Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Giải pháp đẩy mạnh Xuất khẩu thủy sản sang thị trường EU - 3 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.93 KB, 9 trang )


Theo dự tính, số lao động trong ngành thủy sản năm 2000 sẽ là 3,4 triệu người (trong
đó: khai thác hải sản khoảng 420.000 người, nuôi trồng thủy sản khoảng 559.364
người, chế biến thủy sản: 58.768 người, lao động dịch vụ nghề cá khoảng 1.991.868
người). Do vậy số đân số dựa vào nghề cá sẽ tăng lên khoảng 8,1 triệu người vào năm
2000 và 10 triệu người vào năm 2010. Hơn nữa, thu nhập trực tiếp của những người
lao động thường xuyên trong nghề cá và nuôi trồng thủy sản dự tính sẽ tăng trung bình
16%/năm trong thời gian nêu trên. Trên 1,2 triệu người trong các hộ gia đình phụ
thuộc vào nghề cá và nuôi trồng thủy sản sẽ có thêm thu nhập vào năm 2000. Điều đó
có nghĩa là số dân được ngành thủy sản hỗ trợ sẽ tăng 3 triệu người.

III. Những yêu cầu về luật pháp và tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm của Eu đối với
hàng thuỷ sản của việt nam:
EU là thị trường khó tính, chọn lọc, với những yêu cầu nghiêm ngặt với tiêu chuẩn
chất lượng, an toàn, vệ sinh thực phẩm cao. Chỉ thị 91/493/EEC ban hành tháng 6 năm
1993 quy định các doanh nghiệp tại nước xuất khẩu phải có điều kiện sản xuất tương
đương như các doanh nghiệp của nước nhập khẩu và phải được cơ quan kiểm tra chất
lượng của EU công nhận. Đối với hàng thực phẩm đóng gói phải ghi rõ tên sản phẩm,
thành phần, trọng lượng, thời gian và cách sử dụng sản phẩm nơi sản xuất, các điều
kiện để bảo quản và sử dụng, m• số và m• vạch để nhận dạng lô hàng. Đặc biệt cấm
nhập những sản phẩm thủy sản bị nhiễm độc do tác động của môi trường hoặc do các
chất phụ gia không được phép sử dụng.
Do có những khó khăn từ đặc điểm của thị trường EU: như lượng hàng cung cấp phải
ổn định quanh năm, trong thanh toán quốc tế phải mở L/C trả chậm 6 tháng hoặc 1

năm, sự khác biệt về luật lệ và thói quen mua bán, chi phí vận chuyển và bảo hiểm
cao Nhưng cản trở lớn nhất hiện nay của các doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu
hàng thủy sản sang EU vẫn là chất lượng sản phẩm. Yêu cầu chất lượng hàng thủy sản
chia làm hai hướng: hoặc là giữ nguyên trạng thái ban đầu (thủy sản tươi sống) hoặc là
chế biến theo những công nghệ nhằm duy trì tốt chất lượng nguyên thủy và tạo ra sản
phẩm tiện lợi cho người tiêu dùng.


Hiện nay EU đánh giá chất lượng sản phẩm thuỷ sản theo 3 chỉ tiêu:
- Chỉ tiêu cảm quan: Trạng thái tự nhiên, mùi vị, màu sắc của sản phẩm.
- Chỉ tiêu hoá học: Quy định hàm lượng Nitơ dưới dạng Amoniăc, độ pH trong 1 gam
sản phẩm.
- Chỉ tiêu vi sinh: Quy định loại, lượng, khuẩn có trong sản phẩm như: khuẩn hoá khí,
khuẩn hiếm khí, khuẩn Coliforimen
Hiện tại hàng thủy sản của Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu về tiêu chuẩn
chất lượng, tiêu chuẩn an toàn và vệ sinh thực phẩm của EU.

Chương II.
thực trạng xuất khẩu thủy sản của việt nam sang eu trong những năm qua


i. khái quát đặc điểm thị trường eu
1. Về kinh tế - chính trị
Từ năm 1968, EU đ• là một thị trường thống nhất hải quan, có định mức thuế hải quan
chung cho tất cả các nước thành viên. Ngày 07/02/1992, Hiệp ước Maastricht được ký

