Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Giáo trình văn học phương tây III - 7 pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (409.87 KB, 28 trang )

144

2.3. NHÀ VĂN ERNEST HEMINGWAY (1899 - 1961)
2.3.1 Cuộc đời và sự nghiệp
Sinh ngày 21 tháng VII năm 1899 tại Oak Park, một thị trấn trù phú thuộc ngoại ô
thành phố Chicago, bang Illinois. Người cha làm nghề thầy thuốc, kiếm được nhiều tiền,
nhưng sau này gặp những bế tắc trong kinh doanh, tự tử chết năm 1927, lúc này nhà văn đã
trưởng thành. Mẹ của Hemingway lúc trẻ ham mê âm nhạc, đàn piano và ca hát. Nếp sống
trưởng giả và tôn giáo Purism (Thanh giáo) của mẹ đã khiến chàng trai sớm cảm thấy ngột
ngạt trong gia đình. Kỉ niệm đẹp đẽ thời niên thiếu mà sau này nhà văn kể lại trong những
mẩu truyện ngắn xoay quanh một nhân vật tên là Nick Adam là những ngày hè trong vùng
cây rừng ven hồ tại miền Nam vùng Michigan, cha ông thường dẫn chú bé đi câu cá, săn
bắn, đã truyền cho Hemingway niềm ham thích, lại còn mang theo chú bé những lúc đi
thăm bệnh ở những làng xóm người da đỏ trú ngụ.
Mẹ của Hemingway xuất thân quí tộc thượng lưu, chỉ quan tâm đến tôn giáo và âm
nhạc, bà hay đi hát ở nhà thờ. Bà có sáu con và muốn hướng hai con trai là Hemingway
(con thứ 2) và cậu út học âm nhạc. Bà mua cây đàn cello và dạy hai con chơi đàn. Còn
người cha thì tặng con trai một cần câu nhân ngày sinh nhật. Năm lên mười, Ernest đã thạo
đi câu ven sông với cha. Thiếu thời của Hemingway như thế là khá hạnh phúc mặc dù ý
định hướng nghiệp cho anh của cha và mẹ bất đồng với nhau. Cha muốn cho anh trở thành
nhà thể thao, mẹ muốn anh đi con đường nghệ thuật. Ảnh hưởng của cha mẹ trở nên cân
bằng cho sự phát triển toàn diện của Hemingway.
Ernest cùng chị Marcelline học ở trường phổ thông Oak Park. Cả hai chị em rất ham
thích thể thao, tham dự nhiều câu lạc bộ và cộng tác với những tờ báo của nhà trường như
tờ Trapeze. Trong một bài báo viết cho tờ Trapeze số 20. 4.1917, Ernest đã mở rộng sự
phân tích lợi ích của giáo dục thực hành hơn là giáo dục thuần túy lí thuyết. Bạn bè rất
ngưỡng mộ Ernest – chàng học sinh hăng hái tham gia các đội bóng và điền kinh như bơi
lội, quyền anh, anh học quyền Anh lúc 14 tuổi và không hề sợ hãi khi bị thương tích. Còn
các thầy giáo thì khích lệ và hướng dẫn tài năng văn chương của Ernest khi ông tham gia
viết báo của trường.
Tháng 4 -1917, nước Mỹ bước vào cuộc chiến thế giới, Ernest muốn tình nguyện


đăng lính ngay. Nhưng người cha nghĩ rằng “nó còn quá trẻ” và muốn anh vào đại học.
Nhưng anh muốn có cuộc sống độc lập sớm.
Đến tháng 4.1918, ông mới toại nguyện và qua chiến đấu ở Ý. Vì mắt kém nên được
điều vào đội quân cứu thương (Hồng thập tự), bị thương nặng, ông phải trở về hậu tuyến
Mới 19 tuổi ông đã hào hứng vượt qua mọi thử thách ác liệt trên chiến trường. Kết thúc
chiến tranh, được thăng chức thiếu úy và được thưởng huân chương bạc. Năm 1919 ông trở
về Hoa Kì, được đón tiếp như một anh hùng, song cảm thấy không thể nào hoà nhập vào
không khí nơi đây.
Bảy tháng làm việc cho tờ báo “Ngôi sao thành phố Kansas” đã giúp ít nhiều cho sự
hình thành khả năng và phong cách viết văn của Hemingway. Ông thường đưa ra một số
qui tắc viết báo “dùng những câu ngắn. Câu đầu tiên phải ngắn là khẳng định, chẳng bao
giờ phủ định !” Ông đạt tới một văn phong giản dị và trong sáng khi viết bài phóng sự cho
báo. Ba lần đăng kí vào lính nhưng bị từ chối vì mắt ông hơi kém.
145

