Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

Luận văn tốt nghiệp " Thực trạng khu kinh tế cửa khẩu hiện nay và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế Đông Bắc " phần 2 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (346.47 KB, 32 trang )

LuËn v¨n tèt nghiÖp

33

đáp ứng cho thị trường trong nước. Chính vì thế yếu tố địa lý là rất quan
trọng.
1.2 Yếu tố xã hội và trình độ phát triển.
Bên cạnh yếu tố địa lý thì các vấn đề xã hội, trình độ dân trí, phong
tục tập quán, cũng ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển khu kinh tế cửa khẩu.
Mặc dù, các khu kinh tế cửa khẩu vùng Đông Bắc nằm ở những nơi đô thị
hóa, có trình độ phát triển cao hơn so với các vùng khác trong vùng nhưng
nhìn tổng thể thì đây vẫn là khu vực khó khăn với trên 30 dân tộc sinh
sống.
Trình độ dân trí ở đây nhìn chung còn rất thấp với tỉ lệ mù chữ cao,
trình độ văn hóa thấp. Số lao động qua đào tọa chỉ chiếm 5% lực lượng lao
động của vùng, đáng chú ý là trong số này chủ yếu là giáo viên và bác sỹ.
Do trình độ lao động thấp, chủ yếu là lao động giản đơn dựa vào kinh
nghiệm là chính, không qua đào tạo nên năng suất lao động thấp, giá trị cá
biệt của hàng hóa cao nhưng chất lượng của sản phẩm còn hạn chế, vì thế
khả năng cạnh tranh của sản phẩm sẽ rất khó khăn khi trao đổi hàng hóa
qua cửa khẩu. Cơ cấu kinh tế vẫn còn ở mức lạc hậu, nông – lâm nghiệp
vẫn chiếm tỉ trọng cao khoảng 55%, do đó thu nhập bình quân đầu người
vẫn ở mức thấp.Vấn đề này sẽ dẫn đến hàng loạt các khó khăn khác như :
Đời sống văn hoá tinh thần không được đảm bảo, các dịch vụ xã hội còn
thiếu và ở mức yếu kém. Đây là những khó khăn cho việc phát triển giao
lưu kinh tế qua cửa khẩu biên giới và nó cũng tác động không nhỏ đến sự
phát triển khu kinh tế cửa khẩu.
2. Bầu không khí chính trị của các nước trong khu vực và trực tiếp là
quan hệ hữu nghị thân thiên giữa Việt Nam và Trung Quốc
Đây là một nhân tố mang tính khách quan, qui định sự hình thành
và phát triển các khu kinh tế cửa khẩu vùng Đông Bắc nói riêng và biên


giới phía Bắc nói chung, không chỉ hiện nay mà cả trong tương lai. Một
Đông Nam Á hòa bình hữu nghị và hợp tác sẽ là môi trường tốt để đẩy
LuËn v¨n tèt nghiÖp

34

mạnh giao lưu hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và các nước. Trong các quan
hệ này Trung Quốc có vị trí trực tiếp và ảnh hưởng to lớn tới các quan hệ
khác. Việt Nam và Trung Quốc là hai quốc gia có truyền thông hữu nghị
lâu đời đều lựa chọn con đường theo định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng Sản, nhân dân hai nước đặc biệt là cư dân sống ở
khu vực biên giới từ lâu đã có quan hệ tốt đẹp qua lại thăm thân, trao đổi
hàng hóa qua cửa khẩu, qua đường mòn biên giới ngoài vấn đề chính trị –
xã hội, trong phát triển kinh tế, Việt Nam và Trung Quốc còn có nhiều
điểm tương đồng về trình độ phát triển, cùng trong quá trình chuyển từ kế
hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường. Cơ cấu hàng hóa, tập quán tiêu
dùng cũng có nhiều điểm bổ sung cho nhau. Hơn nữa, điều quan trọng là có
nhu cầu mở rộng hợp tác để phát triển. Do đó việc hai nước kí Hiệp Định
phân chia đường biên giới trên bộ và được Quốc Hội hai nước phê chuẩn
và đầu năm 2000 là môi trường tốt để đẩy mạnh hợp tác toàn diện giữa hai
quốc gia.
Do đặc điểm của mô hình khu kinh tế cửa khẩu, sự hình thành và
phát triển của nó phụ thuộc chặt chẽ vào sự ổn định chính trị, an ninh biên
giới trong từng nước, giữa các nước có đường biên giới chung và các nước
trong khu vực. Đây là một thực tế giải thích vì sao mô hình này ở một số
nước đã thực hiện rất thành công nhưng ở Việt Nam mãi đến 1996 mới tiến
hành thí điểm. Hơn nữa thực tiễn lịch sử ở Việt Nam cũng đã chứng kiến
nhiều thời kì, khi quan hệ giữa hai nước lắng xuống khu vực biên giới trở
thành điểm nóng về an ninh, chính trị, trật tự- an toàn xã hội, phải đóng cửa
hàng loạt các cửa khẩu biên giới, và khi đó trao đổi thương mại hầu như

không có. Vì vậy vấn đề này không chỉ có vai trò quan trọng sống còn, có ý
nghĩa quyết định đến sự hình thành và phát triển khu vực cửa khẩu. Mà
trong tương lai, khi qui mô của loại hình này mở rộng, các hoạt động
thương mại xuất nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, hoạt động dịch vụ du lịch,
trao đổi thông tin tư vấn. Hội trợ phát triển thì sự liên kết không chỉ trực
LuËn v¨n tèt nghiÖp

35

tiếp giữa hai quốc gia, mà đòi hỏi sự tham gia có tính chất khu vực, nơi đây
sẽ thực sự là cầu nối, là kênh quan trọng hỗ trợ cho nền kinh tế hội nhập,
mở cửa theo xu thế toàn cầu hóa và cạnh tranh diễn ra gay gắt giữa các
nước, các nền kinh tế trong khu vực và thế giới.
3. Tác động của chính sách kinh tế đối ngoại và quan hệ kinh tế Việt
Nam Trung Quốc.
Sự phát triển của các khu kinh tế cửa khẩu phụ thuộc trực tiếp vào
chính sách kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Từ khi thực hiện
chính sách đổi mới năm 1986 đến nay đường lối đối ngoại mở rộng của
chúng ta : " Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước ", trên nguyên tắc:
bình đẳng, cùng có lợi; tôn trọng chủ quyền và không can thiệp và công
việc nội bộ của nhau; giữ vững độc lập; chủ quyền dân tộc; kiên định sự
lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội… Trên những định hướng cơ
bản đó, chúng ta chủ trương giữ vững các thị trường truyền thống, đồng
thời tìm kiếm và mở rộng thị trường ra các nước, các khu vực khác trên thế
giới. Trong đó, Trung Quốc được coi là thị thị trường truyền thống, có
nhiều tiềm năng, là thị trường lớn với hơn 1,3 tỉ dân, có nhiều nét tương
đồng với Việt Nam. Việc thực thi một chính sách đối ngoại đa phương hóa,
đa dạng hóa các hình thức kinh tế đối ngoại cho phép Việt Nam tìm kiếm
nhiều mô hình, hình thức kinh tế đa dạng, năng động. Trong đó, bên cạnh
các hoạt động xuất, nhập khẩu; hoạt động hợp tác, đầu tư nước ngoài; hoạt

động chuyển giao công nghệ; hoạt động tài chính, tiền tệ quốc tế; hoạt động
dịch vụ du lịch thu ngoại tệ…, các hình thức này kết hợp đa dạng, đan xen
với nhau, hỗ trợ nhau cùng phát triển. Từ đó nhiều mô hình kinh tế mới ra
đời, kết hợp được nhiều ưu điểm trong tổ chức, hoạt động của các hình
thức kinh tế đối ngoại, như khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ
cao, khu kinh tế cửa khẩu … Điều quan trọng hơn với chính sách kinh tế
đối ngoại rộng mở, nền kinh tế thực sự chuyển động theo xu hướng hội
nhập, mở cửa nhiều hơn đối với các nước láng giềng, các nước trong khu
LuËn v¨n tèt nghiÖp