kết tại Hà Lan mở đầu cho sự thống nhất chính trị, kinh tế, tiền tệ giữa các nước thành
viên EU. Cho đến nay, EU đ• là một thị trường rộng lớn, bao gồm 15 quốc gia với gần
400 triệu người tiêu dùng. Thị trường EU thống nhất cho phép tự do lưu thông người,
hàng hóa, dịch vụ và vốn giữa các nước thuộc Hiệp hội trao đổi tự do Châu Âu
(AELE), tạo thành một thị trường gồm 380 triệu người tiêu dùng.
Hiện nay, hàng rào buôn bán giữa 15 nước thành viên của EU đ• bị xóa bỏ, do vậy thị
trường chung Châu Âu là thị trường lớn nhất thế giới. Thị trường chung Châu Âu
không chỉ là thị trường xuất khẩu lớn nhất thế giới mà còn là thị trường nhập khẩu
hàng đầu thế giới, ngược nghĩa với “ bức tường thành Châu Âu “.
Hơn nữa, buôn bán của EU với các nước đang phát triển cũng năng động như với các
nước công nghiệp trên thế giới. Trong thực tế, ĐôngNam á là vùng hiện đang có nhịp
độ tăng trưởng buôn bán cao nhất với EU, cả xuất lẫn nhập khẩu.

Về chính trị, Liên minh Châu Âu (EU) không phải là một tổ chức đế quốc với hệ tư
tưởng chính trị cứng nhắc, sắp sẵn. EU hiện nay gồm 15 chính phủ nhưng những chính
phủ này không bao giờ được bầu cùng một lúc và cũng không bao giờ chịu ảnh hưởng
của các hệ tư tưởng chính trị cánh tả hoặc hữu. Tất cả 15 chính phủ đều tuân theo một
đường lối chung về đân chủ.Đặc điểm nổi bật của các nước EU trong thời gian vừa
qua là kinh tế của các nước đều tăng trưởng, tuy có cao thấp khác nhau, nhưng ổn
định. Điều đó thể hiện cụ thể qua bảng số liệu sau:


Bảng 3: Dự báo của Bundesbank về tăng trưởng GDP tại
các nước EU năm 1999 - 2000 (%)

Tên nước 1998 1999 2000
áo 3,3 2,5 3,0
Bỉ 2,9 2,0 2,3
Anh 2,3 1,0 1,5
Đức 2,8 2,0 2,5
Hy Lạp 3,5 3,0 2,8
Đan Mạch 2,7 1,5 2,3
Ai-rơ-len 9,5 7,5 7,5
Tây Ban Nha 3,8 3,4 3,3
Italia 1,4 1,6 2,6
Hà Lan 3,7 2,6 3,0
Bồ Đào Nha 4,2 3,2 2,5
Phần Lan 5,0 3,0 3,2
Pháp 3,2 2,5 2,8
Thụy Điển 2,9 2,2 2,6
Nguồn: Tạp chí Thương mại số 26/ 1999
2.Về mức sống dân cư
Liên minh Châu Âu là khu vực có mức GDP bình quân đầu người rất cao, trong những

năm gần đây mức bình quân đó là khoảng 20.000 đô la Mỹ. Tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) trong một số năm qua là trên 8000 tỷ USD, chiếm gần 30% GDP của thế giới.
Dân số khu vực EU khoảng 375 triệu người, chiếm 6,5% dân số toàn thế giới.

Nếu như năm 1997, mức GDP bình quân đầu người là 21.893 đô la Mỹ thì năm 1999
là 21.764 đô la Mỹ, năm 2000 được dự báo là 22.872 đô la Mỹ và sẽ tăng lên 29.531
đô la Mỹ vào năm 2003.
EU là thị trường mà người dân có mức sống cao với số dân ít so với các khu vực khác,
nên nhu cầu ở EU là rất lớn (luôn đạt mức 2% tăng trưởng). Hàng năm một người dân
EU chi hơn một nửa mức GDP cho tiêu dùng cá nhân.


3. Về thói quen tiêu dùng
EU đ• thông qua những quy định bảo vệ quyền của người tiêu dùng về độ an toàn
chung của các sản phẩm được bán ra. Tất cả các sản phẩm để có thể bán được ở thị
trường này phải được đảm bảo trên tiêu chuẩn chung của EU.
Đối với mặt hàng thủy sản, hàng năm EU chiếm tới 40% nhập khẩu toàn thế giới. Mức
tiêu thụ bình quân đầu người là 17 kg/ năm và tăng dần hàng năm khoảng 3%. Trong
đó thị trường chính là Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Italia, Hà Lan. Do vậy nhu cầu
nhập khẩu thủy sản của EU hàng năm là rất lớn. Đây là thị trường khó tính và có chọn
lọc, với những yêu cầu nghiêm ngặt về tiêu chuẩn chất lượng và an toàn vệ sinh thực
phẩm. Chỉ thị 91/493/EEC ban hành tháng 6 năm 1993 quy định các doanh nghiệp tại
nước xuất khẩu phải có điều kiện sản xuất tương đương như các doanh nghiệp của
nước nhập khẩu và phải được cơ quan kiểm tra chất lượng của EU công nhận. Đối với
hàng thực phẩm đóng gói phải ghi rõ tên sản phẩm, thành phần, trọng lượng, thời gian
và cách sử dụng sản phẩm, nơi sản xuất, các điều kiện để bảo quản và sử dụng, m• số,

m• vạch để nhận dạng lô hàng. Đặc biệt cấm nhập những sản phẩm thủy sản bị nhiễm
độc do tác dụng của môi trường hoặc do các chất phụ gia không được phép sử dụng.
3.1. Các đặc tính của thị trường thủy sản EU

