượng của nguồn nước ngầm và nước mặt,
gây ồn và bụi, gây chấn động nền móng công trình, phá vỡ cảnh quan thiên
nhiên… Bởi vậy đánh giá tác động môi trường do hoạt động khai thác mỏ là
thực sự cần thiết cho việc xây dựng những giải pháp công nghệ và kỹ thuật,
nhằm hạn chế và khắc phục những hậu quả làm suy giảm môi trường do hoạt
động động khai thác mỏ.
Chương I
NHỮNG KHÁI NIỆM VỀ HỆ SINH THÁI VÀ MÔI TRƯỜNG
1.1. Khái niệm về hệ sinh thái
1.1.1. Khái niệm
Sinh vật và thế giới vô sinh xung quanh có quan hệ mật thiết với nhau,
thường xuyên có tác động qua lại và được đặc trưng bằng các dòng năng lượng
tạo nên cấu trúc dinh dưỡng xác định. Sự đa dạng về loài và chu trình tuần hoàn
vật chất trong một hệ thống gọi là hệ sinh thái.
Như vậy, hệ sinh thái là một hệ chức năng bao gồm quần xã của cơ thể
sống và môi trường của chúng
1.1.2. Thành phần của hệ sinh thái
Về cơ cấu hệ sinh thái có 6 thành phần và chia làm hai nhóm sau:
- Thành phần vô sinh: bao gồm các chất vô cơ ( C, N, CO
2
, H
2
O, O
2
) tham

gia vào chu trình tuần hoàn vật chất, các chất hữu cơ ( protein, gluxit, lipit,
mùn…), chế độ khí hậu ( nhiệt đới ánh sáng, độ ẩm và các yếu tố vật lý khác).
- Thành phần hữu sinh: bao gồm các sinh vật sản xuất (cây xanh), sinh vật
lớn tiêu thụ hoặc sinh vật ăn sinh vật, sinh vật bé tiêu thụ hoặc các sinh vật hoại
sinh (chủ yếu là vi khuẩn và nấm).
1.1.3. Cấu trúc hệ sinh thái
Cấu trúc dinh dưỡng của hệ sinh thái nó được đặc trưng bởi xích thức ăn
trong hệ. Các xích thức ăn kết hợp với nhau tạo thành mạng lưới thức ăn. Ví dụ:
Cây xanh là bậc dinh dưỡng đầu tiên (sơ cấp)  động vật ăn cỏ là bậc dinh
dưỡng thứ cấp  động vật ăn thịt sẽ ăn các động vật ăn cỏ là bậc dinh dưỡng
thứ ba v.v.  sinh vật hoại sinh là bậc phân hủy cuối cùng.
1.1.4. Các quá trình chính trong hệ sinh thái
Hệ sinh thái là đơn vị chức năng của sinh thái học, vì nó bao gồm cả sinh
vật và môi trường vô sinh (hình 1.1).
Trong hệ sinh thái thường xuyên có vòng tuần hoàn vật chất đi từ môi
trường ngoài vào cơ thể các sinh vật, từ sinh vật này sang sinh vật khác, rồi lại
từ sinh vật ra môi trường bên ngoài. Vòng tuần hoàn này được gọi là vòng sinh
địa hóa. Có vô số vòng tuần hoàn vật chất, trên các hình 1.2, hình 1.3 và hình
1.4 giới thiệu một số vòng tuần hoàn vật chất của các nguyên tố C, P, N.
Dòng năng lượng xảy ra đồng thời với vòng tuần hoàn vật chất ở hệ sinh
thái, năng lượng cung cấp cho tất cả các hệ sinh thái trên trái đất là năng lượng
mặt trời. Khác với vòng tuần hoàn vật chất, năng lượng không được tái sử dụng
mà phát tán, mất đi dưới dạng nhiệt. Vòng tuần hoàn của vật chất là vòng kín
còn dòng năng lượng là vòng hở.
Các yếu tố vô sinh
( Đất, nước, chất vô cơ, chất hữu cơ, khí hậu …)
Dòng vật chất
Dòng năng lượng
CO
2

Vi sinh vật hóa tổng hợp
Hô hấp và lên men
Thực vật xanh (SV tự
dưỡng)
Sự cháy
Động vật (SV dị dưỡng)
Than đá
Dầu lửa
Hình 1.2- Vòng tuần hoàn Cacbon
Thực vật
Động vật
Vi khuẩn
Khoáng hóa do vi khuẩn
Phốt phát hòa tan PO
4
Quang hợp
chất hữu cơ
Trầm tích
đáy biển

Chim
Phân
chim
Đá trầm tích
Hóa thạch
Hình 1.3- Vòng tuần hoàn Phôt pho
N
2
Không khí
Phân chim

Chim

Thực vật nổi
Động vật
Chất hữu
cơ chết
Hợp chất
tồn đọng
NO
3
Thực vật
Hệ sinh thái có thể phân chia theo nhiều tiêu chuẩn khác nhau, cụ thể là:
- Theo quy mô: Hệ sinh thái nhỏ ( ví dụ một bể nuôi cá cảnh, một phòng
thí nghiệm…); hệ sinh thái trung bình ( một thị trấn, một cái hồ, một khu rừng,
…); hệ sinh thái lớn ( ví dụ như một đại dương, một thành phố lớn, ….).
- Theo bản chất hình thành: hệ sinh thái tự nhiên ( ví dụ như ao, hồ, đồng
cỏ, …) và hệ sinh thái nhân tạo ( ví dụ như làng xóm, thành phố, công viên, …)
- Theo điều kiện môi trường: hệ sinh thái tự nhiên và hệ sinh thái nhân văn.
Hệ sinh thái tự nhiên bao gồm 3 môi trường và tài nguyên chính: đất đai,
nước lục địa và biển, biển ven bờ.
Hệ sinh thái nhân văn bao gồm 2 môi trường chính: môi trường đô thị và
môi trường nông thôn.
1.1.5. Sự cân bằng của hệ sinh thái
Các thành phần của hệ sinh thái luôn luôn bị tác động của các yếu tố môi
trường, được gọi là các yếu tố sinh thái. Các yếu tố này được chia làm ba loại:
các yếu tố vô sinh, các yếu tố sinh vật và các yếu tố nhân tạo.
Các yếu tố vô sinh ( nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, áp suất, khí quyển, v.v )
tạo nên điều kiện sống cho sinh vật và ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự
tồn tại và phát triển của chúng.
Các yếu tố sinh vật đặc trưng bằng các dạng quan hệ hoặc tác động qua lại

giữa các sinh vật.
Các yếu tố nhân tạo là các hoạt động của con người (trong công nghiệp,
trong nông nghiệp, v.v…) tác động trực tiếp lên hoạt động sống của sinh vật
hoặc làm thay đổi điều kiện sống của chúng.
Cân bằng sinh thái là trạng thái ổn định trong đó các thành phần sinh thái ở
điều kiện cân bằng tương đối và cấu trúc toàn hệ không bị thay đổi. Dười tác
động của các yếu tố sinh thái, mức độ ổn định này có thể thay đổi.
Các hệ sinh thái tự nhiên đều có khả năng tự điều chỉnh riêng. Nhờ đó các
hệ sinh thái tự nhiên giữ được ổn định mỗi khi chịu tác động của nhân tố ngoại
cảnh. Tuy nhiên, sự tự điều chỉnh của hệ sinh thái có giới hạn nhất định. Nếu
thay đổi vượt quá gới hạn này, hệ sinh thái sẽ mất khả năng tự điều chỉnh và hậu
quả là chúng bị phá hủy.
Ô nhiễm môi trường là một hiện tượng xảy ra do hoạt động của con người
dẫn đến sự thay đổi các yếu tố sinh thái vượt quá giới hạn sinh thái của cá thể,
quần thể và quần xã, …
Xử lý ô nhiễm có nghĩa là đưa các yếu tố sinh thái trở về giới hạn sinh thái
của cá thể, quần thể và quần xã. Muốn xử lý được ô nhiễm cần phải biết được
cấu trúc và chức năng của hệ sinh thái và các nguyên nhân làm cho các yếu tố
sinh thái vượt quá giới hạn thích ứng. Đây là nguyên lý cơ bản được vận dụng
vào việc bảo vệ môi trường và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên.
1.2. Môi trường
1.2.1. Các định nghĩa
- Định nghĩa 1: Môi trường là tập hợp các thành phần vật chất vô cơ, sinh
vật và con người cùng tồn tại và phát triển trong một không gian và thời gian
nhất định. Giữa chúng có sự tương tác với nhau theo nhiều chiều mà tổng hòa
các mối tương tác đó sẽ quyết định lên chiều hướng phát triển của toàn bộ hệ
môi trường.
- Định nghĩa 2 ( Theo luật môi trường của Việt Nam năm 1994 ): Môi
trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và các yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ mật
thiết với nhau bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống sản xuất, sự tồn