36

vực, cũng như nhiều nơi khác trên thế giới. Việt Nam đă dần tạo lập được
khoảng 10 mặt hàng mũi nhọn, có lợi thế từ đặc điểm truyền thống của
kinh tế trong nước, nhưng có khả năng thâm nhập và thị trường quốc tế.
Tuy năng lực cạnh tranh của các sản phẩm trong nước còn đang hạn chế,
nhưng điểm yếu này đang từng bước được khắc phục. Chính sách kinh tế
đối ngoại hiện nay được coi là tiền đề tốt để hỗ trợ cho việc hình thành và
phát triển các khu kinh tế cửa khẩu nói chung và các khu kinh tế cửa khẩu
vùng Đông Bắc nói riêng.
Mặt khác, sự hình thành và phát triển các khu kinh tế cửa khẩu
vùng Đông Bắc còn phụ thuộc trực tiếp vào quan hệ kinh tế – thương mại
Việt – Trung trong những năm gần đây và trong tương lai.
4. Mức độ mở rộng quan hệ thị trường trong nước và áp lực cạnh tranh
quốc tế
Đây cũng là nhân tố tác động không nhỏ đến sự phát triển của khu
kinh tế cửa khẩu. Trên thực tế những năm từ 1996 đến nay, việc thí điểm
một số chính sách tại các khu kinh tế cửa khẩu cũng phản ánh rõ điều này.
Mặt khác, về lý thuyết, việc hình thành và phát triển khu kinh tế cửa
khẩu có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại đối với việc phát triển kinh

tế hàng hóa, mức độ và qui mô mở rộng các quan hệ thị trường cũng là môi
trường quan trong để khu kinh tế cửa khẩu tồn tại và phát triển, đến lượt
nó, khu kinh tế cửa khẩu ra đời sẽ đóng vai trò là cầu nối, tác động trở lại
đối với việc phát triển kinh tế hàng hóa trong nước, là cửa ngõ để nền kinh
tế hội nhập với khu vực và thế giới. Vì vậy, nói đến việc mở rộng các quan
hệ thị trường ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay, trước hết là việc hình
thành đầy đủ và đồng bộ các loại thị trường, tạo ra khuôn khổ pháp lý để
thị trường hoạt động đúng với vai trò và chức năng của nó trong nền kinh
tế.
Hiện nay và trong những năm tiếp theo, khi xu hướng toàn cầu hóa
mạnh mẽ và sâu rộng hơn, Việt Nam tham gia đầy đủ hơn vào các tổ chức
LuËn v¨n tèt nghiÖp

37

thương mại khu vực và quốc tế, tham gia nhiều hơn và các thị trường của
các quốc gia phát triển, thì áp lực cạnh tranh đối với sản xuất và trao đổi
thương mại quốc tế, trong đó có khu kinh tế cửa khẩu càng trở nên gay gắt.
Bởi vì, xét về bản chất trong quan hệ kinh tế quốc tế, hiệu quả kinh tế chỉ
đạt được khi trao đổi diễn ra bình đẳng, mỗi quốc gia chỉ xuất hàng hóa nào
mà thị trường quốc tế cần, những hàng hóa mà trong nước có lợi thế, đưa
lại giá trị chính sách biệt thấp hơn, có khả năng cạnh tranh. Ngược lại, nếu
chỉ xuất hàng thô, hàng được sản xuất với công nghệ lạc hậu, thị trường
quốc tế không cần thì hoặc là thua thiệt, hoặc là hàng hóa ứ đọng, ảnh
hưởng đến sản xuất trong nước, thậm chí biến thị trường trong nước trở
thành nơi tiêu thụ hàng hóa ế thừa của các quốc gia phát triển hơn. Khi đó,
vai trò và hiệu quả của việc hình thành và phát triển khu kinh tế cửa khẩu
sẽ mất tác dụng.
Trong quan hệ kinh tế quốc tế, trình độ phát triển kinh tế thị trường,
khả năng cạnh tranh của mỗi nước cũng được phản ánh thông qua quan hệ

thương mại. Thông qua hoạt động này, Nhà nước sẽ điều chỉnh các chính
sách phát triển nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ trong nước cho phù
hợp. Bởi vì, đây cũng là kênh quan trọng phản hồi những thông tin của thị
trường quốc tế đối với nền kinh tế của mỗi nước. Đối với quan hệ thương
mại qua các cửa khẩu biên giới Việt – Trung, những đặc điểm này cũng
được phản ánh đầy đủ cả về phạm vi và tính chất trong trao đổi thương mại
giữa hai nước. Áp lực cạnh tranh gay gắt của hàng hóa Trung Quốc đối với
hàng hóa vủa Việt Nam, đòi hỏi chúng ta phải không ngừng nâng cao sức
sản xuất trong nước, khả năng cạnh tranh của các sản phẩm cùng loại. Mặt
khác, trong thời gian đầu, khả năng cạnh tranh của sản phẩm nội địa cũng
kém cùng với những hạn chế về quản lý, chống buôn lậu và gian lận
thương mại, đã gây thiệt hại không nhỏ cho nền kinh tế, trong đó có trao
đổi hàng hóa qua các khu kinh tế cửa khẩu.
LuËn v¨n tèt nghiÖp

38

III. Phân tích các chính sách phát triển kinh tế với việc phát triển khu
kinh tế cửa khẩu vùng Đông Bắc.
Các chính sách thí điểm được áp dụng tại các khu kinh tế cửa khẩu
đã mang lại rất nhiều những kết quả khả quan và ngày càng thể hiện vị trí
và vai trò quan trọng của mình. Cho đến nay sau khi có Quyết định của Thủ
tướng Chính phủ số 53/2001/QĐ-TTg thì các khu kinh tế cửa khẩu đang
thực hiện các chính sách thí điểm theo các Quyết định trước đây của Thủ
tướng Chính phủ nay chuyển sang thực hiện theo Quyết định này.
1. Chính sách đầu tư và xây dựng cơ sở hạ tầng
Chính sách đầu tư và xây dựng cơ sở hạ tầng có vai trò rất quan
trọng trong việc tạo ra môi trường đầu tư để thu hút sự đầu tư không chỉ
các doanh nghiệp trong nước mà cả các doanh nghiệp ngoài nước. Và đặc
biệt đối với loại hình khu kinh tế cửa khẩu thì chính sách đầu tư và xây

dựng cơ sở hạ tầng có ý nghĩa hết sức quan trọng bởi nó ảnh hưởng trực
tiếp đến việc ra quyết định đầu tư của các doanh nghiệp.
Trong thời gian thực hiện thí điểm các chính sách ở các khu kinh tế
cửa khẩu thì chính sách đầu tư được thể hiện thông qua một số các qui
định, các Quyết định mang tính bổ sung, và qua các thông tư. Với một số
các nội dung cơ bản như sau: Ngoài quyền được hưởng các ưu đãi theo qui
chế hiện hành, các nhà đầu tư trong và ngoài nước còn được hưởng thêm
một số ưu đãi như :
- Chủ đầu tư được giảm 50% giá thuê đất và mặt nước so với khung
giá hiện hành của Nhà nước đang áp dụng tại các khu kinh tế cửa khẩu.
- Các chủ đầu tư được hưởng mức thuế ưu đãi ở một số ngành nghề,
lĩnh vực kinh doanh nhất định.
- Các chủ đầu tư nước ngoài được xét giảm nộp thuế chuyển lợi
nhuận ra nước ngoài trong từng trường hợp cụ thể.
Với các ưu đãi trên đã tạo ra sự thông thoáng, hấp dẫn có sức thu
hút các doanh nghiệp của nhiều tỉnh, nhiều vùng trong cả nước đến đó kinh
LuËn v¨n tèt nghiÖp