Trong khi viết văn, viết báo, ông thường trao đổi và tranh luận với bạn bè về phương
pháp nghệ thuật. Nguyên lí nghệ thuật của ông là “sự đúng đắn, sự giản dị, sự trực tiếp”.
Đó là những nguyên lí do ông rút ra từ văn chương, hội hoạ và âm nhạc. Nhà văn
Sherwood Anderson có ảnh hưởng tới ông, nên một nhà phê bình cho rằng Hemingway đã
sao chép phong cách và chủ đề của Anderson. Còn trong hồi kí, Anderson đã viết “tài năng
của Hemingway là của riêng ông và không phải vì ảnh hưởng của tôi”. Thực ra Anderson
đã giúp đỡ ông trên đường sáng tạo nhưng không có sự sao chép văn chương.
Một mùa hè, Hemingway gặp gỡ cô Hadley Richardson chơi dương cầm ở bang
Michigan. Lễ cưới của hai người được tổ chức vào tháng 9.1921. Hai người đi chơi ở
Canada. Sau đó, ông qua Pháp làm phóng viên thường trú, ở đây quen biết với các văn nghệ
sĩ Gertrude Stein, James Joyce, Ford Madox Nhà văn Stein đã nói về một “thế hệ mất
mát”, “thế hệ lạc đường” (A Lost Generation) sau chiến tranh thế giới I. Hemingway không
tin vào thế hệ đó và tự xác định: “mất mát không, chúng ta là một thế hệ rất vững vàng,
dù không được giáo dục - một số trong chúng ta – nhưng người ta có thể luôn luôn đạt được
sự giáo dục.

Ông nhận ra ở quán café Rotonde, đường Montparnasse dành cho khách du lịch Mỹ,
vẫn có những nghệ sĩ chân chính. Stein và Ezra Pound là những người bạn và cố vấn thân
thiết thường đọc và góp ý tác phẩm của ông. Nhà phê bình Meyers đã nhận xét về thời kì
ông ở Paris: “ Trái với Henry James và Thomas Sterns Ellieot, không phải sự trống rỗng
của nền văn hoá Mỹ đã đẩy Hemingway bỏ nước sang Châu Âu. Chính nền văn minh La
tinh ở Ý, Pháp và Tây Ban Nha đã thu hút ông. Ông muốn tìm lại niềm hưng phấn của
những cuộc phiêu lưu trong thời chiến mà ông đã trải qua ở đây mà thôi”.
Hemingway cũng rất thích đọc tác phẩm của hai nhà văn Nga Turgenev và Tolstoi.
“Tôi thích tác phẩm “Chiến tranh và hoà bình”(War and Peace) với sự kì diệu, sâu sắc và
sự miêu tả chân thực về chiến tranh và về nhân dân ” Ngoài ra ông đã đọc tác phẩm của
các nhà hiện thực lớn thế kỉ 19 như Mark Twain, Henry James, Fielding, Kippling
Stendhal, Flaubert, Maupassant . . .
Ông tin tưởng sẽ đóng góp sức mình xây dựng một nền văn học mới của nước Mỹ.
Ông suy luận “nền văn học ở châu Âu đã già, thì văn học Mỹ là trẻ. Văn học châu Âu mệt
nhọc thấm đậm hoài nghi, văn học Mỹ là tích cực. Những nhà văn Châu Âu là những nhà
lãng mạn bất trị, còn những nhà văn Mỹ là những nhà hiện thực nghiêm ngặt ”. Và ông đã
trở thành nhà văn hiện thực mới của thời đại.
Sau thành công vang dội của “A Farewell to Arms”, ông mua một biệt thự sang trọng
ở thành phố Key West, một hải cảng nhỏ ở bang Florida. Với chiếc thuyền buồm, ông say
mê ra khơi câu cá.
Sau khi vợ ông, nhạc sĩ Hadley bị bệnh qua đời, ông cưới vợ kế là Pauline Pleiffer.
Ông có 4 con trai cũng ham thích thể thao như cha. Trong chiến tranh thế giới II,1941, ông
đến ở San Francisco và đi câu cá ngoài biển khơi. Bà Pauline đòi li dị. Sau một thời gian
ngắn, ông cưới người vợ thứ ba là Martha Celltor một nữ văn sĩ. Cả hai người trở thành
phóng viên chiến trường ở Tây Ban Nha. Cuộc hôn nhân này chỉ tồn tại có 4 năm. Ông lại
cưới người vợ thứ 4 là Mary Welsh- phóng viên tờ Times (Thời báo), khi ông đăng kí làm
phóng viên cho hãng hàng không hoàng gia Anh quốc thì gặp Mary ở London. Khi quân
đồng minh đổ bộ vào Normandie, ông đăng kí làm phóng viên cho lục quân Mỹ. Trên đất
Pháp, ông rời bỏ quân đội chính qui Anh- Mỹ. Ông đi tìm quân du kích Pháp, xin được chỉ
146