Mặc dù có sự khác biệt trong tiêu thụ giữa các nước khác nhau, các nhà hàng và dịch
vụ ăn uống luôn là mảng thị trường lớn nhất. ở nhiều nước, mảng thị trường này chiếm
tới 3/4 mức tiêu thụ. Dù thủy sản được tiêu thụ tại nhà hàng hay gia đình thì đều phải
qua vài dạng sơ chế trước khi tới tay người mua. Giữa các nước, thói quen ăn uống rất
khác nhau. Mức tiêu thụ thủy sản theo đầu người dao động từ 15- 17 kg. Việc thay đổi
lối sống dẫn đến thay đổi cách ăn uống và thói quen mua bán. Nhiều phụ nữ ngày nay
đi làm chứ không ở nhà nên họ đánh giá cao sự tiện lợi của các thực phẩm ăn liền,
thường là ở dạng đóng gói đông lạnh. Cũng như vậy, mức tiêu thụ sản phẩm đông lạnh
tại nhà hàng và dịch vụ ăn uống càng tăng. Người Bắc Âu không có truyền thống ăn
thủy sản thì nay đang quen dần với nó. Chính những chuyến nghỉ cuối tuần tới các
nước khác góp phần cho các thay đổi trên. Những khuynh hướng trên hy vọng sẽ đem
đến những thay đổi tích cực trong việc bán thủy sản.
3.2. Các yêu cầu của người nhập khẩu
Thủy sản được nhập khẩu chủ yếu dưới dạng đông lạnh. Hàng nhập thường là khối
đông lạnh, do phần lớn các mẻ lưới được làm lạnh ngay trên tàu. Các hải sản đánh bắt
được làm lạnh trên bờ cả khối hoặc làm đông lạnh nhanh riêng rẽ (IQF). Nhìn chung
sản phẩm đông lạnh trên tàu được ưa chuộng hơn vì lý do chất lượng. Các nhà nhập
khẩu hải sản được làm đông lạnh, nói chung, thích loại sản phẩm được làm lạnh theo
phương pháp IQF hơn.

Gần đây, nhu cầu nhập khẩu thủy sản đóng gói bán lẻ đang tăng lên, kể cả ở các thị
trường truyền thống như Đức. Tuy nhiên, phần lớn thủy sản đóng gói bán lẻ trong
buôn bán quốc tế được thực hiện ở Tây Âu cho dù xuất xứ của hàng thô là từ các nước
Châu á.
Thủy sản đóng hộp cũng có chút ít thị trường như ở Hy Lạp hoặc Đức. Thị trường có
thể mở rộng cho loại rau câu, có lẽ nên đóng lọ thủy tinh hơn là hộp thiếc để hấp dẫn
người mua.
3.4. Tiếp cận thị trường
Biểu thuế nhập khẩu chung của EU áp dụng cho tất cả các nước EU. Tất cả việc nhập
khẩu cá và các sản phẩm cá từ các nước ngoài EU đều phải có giấy phép.

Để tránh sự mất ổn định trong thị trường nội bộ do nhập khẩu, EU đ• đưa ra biểu giá
tham khảo cho một số mặt hàng nhất định như mực ống và mực thẻ. Quy định vệ sinh
thực phẩm trong chế biến, kinh doanh cá và sản phẩm từ cá và là một phần của Luật
quốc gia về thực phẩm của các nước thành viên EU thì chỉ các công ty có giấy phép
mới được nhập hàng này.
Tất cả các thực phẩm đều là đối tượng của Bộ Luật quốc gia về thực phẩm và có thể
khác nhau giữa các nước.
Vấn đề cải thiện chất lượng và đóng gói là rất quan trọng đối với phần lớn các nước
đang phát triển nhằm thâm nhập các thị trường mới và tăng xuất khẩu các sản phẩm có
giá trị, phát triển sản xuất phù hợp hóa sản phẩm. Muốn thâm nhập vào thị trường EU,
cần phải tính đên sự thống nhất của thị trường này với đồng Euro từ năm 1999, EU
cũng có quy chế ưu đ•i riêng đối với nhập khẩu từ các nước ACP với việc miễn hoặc
giảm thuế nhập khẩu thủy sản theo hệ thống thuế ưu đ•i phổ cập GSP.