tại, phát triển của con người và thiên nhiên.
- Định nghĩa 3 ( Luật sửa đổi năm 2005): Môi trường bao gồm các yếu tố
tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống
sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật.
- Định nghĩa 4 ( Theo Hội đồng Quốc tế Pháp ngữ): Môi trường là một tập
hợp ở một thời điểm đã cho các nhân tố vật lý, hóa học, sinh học và các nhân tố
xã hội có thể có một hậu quả trực tiếp hay gián tiếp, trước mắt hay lâu dài đối
với các sinh vật sống hoặc các hoạt động của con người.
- Định nghĩa 5: Môi trường là tất cả những gì ảnh hưởng đến mỗi sinh vật
trong thời gian sống của nó.
- Định nghĩa 6 (TS. Nguyễn Khắc Cường – ĐH kỹ thuật Tp Hồ Chí Minh):
Môi trường là tập hợp các điều kiện bên ngoài có ảnh hưởng đến sự tồn tại hay
phát triển của một sinh vật hay một cộng đồng.
- Định nghĩa 7 (Unesco): Môi trường của con người bao gồm toàn bộ các
hệ thống tự nhiên và các hệ thống do con người tạo ra. Trong đó con người sống
và lao động, họ khai thác tài nguyên thiên nhiên và nhân tạo nhằm thỏa mãn
nhu cầu của mình.
1.2.2. Phân loại về môi trường
* Theo tác nhân
- Môi trường tự nhiên: Là môi trường có sẵn do thiên nhiên tạo ra ( động
Phong Nha, rừng Cúc Phương,…)
- Môi trường Nhân tạo: Là môi trường do con người tạo ra ( làng xã, khu
vui chơi giải trí, …)
* Theo sự sống
- Môi trường vật lý: Môi trường vô sinh: Môi trường đất, nước, không khí
- Môi trường sinh học: Là môi trường có sự sống .
* Theo quyển
- Thạch quyển
- Khí quyển
- Thủy quyển

- Sinh quyển
1.2.3. Các thành phần cơ bản của môi trường
Trong môi trường sống luôn có sự tồn tại và tương tác giữa các thành phần
vô sinh và hữu sinh.
Về mặt vật lý Trái đất được chia thành 3 quyển vô sinh: khí quyển, thủy
quyển và địa quyển; chúng được cấu thành bởi các nguyên tố vật chất và chứa
đựng năng lượng dưới các dạng khác nhau: quang năng, thế năng, cơ năng, điện
năng, hóa năng…
Về mặt sinh học Trái đất có sinh quyển bao gồm các cơ thể sống và những
bộ phận của thành phần vô sinh tạo nên môi trường sống của các cơ thể này.
- Thạch quyển (môi trường đất):
Là lớp vỏ Trái đất có độ dày 60-70 km trên phần lục địa và 2-8 km dưới
đáy đại dương. Tính chất vật lý và thành phần hóa học của thạch quyên tương
đối ổn định, có ảnh hưởng to lớn đến sự sống trên Trái đất.
- Thủy quyển (môi trường nước):
Là phần nước của Trái đất bao gồm đại dương, sông, hồ, ao, suối, nước
ngầm, băng tuyết và hơi nước … Tổng lượng nước 1.454,7x10
6
km
3
, lượng
nước này nếu phủ lên bề mặt Trái đất sẽ tạo nên một lớp nước dày 0,3-0,4 m bao
gồm nước mặn, nước ngọt và nước lợ. Thủy quyển đóng một vai trò cực kỳ quan
trọng, không thể thiếu được trong việc duy trì sự sống của con người, sinh vật và
cân bằng khí hậu toàn cầu.
- Khí quyển (môi trường không khí):
Là lớp không khí bao quanh Trái đất. Khí quyển đóng vai trò cực kỳ quan
trọng trong việc duy trì sự sống và quyết định tính chất khí hậu thời tiết trên Trái
đất.
- Sinh quyển:

Bao gồm các cơ thể sống, thạch quyển, thủy quyển và khí quyển tạo nên
môi trường sống của sinh vật. Hay nói một cách khác sinh quyển là thành phần
môi trường có tồn tại sự sống. Sinh quyển gồm các thành phần hữu sinh (có sự
sống) và thành phần vô sinh có quan hệ chặt chẽ, tương tác phức tạp với nhau.
Khác với các quyển vật lý vô sinh, sinh quyển ngoài vật chất và năng lượng còn
chứa thông tin sinh học với tác dụng duy trì cấu trúc và cơ chế tồn tại, phát triển
của các vật sống. Dạng thông tin phức tạp và phát triển cao nhất là trí tuệ con
người có tác động ngày càng mạnh mẽ đến sự tồn tại và phát triển của Trái đất.
Những biến đổi sâu rộng, mạnh mẽ trên Trái đất cũng như những hoạt
động ban đầu của con người ở trong vũ trụ đều do trí tuệ con người tạo nên. Từ
nhậ thức đó hình thành khái niệm trí quyển. Trí quyển bao gồm các bộ phận của
Trái đất, tại đó có tác động của trí tuệ con người. Trí quyển chính là nơi xảy ra
những tác động to lớn về môi trường mà khoa học môi trường cần đi sâu nghiên
cứu.
1.3. Các tác động đối với môi trường
Trong suốt chiều dài lịch sử trên một triệu năm qua, kể từ khi con người
xuất hiện trên Trái đất, con người đã tác động vào môi trường xung quanh để
sống, song tác động đó chẳng đáng kể là bao. Con người đã trở thành kẻ độc tôn
chiếm đoạt nguồn lương thực và tài nguyên có thể khai thác được, đã làm chủ
toàn bộ hành tinh, sinh sống ở những hệ sinh thái rất khác nhau về điều kiện tự
nhiên.
Trong tiến trình của cách mạng khoa học kỹ thuật, của quá trình công
nghiệp và đô thị hóa nhanh chóng, tác động của xã hội loài người đối với môi
trường đạt đến một cường độ và một quy mô chưa từng thấy, với xu hướng ngày
càng mạnh mẽ, những hoạt động phá hoại môi trường không kiểm soát được và
tác hại rất nguy hiểm đến các điều kiện sống của loài người.
Trong những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, tình hình môi trường ở
trên thế giới đã chịu tác động của các đặc điểm sau:
1.3.1. Tăng trưởng dân số nhanh
Mặc dù đã có những cố gắng lớn về kế hoạch hóa dân số tại tất cả các nước

trên thế giới, dân số thế giới tiếp tục tăng. Dân số thế giới đã lên tới 5,769 tỷ
người và sẽ tiếp tục tăng tới 8,5 tỷ trong 3 thập kỷ tới. Trong số đó là 83,4% là
dân các nước đang phát triển. Sau năm 2025, tốc độ tăng dân số sẽ chậm lại và
lên tới 10 tỷ người vào năm 2050. Tốc độ tăng trưởng dân số toàn thế giới là
1,68% trong thời gian 1990-1995, giảm xuống 1,43% trong thời gian 2000-
2005.
Những vấn đề về môi trường mà tăng dân số đang đặt ra là:
- Lương thực
- Nhà ở và các nhu cầu về vệ sinh, sức khỏe và dịch vụ
- Chất lượng môi trường
1.3.2. Suy giảm tài nguyên đất
Hậu quả môi trường gắn liền trực tiếp với gia tăng dân số là suy giảm tài
nguyên đất.
Diện tích đất tự nhiên của nước ta là 33.618.900 ha, chưa kể các quần đảo
Trường Sa và Hoàng Sa. Về tổng diện tích nước ta đứng thứ 55 trên 200 nước.
Diện tích đất bình quân đầu người thấp. Diện tích đất nông nghiệp bình quân
đầu người rất thấp.Đất canh tác thực chỉ chiếm khoảng 80% đất nông nghiệp.
Do hiệu quả đầu tư một số đất nông nghiệp phải bỏ hóa. Tỷ lệ này có khả năng
tăng lên trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa.
1.3.3. Đô thị hóa mạnh mẽ
Số dân đô thị tăng lên nhanh chóng với tốc độ là 3% hàng năm cho toàn
Thế giới và 3 – 6,5% cho khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Dự báo đến năm
2020, tại các nước đang phát triển trong khu vực 50% dân số sống ở đô thị và tại
các nước phát triển là tỷ lệ này là 75%.
1.3.4. Hình thành các siêu đô thị
Xu thế đô thị hóa này sẽ dẫn đến sự hình thành các siêu đô thị với dân số
trên 4 triệu người. Tới năm 2000 trên thế giới có 20 siêu đô thị với số dân trên
10 triệu người, trong đó 11 ở Châu Á, 7 ở Châu Mỹ và 2 ở Châu Phi. Ở khu vực
Châu Á – Thái Bình Dương hiện có 18 thành phố trên 4 triệu dân, con số này sẽ
tăng lên 52 vào năm 2025. Thành phố Hồ Chí Minh sẽ là một trong các siêu đô