huy một đội du kích và đánh quân Đức phát xít theo kiểu của mình. Người ta còn nhớ hình
ảnh ông cùng du kích Pháp, tay cầm súng liên thanh nhảy vào chiếm khách sạn Ritz. Người
lái xe cho Hemingway đã gửi một bức điện về Mỹ: “Bố già Hemingway đã chiếm được
một khách sạn có kho rượu đầy ắp”.
Thế chiến II kết thúc, ông sang Cuba, sống ở thành phố nhỏ Paulo và viết nhiều tác
phẩm. Ở đây tác phẩm The Old Man and the Sea ra đời, được tặng giải . Ông là người Mỹ
thứ năm được tặng giải này (1.Sinclair Lewis-1930, 2. Engene O’Neill-1936, 3. Pearl
Buck-1938, 4.William Faulkner-1949). Gia đình ông sống yên bình ở một biệt thự. Ba con
trai thường đến thăm vợ chồng ông. Ông yêu mến những người lao động, đặc biệt dân đánh
cá Cuba. Ông ủng hộ cuộc chiến đấu của nhân dân Cuba nhằm lật đổ chế độ độc tài Batista
thân Mỹ. Hemingway thích sống bên cạnh những người dân chất phác giữa cảnh thiên
nhiên hùng vĩ bao la. Khi được tin giải trao cho ông, ông chưa vội đi sang Thụy Điển nhận
từ tay Vua giải thưởng đó, ông điện sang Stockholm rằng ông “rất hãnh diện và sung
sướng” sau đó chuẩn bị chuyến đi đánh cá cùng những bạn dân chài. Về sau lãnh tụ Phidel
Castro cũng là một người đánh cá giỏi đã đặt ra giải thưởng Ernest Hemingway để trao cho
người nào bắt được con cá đẹp nhất trong năm.
Những bản thảo đầu tiên có tính chất qui mô lớn lại bị mất cắp năm 1922. Bởi thế
người ta coi các tác phẩm kế tiếp: Three Story and Ten Poems (Ba câu chuyện và một bài
thơ), In Our Times (Trong thời đại chúng ta) là những tác phẩm đầu tiên. Tập truyện In Our
Times là một tập hợp phức hợp xâu chuỗi kì lạ gồm 17 truyện ngắn. Sau đó việc ông thoát
ra khỏi ảnh hưởng của môi trường nghệ thuật của một số văn sĩ ở Paris đầu những năm (đặc
biệt của Gertrude Stain và Anderson) đã được phản ánh qua tác phẩm Spring Falls (Những
thác nước mùa xuân) – Cái tên này trùng hợp với một cuốn tiểu thuyết của Turgueniev
(Nga) chỉ là ngẫu nhiên, còn tác phẩm viết theo hình thức “nhái” này chỉ nhằm chế giễu lối
viết và giọng văn của Anderson là chủ yếu.
Đặc điểm của thời kì đầu những năm 20 ở nhà văn trẻ Hemingway là khuynh hướng
phác thảo, là hình thức gọn nhẹ. Nhớ lại thời kì này, nhà văn viết “tôi không thể hình dung
nổi làm sao tôi lại có thể viết một văn bản dài dòng như một cuốn tiểu thuyết được” (Cuộc
hội hè di động). Quả vậy, những bài thơ viết lúc này đều cực ngắn và những tập văn xuôi