39

doanh xuất nhập khẩu, dịch vụ và đóng góp không nhỏ cho ngân sách của
tỉnh và Nhà nước. Qua đó góp phần tạo ra tăng trưởng nhanh cho chính các
khu kinh tế cửa khẩu điều đó càng cho chúng ta thấy được vai trò khá quan
trọng của các chính sách đầu tư. Tuy nhiên các chính sách đầu tư trên mới
chỉ là thí điểm nên nó còn một số điểm chưa phù hợp. Vì thế việc thu hút
đầu tư còn hạn chế, các nhà kinh doanh trong nước tại các địa phương
ngoài vùng biên giới, các nhà đầu tư nước ngoài còn chưa mạnh dạn đầu tư
vào các khu kinh tế cửa khẩu.
Để thúc đẩy quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng tại các khu vực cửa
khẩu thực hiện thí điểm thì được phép thành lập công ty xây dựng và phát

triển cơ sở hạ tầng là doanh nghiệp Nhà nước. Trong thời gian đến năm
2000 mỗi năm Nhà nước đầu tư riêng qua ngân sách tỉnh có các khu kinh tế
cửa khẩu không dưới 50% tổng số thu ngân sách trong năm trên địa bàn
khu vực cửa khẩu đó. Cơ chế đầu tư trở lại không dưới 50% số thu ngân
sách trên địa bàn khu kinh tế cửa khẩu đã đem lại một lượng vốn đầu tư lớn
cho địa phương. Thậm chí có nơi lượng vốn này còn cao hơn cả số ngấn
sách đầu tư cho các khu vực khác trong toàn tỉnh. Cơ chế này đã tạo điều
kiện cải tạo, nâng cấp, phát triển nhanh chóng cơ sở hạ tầng, góp phần tích
cực vào việc tạo ra một diện mạo mới, khang trang hơn tại khu kinh tế cửa
khẩu, làm tăng thêm niềm tự hào của nhân dân trong các quan hệ giao lưu
kinh tế, chính trị, ngoại giao, văn hóa, xã hội với nước láng giềng; đồng
thời tạo thêm động lực để nuôi dưỡng và tăng thêm nguồn thu ngân sách
Nhà nước tại khu kinh tế cửa khẩu.
Tổng số vốn đầu tư và danh mục các công trình cơ sở hạ tầng được
đầu tư từ vốn ngân sách do ủy ban nhân dân tỉnh có các khu kinh tế cửa
khẩu đề nghị, Bộ Kế hoạch và Đầu tư quyết định sau khi có ý kiến thỏa
thuận của Bộ Tài chính.
Chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu kinh tế cửa khẩu.
- Căn cứ số thực thu ngân sách Nhà nước hàng năm tại khu kinh tế
LuËn v¨n tèt nghiÖp

40

cửa khẩu Nhà nước đầu tư trở lại để xây dựng cơ sở hạ tầng khu kinh tế
cửa khẩu theo các mức sau đây. Đối với các khu kinh tế cửa khẩu thực hiện
thu ngân sách dưới 50 tỷ đồng/năm thì được đầu tư trở lại 100%. Đối với
các khu kinh tế cửa khẩu có số thực hiện thu ngân sách từ 50 tỷ đồng/năm
trở lên thì được đầu tư trở lại 50 tỷ đồng và 50% số thực thu còn lại. Đối
với các khu kinh tế cửa khẩu đã thực hiện 5 năm (kể từ khi thực hiện thí
điểm) và có số thực thu ngân sách trên 100 tỷ đồng/năm thì được đầu tư trở

lại không quá 50% số thực thu.
- Các khu kinh tế cửa khẩu được vay vốn ưu đãi Nhà nước (quỹ hỗ
trợ phát triển) để phát triển cơ sở hạ tầng và được sử dụng nguồn vốn quy
định theo điều khoản đã nêu.
- Các khu kinh tế cửa khẩu có số thực thu ngân sách thấp, ủy ban
nhân dân tỉnh bố trí trong kế hoạch ngân sách hàng năm để đầu tư. Việc
đầu tư các công trình hạ tầng tại khu kinh tế cửa khẩu do ủy ban nhân dân
tỉnh quyết định theo các quy định hiện hành, trên cơ sở quy hoạch, kế
hoạch được duyệt.
- Nếu các công trình hạ tầng trên địa bàn khu kinh tế cửa khẩu đã
được đầu tư đồng bộ, hoàn chỉnh thì được dùng nguồn vốn còn lại được
quy định để đầu tư hỗ trợ các công trình ngoài địa bàn khu kinh tế cửa khẩu
nhưng có liên quan và phục vụ trực tiếp khu kinh tế cửa khẩu. Chủ tịch ủy
ban nhân dân tỉnh chịu trách nhiệm về quyết định đầu tư của mình, đồng
thời thông báo cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư để tổng hợp, theo dõi chung.
2. Chính sách thuế
Chính sách về thuế có vai trò rất quan trọng trong việc khuyến
khích các nhà đầu tư tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh tại địa bàn
khu kinh tế cửa khẩu. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của các nhà
đầu tư khi tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh. Các ưu đãi về
thuế được thể hiện trong Quyết định của Thủ tướng Chính phủ với các nội
dung cơ bản như sau :
LuËn v¨n tèt nghiÖp

41

- Về thuế lợi tức: Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thực
hiện nộp thuế lợi tức theo thuế suất quy định tại giấy phép đầu tư ; các
doanh nghiệp trong nước áp dụng thuế suất, thuế lợi tức quy định cho từng
ngành nghề theo quy định tại Luật thuế lợi tức, Luật khuyến khích đầu tư

trong nước trong thời gian hoạt động của doanh nghiệp. Trong thời hạn 4
năm kể từ khi doanh nghiệp bắt đầu phải nộp thuế lợi tức, doanh nghiệp chỉ
phải nộp thuế với mức thuế suất thấp nhất trong khung thuế suất theo quy
định phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài được áp dụng thuế suất lợi tức 10% trong thời hạn 4 năm
kể từ khi doanh nghiệp bắt đầu phải phải nộp thuế lợi tức theo quy định
hiện hành của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Các doanh nghiệp
trong nước được áp dụng thuế suất lợi tức 25%trong thời hạn 4 năm kể từ
khi doanh nghiệp bắt đầu phải nộp thuế lợi tức theo quy định hiện hành của
Luật thuế lợi tức. Mọi ưu đãi về giảm thuế lợi tức sau khi kết thức thời hạn
miễn thuế lợi tức vẫn theo quy định hiện hành tại các Luật thuế lợi tức,
Luật khuyến khích đầu tư trong nước, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam, nhưng được tính toán trên cơ sở thuế suất xác định ở trên trong thời
hạn thuế suất đó được áp dụng.
- Về thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài: Các chủ đầu tư nước
ngoài khi đầu tư thành lập doanh nghiệp và kinh doanh tại khu vực cửa
khẩu Móng Cái nếu chuyển lợi nhuận ra nước ngoài thì chỉ phải nộp thuế
chuyển lợi nhuận ra nước ngoài với thuế suất 5% (áp dụng cho chủ đầu tư
lựa chọn để hưởng các ưu đãi đầu tư theo Luật khuyến khích đầu tư trong
nước hoặc theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam).
Với các ưu đãi về thuế trên đã tạo ra một sự thông thoáng để
khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Tuy nhiên việc áp dụng
các chính sách về thuế ở các khu kinh tế cửa khẩu vẫn còn thể hiện nhiều
bất cập và chưa thực sự yên tâm cho các nhà đầu tư.
IV. Thực trạng của các khu kinh tế cửa khẩu vùng Đông Bắc
LuËn v¨n tèt nghiÖp