thị này.
Sự hình thành các siêu đô thị tại tất cả các nước đều gây nên những vấn đề
khó khăn và phức tạp về chất lượng môi trường sống: ô nhiễm do công nghiệp,
giao thông vận tải, tiêu tốn nhiều vật liệu, năng lượng, xử lý rác thải, các vấn đề
xã hội
1.3.5. Mất cân đối dân số đô thị và nông thôn
Dân số đô thị toàn thế giới hiện nay dang tăng nhanh với tốc độ 1%. Tại
khu vực Châu Á – Thái Bình Dương tốc độ này là 1 – 1,25%. Với xu thế này, sự
phân bố cư dân đô thị và nông thôn ngày càng mất cân bằng. Một mặt lực lượng
lao động trẻ sẽ bị thu hút vào đô thị, gây thêm những căng thẳng về chất lượng
môi trường, mặt khác tại nông thôn do thiếu lực lượng lao động trẻ, khỏe, công
tác hồi phục suy thoái vì vậy sẽ gặp nhiều khó khăn.
1.3.6. Tăng trưởng kinh tế và thu nhập không đồng đều
Có thể nói rằng trong thập kỷ cuối cùng của thế kỷ 20, tất cả các quốc gia,
trừ những quốc gia đang bị nội chiến tàn phá, đều có những cố gắng vượt bậc để
phát triển kinh tế và đã đạt được những kết quả to lớn, tuy nhiên sự không đồng
đều về kinh tế, thu nhập và mức sống vật chất giữa các quốc gia ngày càng tăng.
1.3.7. Nhu cầu năng lượng tăng nhanh
Trong lĩnh vực năng lượng có các vấn đề môi trường quan trọng sau: ô
nhiễm và tàn phá tài nguyên do khai thác than, ô nhiễm do các nhà máy nhiệt
điện, các lò hơi và các lò đốt, ô nhiễm do khai thác, chuyển và chế biến dầu khí,
các tác động tiêu cực của các hồ chứa và nạn phá rừng khai thác chất đốt.
1.3.8. Sản xuất lương thực tăng chậm
Trong các hoạt động của con người, tới nay sản xuất nông nghiệp được
xem là loại hình hoạt động có tác động mạnh mẽ, nhiều mặt tới môi trường. Với
việc cải tiến kỹ thuật, công nghệ, mở rộng diện tích trồng trọt, con người về cơ
bản đã thỏa mãn nhu cầu lương thực cho mình. Tới giữa thế kỷ XXI, dân số sẽ
lên tới 10 tỷ, để nuôi sống đủ số người này cần tăng sản lượng lương thực hiện
nay lên 2,5 – 3 lần.
Trong những năm qua đường lối chính sách “đổi mới” kết hợp với các tiến

bộ khoa học và công nghệ về trồng trọt, chăn nuôi, khai thác thủy sản đã đem lại
cho nước ta những thành tựu tốt đẹp về sản lượng lương thực và thực phẩm.
1.3.9. Gia tăng sử dụng phân bón hóa học và thuốc trừ sâu
Nhìn chung trên toàn thế giới, lượng phân bón hóa học và thuốc trừ sâu
diệt cỏ vào sử dụng nông nghiệp đang tiếp tục tăng thêm, tại một số nơi tăng lên
theo cấp số nhân. Trong những năm gần đây, các tổ chức Quốc tế như: Tổ chức
nông lương (FAO), Tổ chức y tế thế giới (WHO), Chương trình phát triển của
liên hợp quốc và nhiều tổ chức môi trường đã cố gắng việc hạn chế việc sử dụng
các hóa chất nhân tạo vào nông nghiệp đã thu được những kết quả bước đầu.
Tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương là nơi đã và đang có gia tăng
mạnh mẽ về sử dụng thuốc trừ sâu. Hiện nay đất nông nghiệp hàng năm đang
giảm đi 0,255, nhu cầu lương thực lại đang tăng lên nên có thể dự báo rằng việc
sử dụng phân bón hóa hcoj và thuốc trừ sâu trong nông nghiệp sẽ tiếp tục tăng
lên. Thuốc trừ sâu gây tác hại sâu sắc đến chất lượng môi trường và sức khỏe
con người. WHO đã ước lượng rằng mỗi năm có 3% nhân lực lao động nông
nghiệp ở các nước đang phát triển bị nhiễm độc thuốc trừ sâu.
1.3.10. Gia tăng sa mạc hóa
Sa mạc hóa là nguy cơ hết sức to lớn hủy diệt môi trường đang xảy ra trên
toàn thế giới. Chỉ trừ Châu Âu và Bắc Mỹ là không có sa mạc. Châu Phi, Châu
Á, Châu Úc, Nam Mỹ và Trung Mỹ đều có sa mạc.
Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương có 860 triệu ha trước đây là đất nông
nghiệp, hiện nay đã bị sa mạc hóa. Với tình hình phá rừng và kỹ thuật canh tác
không hợp lý, trong các thập kỷ tới một diện tích quan trong đất tại các vùng
khô cằn và bán khô cằn trong khu vực sẽ tiếp tục bị sa mạc hóa.
Ở nước ta hiện nay, không có hiện tượng sa mạc hóa một cách rõ rệt trên
phạm vi rộng. Tuy nhiên, tại Nam Trung Bộ, ven biển miền Trung hiện tượng
khô cằn của một số vùng, kể cả những vùng bãi ven sông trở thành một vấn đề
môi trường trầm trọng trong các tháng mùa khô.
1.3.11. Mất rừng
Việc bành chướng đất nông nghiệp, khai thác gỗ củi, xuất khẩu gỗ tròn,

sản xuất bột giấy là những nguyên nhân chính của phá rừng.
Tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương hàng năm bị mất khoảng 5 triệu
ha. Củi đốt chiếm 80% cây rừng bị chặt hạ. Mất rừng kéo theo giảm sút chất
lượng đất, cạn kiệt nguồn nước, suy thoái đa dạng sinh học, năng suất nông
nghiệp, thủy sản đều bị ảnh hưởng.
1.3.12. Suy giảm lượng thủy sản
Trong khoảng 10 năm qua, lượng đánh bắt hải sản tại một số vùng biển
trên thế giới đã giảm sút nhiều. Tuy nhiên, tại Thái Bình Dương và Ấn Độ
Dương lượng này đã tăng lên gần 70%, làm cho lượng hải sản đánh bắt trên toàn
thế giới vẫn tăng 25%. Trong 7/15 ngư trường lớn cá đã bị đánh bắt quá mức,
các loài khác như mực, sò, hến cũng bị đánh bắt quá mức.
Tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, lượng hải sản đánh bắt tăng hàng
năm 3%, tại đây cũng có tình trạng đánh bắt quá mức làm cho năng suất bị giảm,
một số giống loài hải sản có giá nguy cơ bị tiêu diệt.
1.3.13. Tăng trưởng sản xuất và tiêu thụ dầu khí
Hiện nay than đá vẫn giữ vai trò quan trọng của nguồn nguyên liệu khoáng
trong khu vực. Việc sử dụng nguồn năng lượng này sẽ gây nên những tác động
không tốt tới chất lượng môi trường không khí và góp phần gây hiệu ứng nhà
kính.
1.3.14. Gỗ củi tiếp tục bị cạn kiệt
Gỗ củi tiếp tục bị khai phá để sử dụng như là một nguồn năng lượng quan
trọng của nhân loại.
Tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, lượng gỗ củi khai thác mỗi năm
tăng khoảng 2%. Nhiều nơi trong khu vực, rừng cây các loại đã bị tàn phá, gỗ
củi cạn kiệt, nạn thiếu chất đốt trở thành rất nghiêm trọng.
Ở Việt Nam, trữ lượng gỗ củi ước lượng còn khoảng 48 triệu tấn. Gỗ củi
cùng với các nhiên liệu nguồn thực vật khác (cỏ, phụ phẩm, phế thải nông
nghiệp) chiếm 50 – 60% tổng năng lượng trong nước, hoặc 70 – 80% năng
lượng dùng ở nông thôn. Do nạn phá rừng tại một số vùng trữ lượng gỗ củi đang
suy giảm với tốc độ khoảng (2 – 3)% / năm.

1.3.15. Chất lượng môi trường khí quyển tiếp tục suy thoái
Tác động của con người đối với chất lượng khí quyển mạnh mẽ hơn bao
giờ hết. Tại các thành phố, hàm lượng các chất gây ô nhiễm nói chung đều vượt
quá mức độ cho phép.
Ở nước ta, nhất là các khu đô thị và công nghiệp, không khí đã bị ô nhiễm
nặng. Ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh tại các khu vược nhà máy và dọc
theo các tuyến giao thông quan trọng, nồng độ khí độc như SO
2
gấp 8-10 lần
tiêu chuẩn cho phép, CO
2
gấp 2-3 lần, bụi lơ lửng gấp 5-10 lần. Về môi trường
nước, tỷ lệ dân được cấp nước sạch mới khoảng 68,5% . Điều kiện thoát nước
mưa, nước thải tại các đô thị còn rất lạc hậu. Tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí
Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Việt Trì, các trị số BOD, COD vượt tiêu chuẩn cho
phép khoảng 5-10 lần, trường hợp đặc biệt còn cao hơn nữa. Nồng độ NH
4
, NO
2
,
NO
3
, hóa chất nông nghiệp, vi khuẩn cũng vượt quá tiêu chuẩn cho phép nhiều
lần.
1.3.16. Tài nguyên nước suy giảm
Tương tự như tài nguyên đất, tài nguyên nước ngọt ngày càng trở nên khan
hiếm theo đà tăng trưởng dân số. Nông nghiêp, công nghiệp đều đòi hỏi lượng
nước rất lớn. Với sự nâng cao mức sống của nhân dân, nhu cầu dung nước cho
sinh hoạt tăng nhiều lần so với vài ba thập kỷ trước. Tình trạng khan hiếm nước
nói chung trở nên hết sức căng thẳng trong những thời gian và địa điểm nhất