cũng vậy. Tập dài nhất là The Spring Falls gồm nhiều chương, có chung một nhân vật
chính nhưng cũng mang tính phác thảo và nhà văn cũng viết ngay ở đó là “tôi chỉ làm công
việc ghi chép mà thôi”. Một tập văn xuôi khác chỉ được viết lại sau này vào những năm 50
và in sau khi nhà văn qua đời (1964): tập “Cuộc hội hè di động”, có lẽ đây là một bản thảo
đã viết từ nửa đầu những năm 20 nên rất gần gũi với lối viết của số tác phẩm kể trên: tuy là
một áng văn dài nhưng gồm nhiều phác thảo gọn nhẹ được lắp ráp lại.
Những tác phẩm kể trên, khi ra đời chưa gây được tiếng vang, nhưng những bài thơ
trong đó đã báo trước những cảm hứng chủ đạo của Hemingway sau này. Ba truyện ngắn
đầu tiên : Trên cao vùng Michigan, Không mùa, Ông bố tôi (nay đã được dịch ra nhiều thứ
tiếng) cùng một số truyện ngắn khác đã được giới phê bình ngày nay coi như chìa khoá
cho cả chuỗi sáng tác của Hemingway. Có người còn đánh giá chúng cao hơn cả một số
tiểu thuyết của ông sau này. Đó là trường hợp một số truyện trong tập In Our Time (1925):
Làng da đỏ, Người lính về nhà, Con sông lớn hai dòng . . .
The Spring Falls giống như một áng văn xuôi có tính chất châm biếm bằng hình thức
“nhái lại” nên phải tới The Sun also Rises (Mặt trời vẫn mọc) 1926, Hemingway mới được
147

coi là một tiểu thuyết gia. Đấy cũng là cuốn sách đầu tiên làm cho Hemingway nổi tiếng
khắp thế giới lúc đó. Câu chuyện không hề nhắc một chữ đến chiến tranh, nhưng đằng sau
những tâm trạng nhân vật, chúng ta thấy thoáng những hậu quả của chiến tranh. Bề ngoài,
cuốn tiểu thuyết chỉ miêu tả một lớp thanh niên nghệ sĩ chán chường tìm cách giải khuây
trong những cuộc đấu bò và ở các quán rượu, các cuộc đi đâu. Song nó gợi lên nhiều cách
suy luận và diễn giải khác nhau, đặc biệt là suy luận về “thân phận con người”. Nhưng có
người chỉ tìm thấy ở đó một tác phẩm gồm những chuyện có thật về một số nghệ sĩ văn
nhân nhiều nước mà Hemingway từng kết giao ở Paris . . .
Thời gian lịch sử được miêu tả trong tiểu thuyết A Farewell to Arms (Giã từ vũ khí)
lại là cuộc Đại chiến thế giới I. Câu chuyện xảy ra trước câu chuyện “Mặt trời vẫn mọc”,
nhưng cuốn A Farewell to Arms ra mắt đọc giả chậm hơn 3 năm. Cuốn sách được coi là
một kiệt tác, được bán rất chạy khiến nhà văn ngày càng nổi tiếng và trở thành giàu có.
Tiểu thuyết được dựng thành kịch ngay lập tức và một thời gian sau được đưa lên phim.