42

1. Quá trình hình thành các khu kinh tế cửa khẩu vùng Đông Bắc.

1.1 Vài nét về đặc điểm và sự hình thành các cửa khẩu phía Bắc
* Thời kì trước đổi mới :
- Giao lưu kinh tế với bên ngoài qua các cửa khẩu trên bộ phía Bắc
gắn liền với sự thăng trầm của lịch sử mối quan hệ truyền thống, lâu đời
giữa Việt Nam và Trung Quốc. Từ xa xưa các triều đại phong kiến đã mở
nhiều điểm để nhân dân địa phương hai bên biên giới qua lại, buôn bán và
có những chính sách trao đổi hàng hóa, thuế khóa cụ thể. Thời kì Pháp
thống trị Việt Nam, Chính quyền địa phương và triều đình phong kiến Mãn
Thanh (Trung Quốc) đã kí kết nhiều văn bản liên quan đến cột mốc biên
giới và buôn bán qua các cửa khẩu hai nước. Bản "Điều ước Việt Nam năm
1885" và "Chương trình hợp tác tuần tra biên giới năm 1896" qui định mỗi
bên lập 25 đồn trú (trong đó có 19 điểm trên bộ và 6 điểm dưới biển) đồng
thời là những điểm họp chợ, trao đổi hàng hóa trên biên giới. Phần lớn
những điểm này được giữ đến ngày nay
- Đến năm 1950 hai nước Việt Nam và Trung Quốc chính thức thiết
lập ngoại giao. Tháng 4/ 1952 hai nước thông qua " Bị vong lục mậu dịch
" những năm sau đó lại kí tiếp các nghị định thư về buôn bán, trong đó có
ấn dịnh mở ba cặp cửa khẩu và 28 điểm trao đổi hàng hóa. Theo thỏa thuận
có 2 hình thức buôn bán là tiểu ngạch dân gian (giữa nhân dân hai bên vùng
biên giới) và các công ty quốc doanh của các địa phương dọc đường biên.
Những năm 1965 – 1975 trên biên giới đã có 28 cặp cửa khẩu (trong đó có
4 cửa khẩu quốc tế, 10 cặp cửa khẩu quốc gia và 14 cặp cửa khẩu tiểu
ngạch). Tháng 2/1979 chiến tranh biên giới phía Bắc xảy ra, từ đó quan hệ
giao lưu kinh tế gữa hai nước bị gián đoạn.
* Thời kì đổi mới và mở cửa kinh tế :
- Những năm 1986 – 1990 tình hình quan hệ hai nước đã bắt đầu
dịu đi và với sự thỏa thuận của chính phủ địa phương hai bên thì hàng chục
cặp cửa khẩu tiểu ngạch và nhiều đường mòn đã được mở để nhân dân hai
LuËn v¨n tèt nghiÖp


43

bên biên giới qua lại và trao đổi hàng hóa. Song hoạt động còn mang tính
dân gian, tự phát. Để đáp ứng nguyện vọng giao lưu của nhân dân 2 nước
Ban Bí Thư Trung Ương Đảng (khóa IV) đã ra thông báo 118/TB-TW ngày
19/11/1988. Hội đồng Bộ trưởng đã có chỉ thị số 32/CT ngày 21/2/1989, số
405 ngày 19/11/1990 để chấn chỉnh công tác quản lý vùng biên giới phía
Bắc. Tiếp đó cuộc gặp gỡ cấp cao giữa 2 Đảng và Nhà nước (tháng
11/1991) đã thống nhất chủ trương "khép lại quá khứ, mở ra tương lai" bắt
đầu thời kì mới bình thưòng hóa và mở cửa.
- Thực hiện chủ trương trên, ngày 7/11/1991 đại diện Chính phủ hai
nước kí "Hiệp định tạm thời về giải quyết các công việc trên biên giới…".
Sau Hiệp định, Chính phủ đã phê duyệt mở 21 cặp cửa khẩu với Trung
Quốc và số lượng các cặp cửa khẩu tính đến năm 1994 là 25 cặp cửa khẩu.
Điều đó thể hiện sự nỗ lực của cả hai bên trong quá trình nhằm cải thiện
giao lưu kinh tế giữa hai nước.
- Để tăng cường giao lưu kinh tế với Trung Quốc cũng như nhằm
đưa ra một chính sách quản lý phát triển cho phù hợp. Một trong sự thay
đổi quan trọng đầu tiên là chủ trương thực hiện chính sách thí điểm ở một
số cửa khẩu điều đó thể hiện qua việc xây dựng thí điểm khu kinh tế cửa
khẩu.
1.2 Quá trình hình thành các khu kinh tế cửa khẩu vùng Đông Bắc.
Để khuyến khích phát triển khu vực biên giới, ngày 18/9/1996, Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 675/TTg cho phép áp dụng thí
điểm một số cơ chế chính sách tại khu vực cửa khẩu Móng Cái đặt mốc cho
việc hình thành và phát triển các khu kinh tế cửa khẩu trong cả nước. Tính
đến tháng 1/1999 đã có thêm 8 khu kinh tế cửa khẩu được áp dụng thuộc
các tỉnh : Lạng Sơn, Lào Cai, Cao Bằng, Kiên Giang, Hà Tĩnh, Tây Ninh,
Quảng Trị, Kon Tum.
Chủ trương xây dựng các khu kinh tế cửa khẩu biên giới Việt –

Trung cùng nhằm đón trước triển vọng to lớn của quan hệ kinh tế – thương
LuËn v¨n tèt nghiÖp

44

mại Việt –Trung trong thời gian tới. Bởi vì hiệu quả các khu kinh tế cửa
khẩu chỉ phát huy được khi quan hệ kinh tế – thương mại được hai nước
thực sự quan tâm và phát triển ở mức độ nhất định. Hơn nữa khi các quan
hệ này càng phát triển thì khu kinh tế cửa khẩu sẽ đóng vai trò là khu kinh
tế mở, cùng động lực kinh tế để kéo các khu vực xung quanh phát triển,
góp phần thúc đẩy nhanh hơn nữa quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ở các vùng núi phía Bắc Việt Nam nói riêng và cả nước nói chung. Tuy
nhiên, số lượng cửa khẩu và vùng địa lý được phép xây dựng khu kinh tế
cửa khẩu chung trên các tuyến biên giới đất liền của cả nước, cho đến nay
mới chỉ là 10 mặc dù hiện nay một số địa phương đang tiếp tục đề nghị
được Chính phủ cho phép xây dựng các khu kinh tế cửa khẩu.
Vùng Đông Bắc Việt Nam có 5 tỉnh giáp với Trung Quốc là :
Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang và Lào Cai. Và trong đó có 4
khu vực địa lý được Chính phủ chính thức cho phép xây dựng khu kinh tế
cửa khẩu, đó là khu kinh tế cửa khẩu ở các tỉnh Quảng Ninh, Lạng Sơn,
Cao Bằng và Lào Cai. Điểm đáng chú ý là, các khu kinh tế cửa khẩu biên
giới phía Bắc Việt Nam đều nằm ở vùng Đông Bắc và cũng là các khu kinh
tế cửa khẩu được xây dựng đầu tiên ở nước ta với tư cách là thí điểm một
mô hình kinh tế mới.
Bảng 1 : Các vùng địa lý biên giới Đông Bắc Việt Nam
được phát triển khu kinh tế cửa khẩu.
Khu
vực cửa
khẩu
Phạm vi hành chính các địa phương thuộc

khu kinh tế cửa khẩu của Việt Nam
Cửa khẩu phía
Trung Quốc
1.
Móng
Cái
(Quảng
Ninh)
- Thị xã Móng Cái
- Các xã: Hải Xuân, Hải Hòa, Bình Ngọc,
Trà Cổ, Ninh dương, Vạn Ninh, Hải Yến,
Hải Đông, Hải Tiến, Vĩnh Trung, Vĩnh
Thực
Đông Hưng tỉnh
QuảngTây-
Trung Quốc
2. Lạng
Sơn
- Cửa khẩu Đồng Đăng (đường sắt);
- Cửa khẩu Hữu Nghị (đường bộ), gồm thị
Hữu Nghị
Quan- Quảng
LuËn v¨n tèt nghiÖp

45

trấn Đồng Đăng và xã Bảo Lam- huyện Cao
Lộc;
Tây- Trung Quốc
3. Cao

Bằng
- Cửa khẩu quốc gia Tà Lùng và Xã Tà
Lùng- huyện Quảng Hà.
- Cửa khẩu Hùng Quốc và xã Hùng Quốc
huyện Trà Lĩnh.
- Cửa khẩu Sóc Giang và xã Sóc Hà- huyện
Quảng Hà.
Thủy Khẩu

Long Bảng-
Quảng Tây
Bình Mãng
4. Lào
Cai
- Cửa khẩu quốc tế Lào Cai gồm: phường
Lào Cai, Phố Mới, Cóc Lếu, Duyên Hải; xã
Vạn Hòa, thôn Lục Cẩu, xã Đông Tuyển (thị
xã Lào Cai), thôn Na Mo xã Bản Phiệt-
huyện Bảo Thắng.
- Cửa khẩu Mường Khương: gồm toàn bộ xã
Mường Khương.
Hà Khẩu-
Vân Nam-
Trung Quốc


Kiều Dâu

Nguồn: Tổng hợp theo các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ,
từ năm 1996 đến nay.