định.
Tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, lượng nước được cấp hiện nay
vẫn đủ đáp ứng nhu cầu. Tuy nhiên, ở một vài vùng trong mùa khô việc sử dụng
nước vượt quá khả năng cung cấp. Khả năng cung cấp nước sạch đang tăng lên
nhờ các tiến bộ khoa học và công nghệ về thăm dò, khai thác các nguồn nước
mặt và nước ngầm, xử lý và tái sử dụng lượng nước đã dùng một lần.
Lượng nước mặt qua lãnh thổ Việt Nam chảy ra biển ước tính khoảng 880
tỷ m
3
, trong đó 325 tỷ hình thành trên lãnh thổ (37%) và 555 tỷ từ ngoài chảy
vào (63%). lượng dòng chảy phong phú nhưng do phân bố không đều theo
không gian và thời gian, tạo nên tình trạng lũ lụt và hạn hán nghiêm trọng. Nước
sông ngòi có hàm lượng bùn rất cao, hàng năm đổ ra biển 340-400 triệu tấn phù
sa. Vùng cửa sông nước bị nhiễm mặn và chua phèn. Nước dưới đất có trữ
lượng vào khoảng 1,513 m
3
/ ngày, chất lượng nói chung tốt. Tỷ lệ dân được cấp
nước sạch trong cả nước là 68,5%, tại các đô thị tỷ lệ này là 80-85%.
1.3.17. Rác thải rắn tăng lên
Rác thải rắn bình quân khoảng 0,4-1,5 kg/người/ngày đang tăng lên đồng
biến với tăng trưởng của thu nhập quốc dân. Thành phần của rác cũng thay đổi
theo hướng tăng lên của bộ phân rác không thể chế biến thành phân hữu cơ
được. Với sự sự phát triển của công nghiệp, lượng rác thải rắn trở lên rất lớn.
Hoa Kỳ mỗi năm phải xử lý, chôn vùi 150 triệu tấn rác thải.
Ở các khu đô thị và khu công nghiệp, rác thải rắn cũng trở thành vấn đề
nghiêm trọng. Trong hơn 20000 m
3
rác thải/ngày của các đô thị, khoảng 50%
được thu gom và xử lý thô sơ. Trong rác thải có cả những chất độc hại như: kim
loại nặng, nguồn dịch bệnh nguy hiểm.

1.4. Tài nguyên
1.2.1. Khái niệm
Tài nguyên là các dạng vật chất được tạo thành trong suốt quá trình hình
thành và phát triển của tự nhiên, cuộc sống sinh vật và con người. Các dạng vật
chất này cung cấp nguyên, nhiên vật liệu hỗ trợ và phục vụ cho các nhu cầu phát
triển kinh tế, xã hội và con người.
1.2.2. Phân loại tài nguyên
* Theo nguồn gốc
- Tài nguyên thiên nhiên: Là loại tài nguyên được hình thành trong suốt
quá trình phát triển của Trái đất.
- Tài nguyên nhân tạo: Là loại tài nguyên do lao động, sáng tạo của con
người tạo nên.
* Theo thành phần môi trường
Hình 1.5- Sơ đồ phân loại tài nguyên theo thành phần môi trường
Tài nguyên môi trường
TN
MT
không
gian
TN
MT
năng
lượng
TN
MT
không
khí
TN
MT
đất

TN
MT
ngoài
Trái
đất
TN
MT
nước
TN
MT
khoáng
sản
TN
MT
sinh
vật
Địa
nhiệt
Địa
áp
Sóng
biển
Gió
Mặt
trời
Nước
ngầm
Nước
mặt
Phi

kim
loại
Kim
loại
Động
vật
Thực
vật
Chương II
TÁC ĐỘNG CỦA KHAI THÁC MỎ ĐẾN MÔI TRƯỜNG
2.1. Phân loại tác động của khai thác mỏ đến môi trường
Có nhiều cách phân loại tác động của khai thác mỏ đến môi trường. Các
cách phân loại phổ biến bao gồm:
2.1.1. Theo tính chất
- Gây tổn thất tài nguyên khoáng sản do khai thác, vận chuyển và chế biến.
- Gây ô nhiễm không khí, nước và đất
- Làm thay đổi cảnh quan địa hình, thu hẹp diện tích rừng và nông nghiệp.
- Gây các tai biến về môi trường do nổ khí CH
4
, sập lò, trượt tầng, sụt lở
bãi thải và sườn đồi núi, gây hiệu ứng nhà kính, thay đổi khí hậu, thay đổi mực
nước biển.
2.1.2. Theo các yếu tố của môi trường sinh thái
- Không khí bị ô nhiễm do thải khí và bụi, do tiếng ồn
- Nước (gồm nước ngầm và nước mặt) bị giảm trữ lượng, bị phá vỡ chế độ
địa chất thủy văn, bị giảm chất lượng, bị ô nhiễm.
- Đất đai thổ nhưỡng bị biến dạng bề mặt, bị xói mòn lớp đất phủ, làm xấu
chất lượng đất và diện tích hoa màu bị thu hẹp.
- Thực vật và động vật bị giảm số lượng hoặc bị hủy hoại do điều kiện
sống không còn đảm bảo.

- Lòng đất bị thay đổi trạng thái ứng suất, chất lượng khoáng sản giảm, tài
nguyên bị tổn thất.
2.1.3. Theo khả năng tránh được và không tránh được
* Những tác động không thể tránh khỏi
- Hoạt động khai thác mỏ thường đòi hỏi khu đất rộng cho mặt bằng công
nghiệp (khu văn phòng, các xưởng cơ khí, vận tải, tuyển và kho chứa, cảng)
- Phải di chuyển nhà ở của dân khi xây dựng các công trình mỏ ở đó
- Đất nông nghiệp và lâm nghiệp bị thu hẹp
- Khu vực sinh thủy bị ảnh hưởng do mực nước ngầm bị hạ thấp. Mất rừng
sẽ làm tăng xói mòn đất, làm giảm khả năng chứa nước của lòng hồ vì lòng hồ,
lòng sông bị bồi lấp.
- Phải xây dựng đường bộ, đường sắt để vận chuyển khoáng sản và đất đá
thải. Sự hoạt động của ô tô tàu hỏa sẽ làm tăng mức độ ô nhiễm không khí do
bụi và khí thải, ô nhiễm tiếng ồn.
- Nhu cầu tiêu thụ nước cho khu mỏ tăng lên do sử dụng cho nhà máy
tuyển, do sử dụng phun tưới đường để chống bụi.
- Năng lượng điện phải tiêu tốn tăng lên đáng kể, phục vụ cho các thiết bị
điện, cho việc thắp sáng, nạp ắc quy điện.
* Những tác động có thể phòng tránh
- Việc quản lý khai thác mỏ tốt sẽ giúp cho sự xuống cấp của môi trường
giảm đi nhiều lần.
- Mức độ phá hoại rừng sẽ giảm bằng cách thực hiện chiến lược sử dụng
đất sau khi kết thúc khai thác nhờ hoàn thổ trồng lại rừng.
- Sự xuống cấp của đất nông nghiệp có thể giảm đi nhờ áp dụng chiến lược
sử dụng đất sau khi kết thúc khai thác bao gồm kỹ thuật phục hồi đất. Lớp đất
mùn cần được bóc ra và cất giữ để sử dụng lại trong quá trình phục hồi đất.
- Sự xuống cấp của vùng sinh thủy cũng như hồ chứa nước có thể khắc
phục một phần nhờ kỹ thuật phục hồi đất có hiệu quả cũng như lựa chọn vị trí
hợp lý cho bãi thải đất đá.
- Ảnh hưởng của bãi thải đất đá đối với sông suối có thể giảm bớt nhờ bố

trí hợp lý, không đổ thải ra bên bờ vách núi có độ dốc lớn. Mặt khác, chiều cao
và độ dốc của bãi thải cân được hạn chế nhằm giảm khả năng trôi lở đất đá.
- Ảnh hưởng của các phương tiện vận tải, đặc biệt là ô tô đối với môi
trường có thể giảm bớt nhờ dùng bạt che các xe có tải, phun nước trên đường để
chống bụi.
- Chất thải (rắn và lỏng) cũng như tiếng ồn của các nhà máy sàng tuyển có
thể giảm ảnh hưởng xấu đến môi trường nhờ xây dựng ở xa khu dân cư và
không nên gần biển.
- Vị trí các bến cảng sẽ ít ảnh hưởng đến môi trường khi đặt xa khu dân cư.
2.1.4. Theo tính chất gây ô nhiễm
Ô nhiễm môi trường do hoạt động khai thác mỏ thường thuộc hai dạng:
- Ô nhiễm hóa học: trường hợp ô nhiễm hóa học là đặc tính hóa học của
thành phần ô nhiễm có thể gây nguy hại đối với thành phần của không khí, nước
và đất.
- Ô nhiễm cơ học: là loại ô nhiễm liên quan đến quá trình cơ lý như gây
bụi, gây huyền phù hoặc gây tạp chất rắn lơ lửng trong nước, làm thoái hóa đất
đai như xói mòn đất, bỏ trơ sau khi khai thác và bãi thải, làm thay đổi địa hình
bề mặt mỏ, làm cạn dần các lòng sông, khe suối và lòng hồ,
2.2. Ảnh hưởng của khai thác mỏ đến con người , kinh tế, xã hội và văn hóa
2.2.1. Đối với con người
Hoạt động của khai thác mỏ bên cạnh việc tạo công ăn việc làm cho người
lao động, góp phần đảm bảo cuộc sống cho học và gia đình, song cũng gây ra
nhiều ảnh hưởng xấu nếu như môi trường bị ô nhiễm. Cụ thể là sức khỏe của
người lao động thường bị ảnh hưởng nhiều nhất. Họ dễ bị mắc các bệnh bụi
phổi, bệnh về đường hô hấp và các bệnh ngoài da.
2.2.2. Đối với kinh tế, xã hội và văn hóa
Các ảnh hưởng chính của khai thác mỏ bao gồm:
- Di chuyển các vùng dân cư
- Ảnh hưởng đến các dân tộc thiểu số
- Ảnh hưởng đến các khu vực danh lam thắng cảnh, khu vực di tích lịch sử,