ii. thực trạng hoạt động xuất khẩu thủy sản của nước ta sang Eu trong thời gian qua
1. Cấu trúc mậu dịch thị trường thủy sản EU
Phần lớn thủy sản ở EU là hàng nhập khẩu và hầu như không có nước EU nào có thể
tự cung, tự cấp mặt hàng này. Thị trường cá EU được hình thành bởi nhiều nhà cung
cấp. chế biến và phân phối. Tuy nhiên, càng ít người tham gia thị trường này thì
thương mại càng hiệu quả và tập trung hóa cao hơn.
Những người tham gia thị trường thủy sản EU thường có những mục đích và hoạt
động tương tự như nhau. Chính về thế mà thủy sản có thể qua nhiều kênh mậu dịch
khác nhau trước khi tới địa chỉ cuối cùng. Sự lựa chọn của các kênh mậu dịch và các
bạn hàng thương mại phụ thuộc vào sản phẩm và dịch vụ có thể được thực hiện bởi
các bạn hàng thương mại đầy tiềm năng. Khi chọn một kênh và bạn hàng thương mại
đặc biệt, các nhà xuất khẩu có thể lựa chọn nhiều kênh khác nhau trong thị trường.
Một số nhà xuất khẩu sẽ giao dịch trực tiếp với người sử dụng cuối cùng, còn một số
khác lại bán cho các nhà kinh doanh độc lập (các nhà nhập khẩu) hoặc qua các đại lý
bán hàng.
Các nhà xuất khẩu tiềm năng cần liên lạc với các nhà nhập khẩu ở Châu Âu. Những

nhà trung gian này thường đ• thiết lập những quan hệ làm ăn lâu dài với người tiêu thụ
của họ và có vị trí tốt hơn (so với các nhà chế biến nước ngoài) để biết được những
nhu cầu của thị trường địa phương và của người sử dụng cuối cùng. Họ cung cấp trực
tiếp tới các siêu thị, ngành chế biến hoặc các nhà sản xuất thành phẩm. Họ có khả năng
hỗ trợ tài chính, mở các chiến dịch quảng cáo và phục vụ những nhu cầu đặc biệt.

Hầu hết các mặt hàng thủy sản dùng cho mục đích công nghiệp. Các nhà sản xuất
thành phẩm có thể mua được trực tiếp từ các nhà xuất khẩu, từ đại lý, nhà nhập khẩu
hoặc từ ngành chế biến.
Có rất nhiều công ty hoạt động trong lĩnh vực này. Một số công ty chỉ chuyên chế
biến, đông lạnh cá. Các công ty khác, đặc biệt ở Hà Lan và Bỉ, chuyên hoạt động tái
xuất khẩu thủy sản. Họ nhập khẩu ở các nước đang phát triển và xuất khẩu sang các
nước láng giềng ở Châu Âu.
Trong trường hợp muốn xuất khẩu thủy sản theo phương thức phục vụ tới người tiêu
dùng hoặc bán buôn thì phải có đại lý hoặc nhà nhập khẩu trong thị trường EU. Các
nhà bán lẻ hoặc bán sỉ rất khó khăn trong việc nhập khẩu trực tiếp từ nước ngoài, trừ
một vài siêu thị lớn.
Các quầy bán hàng trong siêu thị khác hẳn so với các sạp nhỏ truyền thống. Các sạp
nhỏ thường bán thủy sản tươi nóng hay hun khói.
2. Cơ cấu thị trường EU nhập khẩu thủy sản của Việt Nam
Thị trường EU luôn là một thị trường hấp dẫn không chỉ của các nước Châu á, trong
đó có Việt Nam mà còn là mục tiêu của nhiều nước châu lục khác, kể cả Bắc Mỹ. Bởi
không chỉ số dân đông trên 350 triệu dân với mức sống cao, ẩm thực đa dạng, với giá
cả hấp dẫn, mà còn là thị trường uy tín, xuất khẩu được hàng thủy sản vào EU cũng có
nghĩa như có trong tay chứng chỉ về trình độ, chất lượng sản phẩm cao. Tuy vậy, EU
vẫn đang sử dụng vũ khí quan thuế và phi thuế quan trừng phạt, chia nhóm ra để hạn
chế, khống chế các nước xuất khẩu theo những điều kiện có lợi nhất cho họ. Đối với
Việt Nam, thị trường này đ• có một một số cải thiện đáng kể trong việc nhập khẩu

×