* Nội dung chính sách thí điểm tại các khu kinh tế cửa khẩu:
- Mỗi một khu kinh tế cửa khẩu đều có những đặc thù riêng vốn có
nên những chính sách thực hiện thí điểm tại các khu kinh tế cửa khẩu
không thể hoàn toàn đồng nhất và nó được dựa trên các cở sở các điểm
chung nhất sau:
- Qui định về mặt địa bàn của các khu kinh tế cửa khẩu trên cơ sỏ
khai thác tối ưu về địa lý kinh tế, xã hội của cửa khẩu
- Cho phép phát triển đồng bộ các loại hình hoạt động thương mại
như: Xuất nhập khẩu, thương mại nhập tái xuất, vận chuyển hàng quá cảnh,
kho ngóại quan, cửa hàng miễn thuế, hội chợ triển lãm, các cửa hàng giới
thiệu sản phẩm, các cơ sở sản xuất, gia công hàng xuất khẩu, các chi nhán
đại diện các công ty trong nước ngoài nước,chợ cửa khẩu.
- Phát triển du lịch với thủ tục xuất, nhập cảnh phù hợp với đạc
điểm vùng biên giới theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho công dân hai
LuËn v¨n tèt nghiÖp

46

nước giáp khu vực khu kinh tế cửa khẩu và công dân nước thứ ba qua lại,
tạm trú tại khu khu kinh tế cửa khẩu.
- Qui định về đầu tư ngân sách Nhà nước cho khu khu kinh tế cửa
khẩu. Trong khoảng thời gian xác định (thường là 5 năm), Nhà nước đầu tư
riêng cho ngân sách Tỉnh có khu khu kinh tế cửa khẩu một tỷ lệ nhất định
(thường là không dưới 50%) từ tổng số ngân sách trong năm trên địa bàn
khu kinh tế cửa khẩu cho xây dựng cơ sở hạ tầng tại khu khu kinh tế cửa
khẩu.
- Quyết định khung khổ các chính sách về tài chính, tiền tệ phù hợp
với đặc điểm vùng biên.
- Qui định các vấn đề về quản lý Nhà nước với khu kinh tế cửa
khẩu.

* Việc hình thành các khu kinh tế cửa khẩu bao gồm bốn mục tiêu
- Một là phát triển kinh tế tại các địa bàn khu vực cửa khẩu trên cơ
sỏ khuyến khích, hỗ trợ, tạo điều kiện, tạo địa bàn thuận lợi để các doanh
nghiệp trong cả nước đầu tư kinh doanh trên địa bàn khu vực cửa khẩu; qua
đó tạo điều kiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương theo hướng
phát triển các ngành thương mại, dịch vụ, du lịch, công nghiệp
- Hai là nâng cao đời sống nhân dân taị các khu vực cửa khẩu và
các khu vực kề cận, góp phần nâng cao dân trí đông bào cùng biên thông
qua việc tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng và phát triển giao lưu kinh tế qua
các khu kinh tế cửa khẩu
- Ba là thực hiên chiến lược gắn việc giữ vững an ninh chín trị quốc
phòng, trật tư an toàn xã hội, chủ quyền quốc gia với việc phát triển kinh tế,
nâng cao đời sống và trình độ dân trí của nhân dân nhằm tạo thêm thế vững
mạnh về quốc phòng an ninh trên tuyến biên giới nói chung và trên địa bàn
các cửa khẩu nói riêng.
LuËn v¨n tèt nghiÖp

47

- Bốn là thực hiện tốt hơn việc điều hòa, phối hợp về quản lý Nhà
nước đối với khu kinh tế cửa khẩu; nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý
Nhà nước tại địa bàn.
Và sau giai đoạn thử nghiệm ngày 19/4/2001, Thủ tướng Chính phủ
đã ban hành quyết định 53/2001/QĐ_ TTg cho phép chính thức thực hiện
một số chính sách đối với khu kinh tế cửa khẩu biên giới.
2. Thực trạng về các khu kinh tế cửa khẩu vùng Đông Bắc .
2.1 Thực trạng các khu kinh tế cửa khẩu vùng Đông Bắc
2.1.1 Khu kinh tế cửa khẩu Móng Cái
Ngày 18/9/1996 Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định 675-TTg
cho “áp dụng thí điểm một số chính sách tại khu vực cửa khẩu Móng Cái”.

Sau nhiều năm thực hiện, được sự quan tâm giúp đỡ của các Bộ ngành
trung ương; Cùng với quyết tâm chỉ đạo triển khai thực hiện của tỉnh
Quảng Ninh, nên đã thu được kết quả tích cực trên các lĩnh vực tại địa bàn
huyện Hải Ninh (nay là thị xã Móng Cái) cũng như tỉnh Quảng Ninh về các
mặt như:
- Về thương mại-xuất nhập khẩu: Đã bước đầu hình thành các khu
thương mại dịch vụ, từng bước đáp ứng các nhu cầu phát triển mới: mở
rộng chợ Móng Cái, xây dựng mới các phố thương mại, cửa hàng miễn
thuế, kho ngoại quan, phát triển các cơ sở dịch vụ (ngân hàng, bưu điện,
khách sạn, nhà hàng ). Theo “Báo cáo tổng kết hai năm thực hiện Quyết
định 675/TTg của Thủ tướng Chính phủ” của UBND tỉnh Quảng Ninh
(ngày 10/3/1999), tổng kim ngạch hàng hóa xuất nhập khẩu bình quân hàng
năm tăng 27%. Trong đó hàng xuất khẩu tăng 34%, hàng nhập khẩu tăng
6%. Hàng chuyển tải, tạm nhập tái xuất, kho ngoại quan tăng 129%. Kim
ngạch xuất khẩu lớn gấp 3-4 lần kim ngạch nhập khẩu. Tổng kim ngạch
xuất khẩu năm 2002 đạt 248,3 triệu USD, bằng 83% kế hoạch, tăng 6,1%
so với năm 2001, trong đó: xuất khẩu địa phương (kim ngạch thực xuất,
không tính kim ngạch tạm nhập tái xuất) 56,4 triệu USD, vượt kế hoạch
LuËn v¨n tèt nghiÖp

48

16% tăng 20%. Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2003 là 264,4 triệu USD,
năm 2004 là 279,7 triệu USD. Tốc độ tăng bình quân từ năm 2001-2004 là
trên 6%
Số lượng người Trung Quốc sang buôn bán, làm ăn tại chợ Móng
Cái và thuê điểm mở cửa hàng buôn bán kinh doanh vẫn được duy trì. Các
công ty, các doanh nghiệp tư nhân, các hộ buôn bán nhỏ theo Nghị định 66
tăng bình quân 33% năm. Số lượng các chi nhánh, đại diện của các doanh
nghiệp trong và ngoài tỉnh tại khu vực cửa khẩu Móng Cái cũng tăng

nhanh. Hiện nay, đã có hai cửa hàng miễn thuế tại cửa khẩu Bắc Luân và
một điểm bán hàng tại cảng Vạn Gia đã được đưa vào hoạt động. Bốn kho
ngoại quan và kho chờ xuất.
- Xuất nhập cảnh và du lịch: Từ ngày thành lập cho đến tháng
11/1998, đã có trên 73 nghìn lượt người Trung Quốc vào Quảng Ninh bằng
giấy thông hành xuất nhập cảnh. Trong đó chủ yếu là khách du lịch (chiếm
98%) và một số người nhập cảnh với mục đích tìm hiểu kinh doanh. So với
thời kỳ 1994-1995, con số này tăng 4,8 lần. Khách du lịch Trung Quốc vào
Việt nam nhìn chung thực hiện tốt các quy định của Nhà nước về nhập
cảnh, xuất cảnh, cư trú, đi lại, cho đến nay tại địa bàn Móng Cái chưa có
trường hợp nào đáng tiếc xảy ra. Thực tế cho thấy khách đi tham quan, du
lịch bằng giấy thông hành được quản lý chặt chẽ hơn so với đi bằng hộ
chiếu. Số lượng khách lữ hành năm 1997 tăng 37.350 lượt người (195%);
năm 1998 so với năm 1997 tăng 3 981 lượt người (8,5%). Doanh thu từ du
lịch lữ hành năm 1998 tăng gấp 2 lần năm 1997. Vào năm 2002 tổng số
khách du lịch đạt 2,34 triệu lượt khách, tăng 18,9% so với cùng kỳ trong
đó: khách quốc tế 921,2 nghìn lượt khách (chiếm 39% tổng số khách) tăng
35,6%; khách lưu trú ước đạt 954,4 ngàn lượt khách, tăng 27,2% so với
cùng kỳ trong đó: khách quốc tế 564,5 ngàn lượt khách, tăng 74,1% tổng
doanh thu du lịch ước đạt 7 64,1 tỷ đồng, tăng 50,4%. Năm 2003 tổng số
khách du lịch đạt 2,78 triệu lượt khách tăng 19% so với năm 2002, năm
LuËn v¨n tèt nghiÖp