nơi thờ cúng tín ngưỡng.
- Xuất hiện những xung đột về quyền sử dụng đất, muông thú và các nguồn
nước.
- Sự thay đổi mô hình kinh tế, văn hóa xã hội trong các cộng đồng dân cư
- Thaty đổi hạ tầng và giao thông
- Góp phần phát triển kinh tế xã hội ở vùng mỏ nói riêng và đối với đất
nước nói chung
2.3. Hiện trạng khai thác và các tác động điển hình của khai thác khoáng
sản đến môi trường
2.3.1. Hiện trạng khai thác tài nguyên khoáng sản
* Hiện trạng khai thác lộ thiên
Thời gian trước đây cũng như hiện nay, khai thác than lộ thiên đóng vai trò
chủ đạo trong việc đáp ứng sản lượng của ngành than. Theo thống kê, sản lượng
khai thác lộ thiên trong những năm qua chiếm khoảng trên 60% tổng sản lượng
than khai thác của toàn ngành.
Taị thời điểm hiện nay, năm 2005 ngành than có 5 mỏ lộ thiên lớn sản xuất
với công suất đạt từ 2  3 triệu tấn than nguyên khai/năm (Cao sơn, Cọc 6, Đèo
Nai, Hà Tu, Núi Béo), 15 mỏ lộ thiên vừa và công trường lộ thiên (thuộc các mỏ
than hầm lò) sản xuất với công suất từ 100.000  400.000 tấn than nguyên
khai/năm và hàng chục điểm khai thác mỏ nhỏ và lộ vỉa với sản lượng than khai
thác nhỏ hơn 100.000 tấn than nguyên khai/năm.
Tổng sản lượng than nguyên khai khai thác lộ thiên năm 2005 là 22, 053
triệu T ( chiếm 63,18% sản lượng toàn ngành) với tổng khối lượng đất đá bóc là
165,027 triệu m3, hệ số bóc trung bình của giai đoạn là 7,57 m
3
/T.
Bảng 2-1- Tỷ trọng sản lượng phân theo vùng khai thác
Vùng khai thác
Than
(%)

Đất
(%)
Hệ số bóc
(m
3
/t)
Tổng số
100
100
7,57
Vùng Cẩm phả
61,0
64
7,85
Vùng Hòn Gai
30
30
4,62
Vùng Uông Bí
3
1,8
4,2
Vùng Nội địa
6
4,3
3,05
Qua bảng 2-1 cho thấy sản lượng than khai thác năm 2005 chủ yếu là vùng
Cẩm Phả (chiếm 61% sản lượng than khai thác lộ thiên của toàn ngành than),
tiếp đến là vùng Hòn Gai (chiếm 30% tổng sản lượng khai thác lộ thiên) và cuối
cùng là vùng Nội Địa và Uông Bí.

Sản lượng và tỷ trọng khai thác lộ thiên giai đoạn 2000  2005 xem bảng
2-2
Bảng 2-2- Sản lượng và tỷ trọng khai thác lộ thiên giai đoạn 2000 ÷ 2005
TT
Tên chỉ tiêu
Đơn vị
2000
2001
2002
2003
2004
2005
1
Than nguyên khai
10
3
T
12 200
14589
17 103
19.992
27.282
34.928
Tr.đó: lộ thiên
10
3
T
7 890
9 475
10 981

12.975
17.392
22.053
Tỷ trọng
%
64,7
65
64,2
65
64
63
2
Đất đá bóc
10
3
m
3
34 116
47 360
63 880
87.184
122.740
165.027
3
Hệ số bóc đất đá
m
3
/T
4,31
5,0

5,8
6,7
7,1
7,5
Khai thông chuẩn bị: Hầu hết các mỏ lộ thiên khai thông bằng hệ thống hào
mở vỉa bám vách vỉa than ngoại trừ mỏ Cọc Sáu mở vỉa bằng hào trong than.
Thiết bị đào hào là máy xúc gầu thẳng íấÃ, hoặc máy xúc thuỷ lực gầu ngược.
Chiều rộng đáy hào 18-20m đối với máy xúc gầu thẳng và 2-4m đối với máy
xúc thuỷ lưc gầu ngược. Trong những năm gần đây đối với một số mỏ khai thác
dưới mức thoát nước tự chảy như Cọc Sáu, Hà Tu, Núi béo đã áp dụng máy
xúc thuỷ lực gầu ngược để kết hợp đào hào mở vỉa, tháo khô đáy mỏ và tăng
cường tốc độ xuống sâu đạt kết quả rất tốt, tốc độ xuống sâu đạt bình quân 6-10
m/n, trường hợp như mỏ Cao Sơn có năm đạt trên 20m/n tại công trường khu
Tây Cao Sơn.
Hệ thống khai thác : Do cấu trúc địa chất và sản trạng các vỉa than tại các
mỏ lộ thiên chủ yếu cắm nghiêng với góc dốc trung bình 30-35 độ do đó hầu hết
các mỏ lộ thiên áp dụng hệ thống khai thác có vận tải, đất đá chủ yếu được đổ
bãi thải ngoài. Các yếu tố hệ thống khai thác được thiết kế theo hệ thống khai
thác truyền thống với chiều rộng mặt tầng công tác 35-40m, góc nghiêng bờ
công tác 17-20 độ. Với các yếu tố hệ thống khai thác như trên khối lượng đất
bóc thời kỳ đầu lớn. Thực tế trong quá trình sản xuất, do nhiều nguyên nhân chủ
quan và khách quan trong đó nguyên nhân chủ yếu do giá bán than thị trường
nội địa hiện nay còn bất hợp lý thấp hơn giá thành tiêu thụ do đó hầu hết các mỏ
phải tự cân đối tài chính bằng biện pháp cắt giảm hệ số bóc theo thiết kế ban
đầu, chiều rộng mặt tầng công tác bình quân của các mỏ lộ thiên chỉ đạt 1520m
dẫn đến tình trạng nợ đất đá, ngoài ra trong những năm gần đây ngành than Việt
Nam đã đưa vào thiết kế và vận hành hệ thống khai thác lớp đứng để tăng góc
dốc bờ công tác lên 25  27 độ theo sơ đồ chia bờ công tác thành các nhóm tầng
, mỗi nhóm tầng có 1 tầng công tác với chiều rộng mặt tầng 35  40m và 3  4
tầng nghỉ với chiều rộng mặt tầng 1517m .

Đồng bộ hoá thiết bị: Hiện nay tại tất cả các mỏ lộ thiên được trang bị đồng
bộ thiết bị khoan, xúc bốc, vận tải thuộc loại trung bình tiên tiến
Đối với các mỏ quy mô lớn như Cao Sơn, Cọc Sáu, Đèo Nai, Hà Tu, Núi
Béo, phục vụ cho dây chuyền bóc đất đá là máy khoan xoay cầu СБЩ-250 МН,
xoay cầu thuỷ lực và máy khoan xoay đập thuỷ lực với đường kính lỗ khoan đến
110250 mm, máy xúc cáp kéo chạy điện ЭКГ với dung tích gầu xúc 5-8 m
3
, Ô
tô tự đổ trọng tải 30-58 T gồm các chủng loại Belaz, Komatsu, Caterpilar Đào
hào tháo khô mở vỉa và khấu than là máy xúc gầu thẳng ЭКГ với dung tích gầu
xúc đến 5m
3
, máy xúc thuỷ lực gầu ngược Komatsu, Hitachi với dung tích gầu
2,5-5m
3
, vận chuyển than là các loại ô tô tự đổ trọng tải 15-35 T hoặc vận tải
liên hợp ô tô-băng tải đối với các mỏ Đèo Nai và Cọc Sáu.
Đối với các mỏ lộ thiên quy mô vừa và nhỏ phục vụ cho công tác bóc đất
đá và khai thác than sử dụng đồng bộ hoá thiết bị cỡ vừa và nhỏ gồm máy khoan
xoay đập thuỷ lực đường kính lỗ khoan 75-120 mm, máy xúc thuỷ lực gầu
ngược dung tích gầu 1,5-2,5m
3
cùng với ô tô tự đổ trọng tải đến 15 T
Công tác đổ thải đất đá: Hiện nay các mỏ lộ thiên đều sử dụng hệ thống bãi
thải ngoài với công nghệ đổ thải ô tô-xe gạt, khối lượng đổ thải lớn nhất tập
trung tại cụm mỏ lộ thiên vùng Cẩm Phả hàng năm khoảng 70-80 triệu m
3
. Việc
đổ bãi thải ngoài có nhược điểm cơ bản là chiếm dụng diện tích đất mặt lớn, gây
trượt lở và bồi lấp hệ thống sông suối, ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến

cảnh quan đô thị như các bãi thải Nam Đèo Nai- Cẩm phả, bãi thải Nam Lộ
Phong-Hà Tu v.v Công tác đổ thải đất đá hiện nay là một vấn đề cấp thiết mà
Tập đoàn CN Than - Khoáng sản Việt Nam đang quan tâm giải quyết, đặc biệt
qui hoạch đổ thải cụm mỏ vùng Cẩm Phả.
Ổn định bờ mỏ: Trong những năm qua và hiện nay tại một số mỏ lộ thiên
xảy ra hiện tượng trụt lở bờ mỏ như bờ nam mỏ Na Dương, bờ Tây Vỉa 11 Núi
Béo, bờ nam và Đông bắc mỏ Cọc Sáu, mỏ Đèo Nai, Hà Tu có một số nguyên
nhân dẫn đến hiện tượng trên: đất đá yếu, phay phá, tác động của nước ngầm, bờ
mỏ ngày một nâng cao, phương pháp nổ mìn biên chưa hợp lý, chưa có các biện
pháp gia cố bờ mỏ hữu hiệu. Biện pháp xử lý hiện nay là tụt đến đâu bóc xúc
dọn dẹp đến đó.
Đánh giá tình trạng kỹ thuật và công nghệ: Trong những năm qua Tổng
công ty Than Việt Nam đã thực hiện chiến lược đầu tư đổi mới công nghệ, cải
thiện tình trạng kỹ thuật và công nghệ do quá khứ để lại tại các mỏ lộ thiên:
- Chỉ đạo và giao chỉ tiêu hệ số bóc đất đá cho các Công ty, các mỏ, cải
thiện dần hệ thống khai thác do các năm trước thu hẹp sản xuất.
- Đã nghiên cứu và thực hiện thành công công nghệ đào sâu, vét bùn đáy
mỏ Cọc Sáu, Hà Tu, Núi Béo, Núi Hồng,
+ Đã thực hiện thí điểm chuyển đổi hệ thống khai thác (HTKT) truyền
thống, bờ công tác khấu theo lớp xiên sang bờ công tác khấu theo lớp đứng cho
các mỏ có hệ số bóc sản xuất cao như Cao Sơn, Núi Béo, Đèo Nai v.v.
+ Đưa vào áp dụng công nghệ và thiết bị khai thác chọn lọc nâng cao chất
lượng và giảm tổn thất than.
- Các khâu chủ yếu trong quy trình công nghệ khai thác, đã được đầu tư
trang thiết bị hiện đại và đồng bộ như :
+ Công tác khoan lỗ mìn, nạp mìn bằng máy khoan, xe nạp mìn của các
nước tiên tiến đang sử dụng
+ Máy xúc thuỷ lực gầu thuận, gầu ngược, chạy diezen, có tính cơ động
cao, phù hợp với HTKT mới, đào hào và khai thác than đáy mỏ, khai thác chọn
lọc,

+ Ôtô vận tải cỡ lớn (trọng tải 42  96 tấn) ôtô rơ moóc (xe lúc lắc) có khả
năng leo dốc và bán kính đường vòng nhỏ.
Tóm lại tình trạng kỹ thuật và công nghệ của các mỏ lộ thiên hiện nay đã
được cải thiện và đang dần dần đi vào nề nếp và tiến tới phải đảm bảo qui trình,
qui phạm kỹ thuật và phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường. Đây là vấn đề nhạy
cảm và có những góc độ nhìn nhận, đánh giá khác nhau: như tình trạng khai
trường hiện nay, đối chiếu với hệ thống khai thác khấu theo lớp xiên (n tầng x
B
ct
), hầu hết các mỏ có hiện tượng "nợ đất" nhưng nếu đối chiếu với hệ thống
khai thác khấu theo lớp đứng (chỉ có khoảnh làm việc của máy xúc, chiều rộng
mặt tầng B
ct
) thì khối lượng nợ đất chỉ tồn tại ở một số mỏ như Cao Sơn, Đông
Cao Sơn, Cọc Sáu, Núi Béo và Khánh Hoà với tổng số khoảng 6 triệu m
3
Vấn
đề trên cần được tổng kết, đánh giá và điều chỉnh trong các đề án thiết kế cải tạo
các mỏ lộ thiên, làm cơ sở chỉ đạo điều hành khai thác các giai đoạn tiếp theo.
Vấn đề ổn định bờ mỏ hiện nay vẫn chưa giải quyết được triệt để gây khó
khăn cho các mỏ xuống sâu, cần nghiên cứu triệt để theo hướng ngăn ngừa các
nguyên nhân, gia cố bờ mỏ bằng các biện pháp neo, khoan giảm áp, nổ mìn nhỏ
tạo biên…
* Hiện trạng khai thác hầm lò
Kể từ khi thanh lập Tổng Công Ty Than Việt Nam (1995), công nghệ khai
thác hầm lò nói chung có những tiến bộ vượt bậc. Đi đầu trong đổi mới công
nghệ khai thác của ngành là Công Ty Than Khe Chàm đã đưa vào áp dụng thử
nghiệm thành công lò chợ khấu than bằng máy com bai tay ngắn, chống lò chợ
bằng giàn thuỷ lực tự hành cho năng suất đạt 2500 tấn ngày đã mở ra hướng đi
mới có tính khả thi cho các công ty than khai thác hầm lò.

Hiện nay các công ty than Vàng Danh, Mạo Khê, Uông Bí, Hà Lầm,
Mông Dương đã áp dụng thành công cột chống thuỷ lực đơn, giá thuỷ lực di
động để chống lò chợ cho các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật khá và đặc biệt là an
toàn lao động được cao hơn. Hầu hết các công ty than Hầm lò đã hoàn thiện
công nghệ khai thác lò chợ chống cột thuỷ lực đơn và giá thuỷ lực di động để
mở rộng phạm vi áp dụng cho các vỉa có độ dốc đến 45
0
. Tại các vỉa dốc
đứng, đã áp dụng công nghệ khai thác chia lớp ngang nghiêng chống lò bằng
giá thuỷ lực di động đã thay thế được hệ thống khai thác lò chợ dọc vỉa phân
tầng, vừa không an toàn và tổn thất than cao. Công ty than Vàng Danh đã đưa
vào ứng dụng thử nghiệm công nghệ khai thác lò chợ cắt nghiêng khai thác
dưới giàn mềm để khai thác các vỉa có chiều dày tương đối ổn định và dốc
đứng, công nghệ này ở Trung Quốc đang ứng dụng khá rộng rãi và cho các
chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật tốt.
Song song với công tác đổi mới công nghệ chống giữ lò chợ, công tác vận
tải than cũng được trang bị các hệ thống vận tải liên tục ( máng cào + băng tải),
các thiết bị có công suất lớn đã giúp các công ty than … có những lò chợ năng
suất cao.
Để đạt được sản lượng than hầm lò như hiện nay công tác đào lò chuẩn bị
cũng đóng một vai trò hêt sức quan trọng. Công ty than Vàng Danh đã đưa máy
vào bốc xúc đá ở lò nghiêng, Công ty than Mông Dương, Uông bí… đã đưa máy
liên hợp AM-50 vào đào lò than cho tiến độ lò chống thép có tiết điện trên 12m
2
đạt 250m/tháng là một bước đột phá trong công nghệ đào lò.
Từ trước đến nay chống giữ các đường lò chủ yếu bằng thép nhưng với sự
mạnh dạn của các cán bộ kỹ thuật Việt Nam, công nghệ chống lò bằng vì neo
các loại đã áp dụng thành công ở hầu hết các công ty là một hướng đi đúng.
Ngoài những tiến bộ nêu trên công nghệ khai thác hầm lò các mỏ vẫn chưa
tương xứng với tiềm năng và yêu cầu phát triển, sản lượng lò chợ còn thấp, trình

độ cơ giới hoá và tự động hoá của toàn bộ các khâu trong hầm lò chưa cao và
chưa rộng rãi, kinh nghiệm vẫn còn nhiều hạn chế…
* Hiện trạng các mỏ than địa phương
Các mỏ than địa phương đã được tiến hành khai thác từ trong thời kỳ
kháng chiến, đặc biệt là trong thời kỳ chiến tranh phá hoại miền Bắc do Mỹ phát
động. Trong thời kỳ này có 25 điểm mỏ khai thác, trong đó có 07 mỏ khai thác
bằng phương pháp khai thác Lộ thiên còn lại là khai thác bằng phương pháp
Hầm lò. Quy mô khai thác chủ yếu bằng thủ công, sản lượng khai thác từ vài
trăm tấn đến vài nghìn tấn. Sau khi chiến tranh phá hoại kết thúc các mỏ than do
trung ương quản lý được khôi phục và phát triển. Mặt khác do chính sách than
cung ứng cho các địa phương theo cơ chế bao cấp trước những năm 1990 mà
các mỏ địa phương dần bị thu hẹp và một số mỏ đã đóng cửa.
* Hiện trạng khai thác quặng kim loại màu
- Quặng Antimon
Có một số mỏ và điểm quặng antimon ở các tỉnh: Tuyên Quang, Hà
Giang, Lạng Sơn, Hòa Bình, Quảng Ninh, Nghệ An và Lâm Đồng đã được khai
thác, nhưng chủ yếu là do dân khai thác tự do, chỉ có 2 mỏ được khai thác công
nghiệp do Viện nghiên cứu mỏ- luyện kim- Bộ Công nghiệp thiết kế là: mỏ
Làng Vài- Tuyên Quang khai thác từ năm 1962 và mỏ Mậu Duệ- Hà Giang khai
thác từ năm 1995.
Mỏ Làng Vài do công ty kim loại màu Thái Nguyên khai thác hầm lò
bằng hệ thống lưu quặng toàn phần có để lại trụ bảo vệ. Thân quặng được khấu
bằng phương pháp khoan nổ mìn trình tự từ trên xuống và từ biên giới ra cửa lò.
Quặng lưu lại trong buồng khai thác được tháo ra qua phễu để vận chuyển ra
ngoài. Công nghệ tuyển áp dụng tuyển nổi trực tiếp với công suất 5000 tấn
quặng nguyên/năm.
Lượng đá thải ở khu vực khai thác nhỏ ( 600 tấn/năm) đổ ra sườn núi.
Bùn nước, cát thải từ xưởng tuyển đổ vào bãi thải là thung lũng.
Mỏ Mậu Duệ - Hà Giang do địa phương khai thác lộ thiên. Đất đá phủ
được khoan nổ mìn, sau đó dùng máy gạt san ủi ra xung quanh khai trường, sau