Những cấm đoán của chính quyền địa phương khi sách được in nhiều kì đăng báo tháng 5
năm 1929 và của trùm phátxít Ý Musolini những năm 30 càng làm cho cuốn sách được
đông đảo công chúng hâm mộ.
Death in the Afternoon (Chết vào lúc xế trưa) và African Green Hills (Những ngọn
đồi xanh Phi Châu) nhìn trên bề mặt dường như chỉ đề cập đến chuyện đấu bò, săn bắn,
nhưng ở bề sâu của nó, ta vẫn thấy cái nền tâm trạng của kiểu nhân vật Hemingway trước
số phận, trước một thế kỉ đầy bạo lực và tàn nhẫn. Trong những năm này ông sống nhiều ở
Tây Ban Nha, đi câu ở Cuba, săn sư tử ở Châu Phi Và những hình ảnh con người thực,
những cảnh vật hùng vĩ này sẽ được làm bất tử trên những trang sách: Yes or No, Tuyết trên
đỉnh núi Kilimangiaro. Những người hâm mộ tặng ông một chiếc tàu đánh cá bằng gỗ sồi
mà ông đặt cho nó một cái tên Tây Ban Nha : “Pilar”. Ông còn phát hiện ra một giống cá
mới trong khi đi đánh cá, và các nhà sinh vật học đã đặt tên cho loài cá đó cái tên
“Hemingway” - một vinh dự cho nhà văn và cả giống cá ấy.
Lúc này, thái độ của ông trước cuộc sống, xã hội không thể gói gọn trong những chữ
mà một số nhà phê bình đã nói về ông: một sự phủ nhận, chán chường kiểu Byron (nhà thơ
Anh thế kỉ 19) – dù rằng thái độ ấy không hẳn đã mất ý nghĩa tích cực của nó. Du hí, tiền
tài, vinh quang không hề làm ông quên những con người. Khi trận cuồng phong nổ ra ở
Florida cuốn chìm hàng trăm cựu chiến binh sống ven biển , nhà văn đã viết bài tố cáo số
phận bị bỏ rơi của họ trên báo chí (1935). Cuộc nội chiến Tây Ban Nha bấy giờ đã trở
thành một thử thách đối với lương tri nhân loại xảy ra năm 1936 thì đầu năm 1937,
Hemingway nhận làm phóng viên mặt trận cho một tờ báo Mỹ đến công tác tại Tây Ban
Nha mặc dù trước đó ông đã từ chối cộng tác với một số tờ báo khác vì lí do dành thì giờ
viết văn. Ông tặng cho chính quyền cách mạng Tây Ban Nha số tiền xuất bản sách trong
năm đó khoảng bốn chục ngàn đôla. Và chuỗi sáng tác về chiến tranh tiếp tục nhưng khác
với thời Thế chiến I, đây là cuộc chiến tranh mà Hemingway đã “nhập cuộc” và từ đó thoát
ra không phải với một trái tim tan vỡ vì thất vọng. Ông cộng tác với một nhà làm phim Hà
Lan nổi tiếng Jorist Iven trong bộ phim “Đất Tây Ban Nha” rồi ông lại viết vở kịch “The
Fifth Troop” (Đội quân thứ 5), và từ 1938 đến những năm đầu Đại chiến II ông viết và xuất
bản cuốn tiểu thuyết For Whom the Bell tolls (Chuông nguyện hồn ai) –1940.
Bước vào Đại chiến II, sức lực của nhà thể thao, nhà đấm bốc (boxing - quyền Anh)

và nhà săn bắn Hemingway vốn không biết mệt mỏi ấy nay chẳng còn trẻ trung nữa. Ngoài
những vết thương do chiến tranh, năm 1944, ông bị thương thêm ba lần nữa (hai lần do tai
148