49

2004 tổng số khách du lịch đạt 3,34 triệu lượt khách tăng trên 20% so với
năm 2003.
- Thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước: Trên địa bàn khu cửa
khẩu Móng Cái hiện có trên 10 dự án được cấp phép với tổng số vốn đầu tư
80 triệu USD. Trong đó có 2 dự án được cấp phép từ trước, và trên 7 dự án

được cấp phép sau Quyết định 675-TTg. Bên cạnh đó, hiện còn 2 dự án đã
hoàn thành hồ sơ đang chờ cấp phép,trong đó có một dự án xin bổ sung
ngành nghề kinh doanh và tăng vốn đầu tư với tổng số vốn dự kiến lên đến
30 triệu USD. Ngoài ra, còn có hàng chục doanh nghiệp trong nước (chủ
yếu đó là các doanh nghiệp từ thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội) đang
làm thủ tục thuê đất để chuẩn bị kinh doanh.
- Xây dựng cơ sở hạ tầng: Từ khi được áp dụng cơ chế thí điểm
bằng nguồn vốn được đầu tư riêng qua ngân sách tỉnh, đến 12/1998 đã tập
trung xây dựng 56 dự án phát triển khu vực cửa khẩu Móng Cái với tổng số
vốn 201 tỷ đồng. Chủ yếu đầu tư vào các ngành giao thông, điện, cấp thoát
nước, và các công trình phúc lợi xã hội khác. Đã đưa vào sử dụng 10 cầu
trên quốc lộ 18A (Móng Cái-Tiên Yên), 2 bến cảng, 1 bến xe, 55 km đường
bộ: 173 km đường dây cáp 0,4 KV, và 125 trạm biến áp các loại, 83 km
đường dây tải 22 KV, cấp điện cho sản xuất kinh doanh và sinh hoạt ở khu
vực cửa khẩu. Một nhà máy cấp nuớc công suất 5.400m2/ngày, một hệ
thống cấp nước cho cư dân thị xã, một hệ thống thoát nước 24 km, đã được
đưa vào sử dụng. Xây dựng mới 60 phòng học cho các trường phổ thông và
1 nhà trẻ (300 cháu), nâng cấp bệnh viện đa khoa; Xây mới 5000 m2 nhà
cấp 2- cấp 3 cho các cơ quan chính quyền và các cơ quan quản lý khu cửa
khẩu.
- Về mặt xã hội: từ một khu vực nghèo của một huyện miền núi
biên giới, với kinh tế nông nghiệp, tự cấp tự túc là chủ yếu, Móng Cái nay
đã biến thành một khu vực phát triển mạnh, với cơ cấu kinh tế hoàn toàn
thay đổi. Móng Cái đã trở thành một khu đô thị có tốc độ phát triển nhanh,
LuËn v¨n tèt nghiÖp

50

hạ tầng cơ sở tăng nhiều. Đời sống của dân chúng được cải thiện rõ rệt,
nhất là về các điều kiện vật chất: thu nhập bình quân đầu người đã tăng từ

360 USD lên 472 USD vào năm 2002. Tỷ lệ người nghèo giảm từ 17%
xuống còn 11%.
Chúng ta có thể khẳng định rằng Móng Cái là một trong những cửa
khẩu quốc tế quan trọng nhất trên biên giới phía Bắc Việt Nam trong việc
giao lưu với Trung Quốc và các nước khác trong khu vực. Đặc biệt, Móng
Cái tiếp giáp với thị xã Đông Hưng là khu kinh tế mở của tỉnh Quảng Tây,
Trung Quốc. Khu kinh tế này đang được xây dựng thành một thành phố
lớn, hiện đại, đa chức năng và được xác định là cửa ngõ để Trung Quốc đi
vào thị trường Đông Nam Á.
Móng Cái có hệ thống đường bộ, đường biển giao lưu trong nước và
quốc tế thuận lợi. Vùng ven biển có thể xây dựng các cảng nhỏ, (cả cảng du
lịch và cảng thương mại) Mũi Ngọc, Thọ Xuân. Đặc biệt cảng Vạn Gia là
cảng chuyển tải xuất nhập khẩu giữa hai nước Việt-Trung qua khu vực này.
Móng Cái đã có 1 sân bay nhỏ có thể nâng cấp để phục vụ việc đi lại
bằng hàng không. Nhiều công trình hạ tầng quan trọng như hệ thống thông
tin viễn thông, lưới điện 110 kv, đường 18A nối với thành phố Hạ Long,
cảng biển Vạn Gia, chợ, khách sạn, trung tâm hội chợ triển lãm, công viên
đã được đầu tư nâng cấp.
Móng Cái có bãi biển Trà Cổ nổi tiếng với bãi cát phẳng, chạy dài
17km. Khu du lịch Trà Cổ, Vĩnh Thực gắn với quần thể du lịch Hạ Long-
Bái Tử Long càng tạo ra sức hấp dẫn mạnh mẽ. Trong quy hoạch tổng thể
phát triển khu vực Móng Cái được phân thành 3 chức năng: khu thương
mại quốc tế, khu du lịch và khu công nghiệp.
Với những lợi thế của mình, Móng Cái là khu vực cửa khẩu giàu
tiềm năng. Nhằm đưa Móng Cái thành địa bàn có sức thu hút nhà đầu tư,
doanh nghiệp trong và ngoài nước.
LuËn v¨n tèt nghiÖp

51


Mặc dù có những mặt tích cực nêu trên thì còn có nhiều tồn tại hạn
chế Quyết định 675-TTg và 103-TTg áp dụng vào Móng Cái còn rất hạn
hẹp, không đồng bộ, mặt khác Nghị định số 57/CP ngày 31/7/1998 của Thủ
tướng Chính phủ và các Nghị định, thông tư giảm thuế để khuyến khích
xuất khẩu và đầu tư thì Quyết định 675-TTg và 103-TTg chính sách ưu đãi
không còn nữa nên chưa tạo ra bước phát triển nhanh, mạnh ,vững chắc ở
khu vực Móng Cái về các lĩnh vực, đặc biệt về kinh tế và lợi thế của cửa
khẩu Móng Cái về thương mại – xuất nhập khẩu, du lcịh, dịch vụ, cảng
biển chưa được nhiều mặt. Mặt khác, mấy năm qua, Trung Quốc đã tập
trung xây dựng khu khai phát Đông Hưng (tiếp giáp với Móng Cái) thành
một khu kinh tế cửa khẩu phát triển với cơ chế chính sách ữu đãi đặc biệt là
đối tựợng hợp tác cạnh tranh trực tiếp về phát triển kinh tế – xã hội đối với
thị xã Móng Cái của ta.
2.1.2. Khu kinh tế cửa khẩu Lạng Sơn
Lạng Sơn có 2 cửa khẩu quốc tế là cửa khẩu đường sắt Đồng Đăng
và cửa khẩu đường bộ Hữu Nghị; có 2 cửa khẩu quốc gia là Chi Ma (huyện
Lộc Bình), Bình Nghi (huyện Tràng Định), cửa khẩu Tân Thanh và 7 cặp
chợ biên giới với Trung Quốc. Lạng Sơn có 10 huyện và 1 thành phố, 266
xã, phường, thị trấn.
Ngày 11/9/1997, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định 748/TTg
cho phép áp dụng thí điểm một số cơ chế chính sách mới tại khu vực các
cửa khẩu biên giới giữa Lạng Sơn và Trung Quốc. Việc triển khai thực hiện
Quyết định của Thủ tướng đã được tỉnh xác định là một trong những nhiệm
vụ trọng tâm, nên đã tập trung lực lượng để thực hiện. Sau một thời gian
thực hiện, đã đạt được một số kết quả ban đầu:
- Về xuất nhập cảnh (XNC) và du lịch: UBND Tỉnh đã cùng với các
ngành hữu quan thống nhất công tác quản lý XNC và hoạt động của người
nước ngoài trên địa bàn thông qua các Quyết định số 314 UB QĐ ngày
11/3/1998 của UBND tỉnh về việc ban hành “Qui định tạm thời về XNC tại
LuËn v¨n tèt nghiÖp