đó đào thủ công bằng các phương tiện thô sơ để chọn lọc lấy quặng giàu.
- Quặng thiếc
Trong cả nước có 5 vùng chính khai thác quặng thiếc là: Tĩnh Túc (Cao
Bằng), Sơn Dương (Tuyên Quang), Đại Từ (Thái Nguyên), Quỳ Hợp (Nghệ An)
và Lâm Đồng. Trong đó chỉ có vùng thiếc Lâm Đồng là mới được dựa vào khai
thác từ sau 1990 đến nay và chủ yếu là dân khai thác tự do, còn lại đều được
khai thác sớm hơn.
Công nghệ khai thác có nhiều thay đổi qua nhiều thời kỳ. Từ những năm
trước 1992 các mỏ đều áp dụng khai thác cơ giới bằng ô tô – máy xúc. Xưởng
tuyển được xây dựng tập trung. Quy trình khai thác gồm các bước sau: gạt và
bóc đất phủ  bốc xúc đất quặng  vận chuyển đất quặng về xưởng tuyển
trung tâm  vận chuyển đá, cát, sỏi và bùn thải ra bãi thải. Kể cả mặt đất và đất
quặng đều được xúc trực tiếp không cần nổ mìn. Các bãi thải được thiết kế, quy
hoạch trước khi khai thác.
Từ năm 1992 đến nay hầu hết các mỏ áp dụng công nghệ thủ công bán cơ
giới thay cho loại hình công nghệ trên. Các hoạt động chính là: dùng máy gạt,
máy xúc và ô tô san ủi lớp đất phủ dày 3  5m. Sau đó đất quặng được bốc xúc
thủ công. Đặc điểm của công nghệ này là đi kèm hệ thống tuyển thô thủ công
đơn giản đặt ngay tại khai trường. Vì vậy, toàn bộ đá, cát, bùn nước thải đều đổ
lại khu vực khai trường đã khai thác xong.
Ngoài ra, ở một số khu vực có quặng gốc như Núi Pháo (Đại Từ - Thái
Nguyên), Sơn Dương (Tuyên Quang) dân tiến hành khai thác tự do. Phương
pháp khai thác áp dụng cả lộ thiên va hầm lò. Thông thương các hào hoặc giếng
bắt đầu từ điểm lộ quặng gốc, sau đó phát triển rộng ra xung quanh hoặc xuống
sâu theo mạch quặng. Các lò ngang cũng thường được đào từ các giếng ở độ sâu
cách mặt đất từ 10  20m. Phương tiện khai thác và vận chuyển quặng từ hào,
giếng khai thác lên mặt đất là các dụng cụ thô sơ và sức người. Đa số các vách
giếng và vách hào không có chèn chống, còn trong trường hợp lở đất thì kè
chống bằng tre, vầu. Nước trong giếng và hào bơm lên bằng động cơ điện hoặc
diezel.

- Quặng Wonfram
Mới có một mỏ wonfram được khai thác công nghiệp là mỏ wonfram
Thiện Kế (Tuyên Quang) từ năm 1987. Ngoài ra còn được thu hồi trong quá
trình khai thác quặng thiếc ở Tĩnh Túc (Cao Bằng).
Công nghệ khai thác cơ giới gồm các bước sau đây: Khoan nổ mìn làm tơi
đất quặng từ vỉa, sau đó dùng vòi nước áp lực để đánh tơi trên sàng song đồng
thời loại bỏ phần đá tảng và chuyển xuống đập hàm, đập trục đến cỡ hạt -3mm
để truyển trên bàn đãi gằn lấy tinh quặng hạt thô đồng thời thải bớt một phần
cát, đá. Quặng đuôi hạt mịn của bàn đãi được tuyển từ lấy tinh quặng hạt mịn.
Toàn bộ nước thải của khâu tuyển khoáng khoảng 150m
3
/h được chứa vào
hệ thống hố và lắng trong trước khi thải ra suối.
- Quặng chì kẽm
Hiện nay có 2 vùng khai thác quặng chì kẽm là Chợ Đồn (Bắc Cạn) và
Làng Hích (Thái Nguyên). Ở Chợ Đồn mới khai thác quặng ôxit còn ở Làng
Hích khai thác cả hai loại quặng oxit và sunfua.
+ Công nghệ khai thác quặng oxit:
Quặng oxit chì kẽm ở Chợ Đồn và một phần nhỏ các lò, bãi quặng cũ của
Pháp ở Làng Hích được khai thác lộ thiên với công nghệ thủ công bán cơ giới để
chọn lọc quặng giàu có hàm lượng 28 ÷30% Zn.
Công đoạn bóc đất phủ, gạt đá thải và vun đống quặng nghèo tiến hành
bằng máy gạt. Để phá đá trong tầng đất phủ sử dụng khoan bắn mìn con. Còn lại
các công đoạn khác từ đào, chọn lọc quặng giàu đến bốc xúc, vận chuyển quặng
từ các lò, hào lên mặt khai trường cũng như lên ô tô đều dùng sức người và
những dụng cụ thô sơ.
Trình tự khai thác trong khối là từ trên xuống và từ biên giới ra cửa lò
theo đường phương thân quặng. Các công việc xúc bóc quặng dùng thủ công,
vận tải trong lò bằng dùng goòng đẩy ray, ở giếng đứng hoặc giếng nghiêng
dùng máy trục kéo goòng đẩy và trục tải.

Khi đào lò chuẩn bị, được thông gió cục bộ theo phương pháp gió đẩy.
Toàn bộ mỏ được thông gió bằng quạt gió chính kết hợp thông gió cục bộ.
Thoát nước mỏ cho các khối khai thác trên mức lò vận chuyển chính bằng
tự chảy và cho các khối khai thác dưới mức lò vận chuyển chính bằng bơm.
Đá thải được thải ở các triền núi xuống các thung lũng.
Ở các khu vực khai thác tự do cũng diễn ra theo cách đào bới thủ công để
chọn lọc quặng giàu. Đất đá thải, quặng nghèo đều được đổ xuống xung quanh
các hố khai thác.
- Quặng Crômit
Mỏ quặng sa khoáng crômit Cổ Định – Thanh Hóa được khai thác từ thời
Pháp thuộc. Công nghệ khai thác áp dụng theo 3 loại hình chính sau đây:
+ Công nghệ khai thác kết hợp cơ giới – sức nước
Đầu tiên dùng máy cạp gạt để bốc chọn lớp đá keo kết và tầng sét trắng
xen kẽ đưa đi thải và gom đất quặng từ xa về bãi chứa trung gian ở vị trí đặt
súng nước và hố bơm cố định.
Tại đây súng bắn nước áp lực cao 4 ÷ 5 at làm tơi đất quặng, tạo vữa và
thải loại đá +25mm bằng sàng song.
Đá cuội +25mm chứa vào goòng 0,75m và tời kéo đá từ hố khai thác lên
đổ ra bãi thải đá tại công trường. Vữa quặng -25mm với nồng độ rắn từ 10 ÷
14% được bơm cát bơm về xưởng tuyển. Công tác thoát nước, tháo khô khai
trường dùng bơm để vận tải bùn nước về bãi thải bùn.
Công nghệ này do không phù hợp với điều kiện mỏ có nhiều sét và đá keo
kết vì vậy đã bỏ từ lâu.
+ Công nghệ khai thác sức nước
Công nghệ khai thác sức nước về cơ bản tương tự như công nghệ khai
thác cơ giới kết hợp với sức nước. Điểm khác biệt chính là hố bơm không đặt cố
định và di chuyển theo khai trường và khâu khai thác dùng súng bắn nước áp lực
cao  9at để bắn trực tiếp vào tầng quặng làm tơi sét và đất quặng, không có hỗ
trợ của cơ giới.
Vữa quặng -25mm được vận tải về xưởng tuyển bằng bơm cát. Giai đoạn

từ 1976-1985 xưởng tuyển cơ khí đặt cố định một nơi và toàn bộ bùn, cát và
nước thải được bơm ra bãi thải bùn. Từ sau 1985 đến nay xưởng tuyển bán cơ
khí hóa đặt tại khai trường và cũng định kỳ di chuyển theo hố bơm. Toàn bộ cát,
sỏi và bùn nước thải đổ vào các hố bơm khai thác cũ, lắng trong để lấy nước
tuần hoàn.
+ Công nghệ khai thác thủ công
Đây là công nghệ được sử dụng từ khi mở mỏ đến nay để khai thác các
khu vực có tầng quặng mỏng. Từ năm 1990 đến nay các lực lượng khai thác tự
do của dân cũng sử dụng công nghệ này ở khắp mọi nơi trong mỏ.
- Quặng titan sa khoáng ven biển
Quặng titan sa khoáng ven biển được khai thác ở nhiều khu vực dọc theo bờ
biển từ Bắc đến Trung bộ như Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Quảng Bình,
Thừa-Thiên Huế, Bình Định, Phú Yên Giai đoạn đầu mới đi vào sản xuất chủ
yếu sử dụng lao động thủ công để khai thác chọn lọc các khối quặng giàu. Vài
năm gần đây, do các khối quặng giàu đã cạn dần, phải tiến hành khai thác cả
quặng nghèo nên đã cơ giới hóa một bước công nghệ và thiết bị khai thác. Đa số
các mỏ sử dụng bơm cát để khai thác.
Quặng được thu gom tập trung về hố bơm khai thác bằng lao động xúc
bốc thủ công và các phương tiện vận tải thô sơ như xe trâu. Sau đó dùng bơm
cát để hút và bơm lên các thiết bị tuyển thô đặt bên cạnh hố khai thác. Riêng mỏ
Kỳ Anh (Hà Tĩnh) có kết hợp một phần máy gạt để hỗ trợ cho việc thu gom
quặng về hố khai thác.
Toàn bộ quặng và nước thải đổ trở lại biển.
* Hiện trạng khai thác đá
Có 3 hình thức khai thác đá thường được áp dụng là: khai thác thủ công,
thủ công kết hợp cơ giới va cơ giới tùy thuộc vào sản lượng khai thác, khả năng
đầu tư thiết bị và yêu cầu về hiệu quả kinh tế, phổ biến nhất vẫn là hình thức cơ
giới kết hợp thủ công. Trình tự các công đoạn cơ bản trong khai thác đá là:
- Phá đá bằng phương pháp nổ mìn
- Bốc xúc bằng thủ công hoặc cơ giới

- Vận chuyển đá bằng ô tô, tàu hỏa hoặc bằng thuyền.
Các phương pháp khai thác chủ yếu:
- Phương pháp khấu tự do, phá đá quá cỡ bằng đập thủ công hoặc nổ mìn
lỗ khoan nhỏ. Phương pháp này cho năng suất thấp và không an toàn, thường sử
dụng ở các khu vực khai thác tự do, trong điều kiện không có khả năng cơ giới
hóa.
- Phương pháp nổ mìn buồng được áp dụng ở một vài mỏ, nhưng chỉ được
dùng để kết hợp làm tơi vụn sơ bộ đá trước khi đập nhỏ và khi bạt ngọn, mà
chưa thành một phương pháp có công nghệ hoàn chỉnh.
- Phương pháp cắt tầng nhỏ, khấu dật theo lớp xiên, không vận tải trên
tầng được áp dụng ở một số mỏ như Đồng Mỏ, Phi Liệt nhưng chưa duy trì
kết quả.
Một số phương pháp khai thác tiên tiến, có trình độ cơ giới hóa, năng
suất, mức độ an toàn sản xuất cao như khai thác theo lớp ngang bằng máy gạt,
bằng máy xúc đứng trực tiếp ở gương, khai thác theo lớp thoải bằng máy gạt
với tầng cao chỉ mới được áp dụng ở các mỏ khai thác đá vôi xi măng với công
suất lớn như Bỉm Sơn, Hoàng Thạch, Hà Tiên, Tràng Kênh
Đối với đá ốp lát việc khai thác được tiến hành theo phương pháp sau:
khoan lỗ, dùng mìn dây tách khối, bốc xếp lên ô tô bằng xe cẩu, chuyển chở về
nhà máy để gia công. Dùng các máy cưa kim cương, hợp kim để cắt và gia công
hoặc bán thẳng.
* Nhận xét chung
- Ngành công nghiệp khai khoáng của Việt Nam còn khá nhỏ bé, sự đóng
góp của nó vào nền kinh tế quốc dân chưa tương xứng với tiềm năng về tài
nguyên khoáng sản. Mặc dù sản lượng khai thác hàng năm của nhiều loại
khoáng sản có tăng lên.
- Hầu hết các mỏ, đặc biệt là các mỏ than đều không đạt công suất thiết
kế. Sản lượng các mỏ lộ thiên đạt 25 ÷ 37%, các mỏ hầm lò đạt 19 ÷ 28% công
suất thiết kế.
- Thiết bị máy móc sử dụng ở các mỏ hầu hết là cũ, lạc hậu còn công nghệ

khai thác cũng rất lạc hậu. Vì vậy hiệu quả kinh té thấp, thậm chí có mỏ còn
thường xuyên bị lỗ.
- Tổn thất tài nguyên còn tương đối lớn. Ví dụ như trong ngành than, tổn
thất trong khai thác hầm lò là 40 ÷ 60% trữ lượng công nghiệp. Tổn thất khai
thác quặng Apatit Lào Cai là quặng loại I đến 26%, quặng loại II tới 43% và
quặng loại III bị đổ ra bãi thải hàng triệu tấn.
- Hiệu quả khai thác và sử dụng tổng hợp tài nguyên khoáng sản còn quá
thấp, nhiều sản phẩm phụ quý giá đã bị bỏ phí.
- Việc quản lý khai thác khoáng sản còn quá lỏng lẻo, sơ hở, thiếu thống
nhất, nhiều cơ quan có quyền cấp giấy phép khai thác. Vì vậy tình trạng khai
thác trái phép còn khá phổ biến.
- Điều kiện vệ sinh môi trường và an toàn lao động chưa được đảm bảo.
2.3.2. Các tác động điển hình của khai thác khoáng sản đến môi trường
- Công tác quy hoạch mặt mỏ, giải phóng mặt bằng
- Đào hào mở vỉa, các đường lò mở vỉa, đường lò chuẩn bị
- Công tác khoan, nổ mìn
- Công nghệ khai thác
- Công tác xúc bốc, vận chuyển
- Công tác thải đá, xây dựng bãi thải
Chương III
Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG KHÔNG KHÍ
3.1. Khái niệm về không khí và các yếu tố khí hậu
3.1.1. Khái niệm về không khí
Không khí, khí quyển là một loại tài nguyên thiên nhiên đặc biệt, khác với
những loại tài nguyên khác. Việc sử dụng và chất lượng của nguồn tài nguyên
này liên quan trực tiếp với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Không khí
không bị ô nhiễm hay còn gọi là không khí sạch có thành phần chủ yếu là Ni tơ
và oxy. Trong bảng 3.1 giới thiều thành phần không khí không bị ô nhiễm.
Bảng 3.1- Thành phần các chất trong không khí không bị ô nhiễm
Các chất

Công thức
phân tử
Tỷ lệ theo thể tích
(%)
Tổng trọng lượng trong
khí quyển (triệu tấn)
Nitơ
N
2
78,09
3.850.000.000
Oxy
O
2
20,94
1.180.000.000
Agon
Ar
0,93
65.000.000
Cacsbon đioxit
CO
2
0,032
2.500.000
Neon
Ne
18 PPm
64.000
Heli

He
5,2 PPm
3.700
Mêtan
CH
4
1,3 PPm
3.700
Kripton
Kr
1,0 PPm
15.000
Hyđrô
H
2
0,5 PPm
180
Nitơ oxit
N
2
O
0,25 PPm
1.900
Cacbon monoxit
CO
0,1 PPm
500
Ozon
O
3

0,02 PPm
200
Sunfua đioxit
SO
2
0,001 PPm
11
Nitơ đioxit
NO
2
0,001 PPm
8
3.1.2. Các yếu tố khí hậu
Khí hậu bao gồm các yếu tố nhiệt độ, độ ẩm, lượng mưa, áp suất khí
quyển, gió, các hiện tượng xảy ra trong khí quyển và nhiều yếu tố khí tượng
khác trong khoảng thời gian dài ở một vùng, miền xác định. Điều này trái ngược
với khái niệm thời tiết về mặt thời gian, do thời tiết chỉ đề cập đến các diễn biến
hiện tại hoặc tương lai gần. Khí hậu của một khu vực ảnh hưởng bởi tọa độ địa
lí, địa hình, độ cao, độ ổn định của băng tuyết bao phủ cũng như các dòng nước
lưu ở các đại dương lân cận. Khí hậu phân ra các kiểu khác nhau dựa trên các
thông số chính xác về nhiệt độ và lượng mưa.
Cổ khí hậu học nghiên cứu và miêu tả khí hậu trong quá khứ bằng cách sử
dụng thông tin từ cả hai yếu tố không thuộc sinh vật như trầm tích trong các hồ
nước lạnh hoặc trong lõi băng đá, và các yếu tố thuộc sinh vật như vòng sinh
trưởng của cây hoặc san hô, và có thể được sử dụng để mở rộng các thông tin về
lượng mưa và nhiệt độ cho từng vùng riêng biệt vào thời điểm trước khi các
công cụ giám sát thời tiết ra đời. Mô hình khí hậu là các mô hình toán học mô tả
khí hậu trong quá khứ, hiện tại và tương lai.

×