52

khu vực Đồng Đăng, Hữu Nghị, Tân Thanh” và “Qui chế phối hợp tạm thời
quản lý khách XNC qua ba cửa khẩu và quản lý hoạt động của người nước
ngoài trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn” : Hướng dẫn người Trung Quốc và người
nước ngoài khác nhập cảnh và tạm trú tại khu vực thí điểm; cấp giấy phép
cho người Trung Quốc vào các địa điểm khác trong tỉnh; Cấp giấy thông
hành cho người Việt Nam sang huyện biên giới của Trung Quốc; quản lý
người qua lại các cặp chợ tại khu vực cửa khẩu Tân Thanh. Quyết định số
468/UB ngày 18/4/1998 của UBND tỉnh qui định việc thu và sử dụng phụ
phí du lịch để đầu tư phát triển du lịch trên địa bàn; chỉ định Công ty Du
lịch- XNC làm đầu mối đưa đón khách bằng thẻ du lịch, vv Hoạt động du
lịch tăng nhanh, bình quân tăng từ 13-18%/năm về lượng khách. Doanh thu
du lịch tăng khá, bình quân 15%/năm, lượng khách du lịch năm 2000 đến
Lạng Sơn trên 180.00 lượt người, trong đó riêng khách quốc tế đã lên đến
hơn 60.000 lượt người. Năm 2004 lượng khách du lịch đến Lạng Sơn ước
đạt khoảng 301.800 người đây là một con số đáng khích lệ. Kể từ khi
Quyết định số 53/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành vào ngày
19/4/2001 đã tạo đà cho sự phát triển khu kinh tế cửa khẩu Lạng Sơn ngày
một mạnh mẽ hơn.
- Về thương mại- xuất nhập khẩu (XNK): Công tác xuất nhập khẩu đã
có sự tăng trưởng khá, đến nay đã có hơn 350 doanh nghiệp trong cả nước
tham gia hoạt động thương mại, xuất nhập khẩu qua khu vực cửa khẩu biên
giới của Lạng Sơn trong khi năm 1996 có 240 doanh nghiệp trong cả nước
thực hiện xuất nhập khẩu qua Lạng Sơn, năm 1998 là 268 và năm 1999 là
300 doanh nghiệp. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu 4 năm đạt 1.400 triệu
USD. Điều đáng chú ý là hoạt động ngoại thương qua khu vực cửa khẩu
Lạng Sơn luôn suất siêu, các sản phẩm thuộc nhóm hàng nông-lâm hải sản,
thủ công mỹ nghệ là chủ yếu, tạo điều kiện cho sản xuất chế biến phát

triển (năm 1997: tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 303 triệu USD, trong
đó xuất khẩu đạt 205 triệu USD, năm 2000: tổng kim ngạch xuất nhập khẩu
LuËn v¨n tèt nghiÖp

53

đạt xấp xỉ 700 triệu USD, trong đó xuất khẩu đạt gần 500 triệu USD). Năm
2004 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt khoảng 1421 triệu USD. Một số
doanh nghiệp trong nước đã có sự liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp
ở Lạng Sơn để tổ chức sản xuất vùng nguyên liệu, chế biến sản phẩm tại
nơi sản xuất, nhằm nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu, tạo được công ăn
việc làm cho nhiều lao động… Để tạo đà cho việc thúc đẩy hoạt động
thương mại Lạng Sơn đã khai trương phòng quản lý xuất nhập khẩu theo
Quyết định số 0679/QĐ-BTM ngày 1/6/2004 của Bộ thương mại. Phòng
quản lý xuất nhập khẩu khu vực Lạng Sơn thực hiện cấp giấy chứng nhận
xuất xứ hàng hoá mẫu E tại thành phố Lạng Sơn cho các doanh nghiệp và
thương nhân trong và ngoài tỉnh xuất khẩu hàng hoá nông sản, trái cây Việt
Nam sang thị trường Trung Quốc qua các cửa khẩu của Lạng Sơn và toàn
quốc từ 01/02/2005.
- Về hoạt động đầu tư: Cho tới năm 2004 có trên 10 dự án đầu tư
đã và đang triển khai tại khu kinh tế cửa khẩu với tổng số vốn lên đến hàng
trăm tỉ đồng, trong đó là phần lớn là các dự án đầu tư nước ngoài. Hiện nay
tại Tân Thanh có hàng chục đơn vị trong nước đã đăng kí thuê đất đầu tư
và một số đơn vị của Việt Nam đã và đang làm thủ tục liên doanh với các
công ty nước ngoài vốn đầu tư trên 15 triệu USD. Số vốn đầu tư nước
ngoài vào khu vực cửa khẩu tuy còn nhỏ bé nhưng đã nói lên sự hấp dẫn
của khu kinh tế cửa khẩu này, vì thời gian xây dựng chưa nhiều và còn
nhiều việc đang tiếp tục triển khai. Công tác tổ chức thu ngân sách đã có
nhiều tiến bộ, tăng trưởng khá hơn, thường năm sau cao hơn năm trước, và
vượt chỉ tiêu kế hoạch trên giao. Từ đó có nguồn để đầu tư trở lại cho việc

xây dựng cơ sở hạ tầng, dịch vụ phục vụ cho công tác xuất nhập khẩu và
các hoạt động thương mại trên địa bàn. Trong hơn sáu năm tính từ khi
thành lập khu kinh tế cửa khẩu, tổng số vốn được đầu tư trở lại cho khu
kinh tế cửa khẩu hơn 1000 tỷ đồng.
LuËn v¨n tèt nghiÖp

54

- Về xây dựng cơ sở hạ tầng: Cho đến tháng 1 năm 2000, đã triển
khai thực hiện giá trị khối lượng hoàn thành là 150,830 tỷ đồng; đã bàn
giao đưa vào sử dụng 54 dự án được phê duyệt với tổng đầu tư là 292,201
tỷ đồng. Trong đó, dự án giao thông có 15 hạng mục với số vốn 138,6 tỷ
đồng; dự án điện nước có 10 hạng mục với số vốn 36,4 tỷ đồng; dự án giáo
dục y tế có 5 hạng mục, với số vốn 24,8 tỷ đồng; các công trình công cộng
và quản lý nhà nước có 24 hạng mục với số vốn 92,5 tỷ đồng. Các cơ sở
vật chất được xây dựng nhanh, quy hoạch được xây dựng và xét duyệt kỹ,
từ đó các tuyến đường giao thông được xăy dựng và mở rộng, nâng cấp tốt
hơn, hệ thống đường nội thị ở cửa khẩu được xây dựng cơ bản hoàn thành,
hệ thống cấp, thoát nước được xây dựng, điện chiếu sáng, thông tin liên lạc
được đảm bảo, nhiều khách sạnm khu thương mại, nhà nghỉ và các cơ sở
dịch vụ khác được xây dựng mới, đảm bảo điều kiện phục vụ tốt hơn. Đã
chú trọng tập trung ưu tiên một được số dự án đầu tư phục vụ đảm bảo
quốc phòng an ninh khu vực và các dự án kết hợp kinh tế với quốc phòng.
Một số khu du lịch cũng được khôi phục hoặc đầu tư xây dựng mở rộng
nhe: khu du lịch Mẫu Sơn-thuộc xã biên giới huyện Lộc Bình, nằm trên độ
cao 1200m so với mặt nước biển, khu du lịch thắng cảnh Tam-Nhị Thanh,
thành nhà Mạc, và nhiều cơ sở dịch vụ du lịch khác ở Đồng Đăng, Hữu
Nghị v.v…
Các tuyến Quốc lộ trên địa bàn đã được xây dựng:
+ Quốc lộ 1A: là tuyến Quốc lộ xuyên Việt, từ cửa khẩu Hữu Nghị

Quan qua địa phận Lạng Sơn về Hà Nội
+ Quốc lộ 1B: Lạng Sơn qua Thái Nguyên
+ Quốc lộ 4B: Lạng Sơn đi Cao Bằng
+ Quốc lộ 4A: Lạng Sơn qua Tiên Yên đến thị xã Móng Cái-Quảng
Ninh
+ Quốc lộ 31: Đình Lập-Bắc Giang
+ Quốc lộ 279: Bắc Cạn-Bình Gia (Lạng Sơn)
LuËn v¨n tèt nghiÖp

55

+ Các tuyến đường sắt:
+ Đường sắt liên vận quốc tế Hà Nội-Trung Quốc chạy qua địa phận
Lạng Sơn khoảng trên 100 km.
+ Đường sắt Lạng Sơn-Na Dương
Con đường thông thương giữa các khu kinh tế cửa khẩu của Lạng
Sơn với các địa bàn khác trong nước cũng như ngoài nước là khá thuận tiện
với chất lượng ngày càng được nâng cao.
- Về thu ngân sách: Trong 2 năm 1997-1998, số thu trên địa bàn thí
điểm đạt bình quân 154 tỷ đồng. Năm 1999, số thu trên địa bàn đạt 276,704
tỷ đồng, chiếm 67% tổng thu ngân sách của tỉnh Lạng Sơn. Từ năm 2001
đến nay mỗi năm số thu từ khu kinh tế cửa khẩu tăng 15-25% so với năm
trước. Năm 2002 số thu từ khu kinh tế cửa khẩu đạt 687,5 tỉ đồng; năm
2003 đạt 825 tỉ đồng; năm 2004 đạt xấp xỉ 950 tỉ đồng. Con số này thể hiện
công tác quản lý nguồn thu, chống buôn lậu và gian lận thương mại được
thực hiện tốt nhờ đó mà tạo ra môi trường thông thoáng cho hoạt động
thương mại xuất nhập khẩu phát triển, làm nguồn thu ở mức cao mặc dù
thời điểm đó kinh tế các nước trong khu vực đang bị khủng hoảng.
Các kết quả trên cho thấy sự nỗ lực của các cấp các ngành địa
phương trong việc tổ chức thực hiện, quản lý và phối hợp một cách nghiêm

túc trong thời gian qua. Trong thời gian gần đây nếu được Chính phủ cho
phép Lạng Sơn tiếp tục thực hiện các chính sách đã được ban hành với sự
điều chỉnh bổ sung cho thích hợp với tình hình thực tế thì trong vòng vài
năm trước mắt bộ mặt khu vực cửa khẩu biên giới sẽ có sự thay đổi cơ bản
theo chiều hướng tạo điều kiện cho sự hội nhập của nước ta với khu vực và
thế giới, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện, nền kinh tế tỉnh phát
triển lên một trình độ mới vững chắc.
Tuy nhiên để có thể có những bước tiến như trên đòi hỏi sự nỗ lực
hơn nữa của các cấp các ngành địa phương để có thể khắc phục được một
số những hạn chế còn tồn tại sau:
LuËn v¨n tèt nghiÖp

56

- Sự điều hòa phối hợp chính sách chưa được đồng bộ, chưa thực sự
thông thoáng. Các chính sách về XNC, XNK, quản lý thu đổi tiền tại các
khu vực biên giới chưa được điều chỉnh kịp thời; chưa mạnh dạn phân cấp
cho địa phương tự quyết định đầu tư trong XDCB; chưa giải quyết được
việc cấp hóa đơn thu thuế cho lưu thông hàng hoá nhập theo Quy chế chợ
biên giới Việt – Trung.
- Các chính sách còn chưa thể hiện được sự ưu tiên đặc biệt đối với
khu vực kinh tế cửa khẩu. Ngoài chính sách về tài chính, hầu hết vẫn thực
hiên theo các qui định chung của cả nước.
- Ta chưa có một cơ quan thống nhất quản lý điều hành các hoạt
động giao lưu kinh tế với Trung Quốc; chưa có tổ chức nghiên cứu thị
trường một cách đầy đủ, kịp thời nắm những thông tin cần thiết để có đối
sách phù hợp.
- Các sản phẩm du lịch của tỉnh còn đơn giản, chưa tương xứng với
tiềm năng vốn có của địa phương nên chưa có sức lôi cuốn du khách lưu
lại. Công tác khảo sát thiết kế một số công trình chưa sát với thực tế nên

trong quá trình còn phải bổ sung nhiều.
- Mặc dù đã có nhiều cải cách về quy trình thủ tục trong công tác
XNK, XNC, kiểm dịch tại các cửa khẩu, nhưng vẫn còn nhiều phiền hà nảy
sinh tiêu cực thông qua thực hiện công tác chuyên môn. Điều kiện trang
thiết bị phục vụ cho công tác kiểm dịch còn yếu kém, chưa đáp ứng được
yêu cầu thực tế.
2.1.3 Khu kinh tế cửa khẩu Cao Bằng
Khu kinh tế cửa khẩu ở Cao Bằng được thành lập theo Quyết định
số 171/1998/QĐ-TTg ngày 09/9/1998 của Thủ tường Chính phủ, bao gồm
ba khu vực: khu kinh tế cửa khẩu Tà Lùng rộng 500 ha; khu vực kinh tế
cửa khẩu Hùng Quốc rộng 30 ha; khu vực kinh tế cửa khẩu Sóc Giang rộng
58 ha và một số xã, được ưu tiên phát triển thương mại, đầu tư, xuất nhập
khẩu, dịch vụ, du lịch, công nghiệp và nông nghiệp theo luật pháp của Việt
LuËn v¨n tèt nghiÖp

57

Nam phù hợp với thông lệ quốc tế. Tỉnh ủy, HĐND và UBND tỉnh nhận
thấy việc áp dụng các chính sách ưu đãi là một cơ hội rất lớn để có thể khai
thác tiềm năng thế mạnh của tỉnh. Khi các hoạt động kinh tế tại khu vực
cửa khẩu được đẩy mạnh có tác dụng thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh
doanh và nâng cao hiệu quả kinh tế; tác động đến các mặt kinh tế, đời sống
và quốc phòng an ninh, phát triển mối quan hệ giữa trong nước và nước
ngoài. Do đó ngày 19/12/1998 UBND tỉnh đã ra Quyết định số 2461/QĐ-
UB thành lập Ban chỉ đạo triển khai thực hiện QĐ 171/1998/TTg. Sau đó
vào ngày 5/2/1999 UBND tỉnh đã ra Quyết định số 122/1999/QĐ-UB giao
chỉ tiêu kế hoạch năm 1999, nguồn thu để lại cửa khẩu là 14 tỉ đồng để đầu
tư xây dựng cơ sở hạ tầng theo đề án. Bên cạnh đó là một số văn bản khác
được ban hành của các cấp từ Trung ương xuống địa phương để triển khai
thực hiện.

Với tinh thần trên tỉnh Cao Bằng đã có những thành tựu về phát
triển kinh tế như: Tốc độ tăng trưởng GDP đã tăng rõ rệt; cơ cấu kinh tế
chuyển dịch theo hướng ngày càng hợp lý; công nghiệp tăng mạnh trong
thời gian gần đây, nông nghiệp đã có xu hướng giảm dần, dịch vụ tăng ở
mức hợp lý. Đặc biệt là hoạt động xuất khẩu chính ngạch tăng mạnh, năm
2003 tổng giá trị xuất khẩu đạt 39 triệu USD, thì năm 2004 đã đạt tói 40,75
triệu USD,. Năm 2003 thu thuế xuất nhập khẩu được 49,01 tỉ đồng, năm
2004 được 59,9 tỉ đồng, tăng 22% so với năm 2003. Trong đó thu ngân
sách Nhà nước trên địa bàn 2 khu vực kinh tế cửa khẩu đạt trên 38,9 tỉ đồng
chiếm 65% tổng số thu thuế xuất nhập khẩu năm 2004. Và trong những
năm gần đây tỉ lệ tăng nay không những không giảm mà còn có xu hướng
tăng mạnh hơn.Điều đó càng khẳn định rõ hơn sự đúng đắn và phù hợp của
chính sách áp dụng tại khu vực kinh tế cửa khẩu.
Bên cạnh những mặt làm được vẫn còn có một số mặt chưa được
làm tốt như:

×