nạn ô tô và một lần đi săn cá). Năm 1942, ông tham gia cuộc chiến theo một cách riêng:
Ông cùng một nhóm sáu người đi săn tàu ngầm phát xít trên vùng biển Caribe với chiếc
thuyền “Pilar”
Năm 1944, ông lại trở thành phóng viên mặt trận, tham gai vào cuộc đổ bộ của quân
đồng minh ở vùng Normandie trên đất Pháp và tiến tới Paris trước cả quân đoàn II xe bọc
thép của tường Le Clec. Hemingway lại đi theo quân đội đi truy quét bọn phát xít tại 1 khu
rừng ở Đức. Cuộc chiến đấu ấy sẽ được ông viết lại một phần trong cuốn sách “Across the
River and into the Trees” (Qua sông, vào rừng) (1950). Tiểu thuyết The Old Man and The
Sea – 1952 (Ông già và biển cả) được giải thưởng Puliser vào năm 1953.
Năm 1954, nhà văn Hemingway được tặng giải thưởng . Từ đó ông ít xuất bản sách
mới và chỉ sau khi chết, vợ ông mới tiếp tục việc này. Những năm cuối đời, ông vẫn đi đây
đó, sống ở Peru, Tây ban nha, và đặc biệt ở Cuba. Năm 1960, ông rời khỏi Cuba về Mỹ để
chữa bệnh. Sau hai năm bị dày vò vì bệnh tật, lại không thể viết được, vào buổi sáng chủ
nhật ngày 2 tháng 7 năm 1961, người ta thấy Hemingway chết với 1 viên đạn từ khẩu súng
nạm bạc quen thuộc của ông chĩa vào đầu – cái chết ấy cho đến nay vẫn chưa xác minh là
tự sát hay tai nạn.
Sau khi Hemingway mất, người ta vẫn tiếp tục thông báo một số văn bản chưa in của
ông. Năm 1970, cuốn “Những hòn đảo trong dòng hải lưu” được xuất bản. Trong những
năm 80, tiếp tục xuất bản The Selected Letters (Những lá thư chọn lọc), Eden Garden
(vườn Eden) trong số 22 kí lô bản thảo chưa in gửi ở thư viện John Kenedy năm 1961. Tuy
nhiên có ý kiến cho rằng, một số tác phẩm sau này không thật sự tiêu biểu cho tài năng
Hemingway. Nhưng dù vậy, “Hemingway vẫn sống, trong tác phẩm lớn của ông, như một
nhân chứng của thế kỉ chúng ta” (Lời Nickon Dans trong bài: Để bảo tồn cùng vĩnh cửu
báo Le Monde số 2/08.1989 – Pháp)
Dưới đây giới thiệu và gợi ýí phân tích một số tác phẩm tiêu biểu của Hemingway
2.3.2 Giã từ vũ khí (A Frewel to Arms)

Cuốn tiểu thuyết hiện đại về tình yêu, chiến tranh và nhân vật phản anh hùng
Xuất bản năm 1929, đầu tiên in nhiều kì trên báo chí. Tờ báo bị đình bản, truyện càng
nổi tiếng hơn. Nó được in thành sách với số lượng lớn ngay từ lần đầu: 31000 bản và sau
đó được coi như kiệt tác của Hemingway.
Tóm tắt cốt truyện:
Nhân vật chính là một trung uý Mỹ, Frederich Henry và cô y tá người Anh Bacceley
Catherine, cả hai cùng được điều đi tham gia chiến tranh trên đất Ý. Henry lái xe cứu
thương cho một trạm quân y dã chiến. Trong những ngày nghỉ chờ ra trận, cùng bạn bè đi
chơi, anh gặp B. Catherine trong một bệnh viện. Dần dần anh đem lòng yêu cô và được
đáp lại. Hai người đang sống những ngày say sưa tình yêu bên nhau thì Henry có lệnh điều
ra mặt trận. Anh bị thương nặng, phải đưa về điều trị ở bệnh viện Millano. Ở đây anh gặp
lại nàng và được nàng chăm sóc, cứu chữa và được sống hạnh phúc bên nàng. Sau thời
gian bình phục, Henry phải trở lại đơn vị. Rồi mặt trận Caporetto bị vỡ, đơn vị của Henry
phải rút lui về Udine, trên đường rút chạy, anh cùng bạn bè gặp nhiều nguy hiểm. Các bạn
anh lần lượt bị bắn chết hoặc bỏ trốn, còn anh bị quân cảnh Ý bắt vì tội “đào ngũ”. Trong
lúc chờ xử bắn, Henry đã nhảy xuống sông và trốn thoát. Anh tìm đường về Millano nhưng
Catherine đã chuyển đi nơi khác. Henry đuổi theo rồi tìm được Catherine ở vùng Steresa.
149

Bị truy nã gắt gao, đang đêm mưa bão, anh phải cùng nàng vượt biên giới trốn sang Thụy
Sĩ. Tại đây hai người hồi hộp đón đứa con ra đời, nhưng vì bị động thai trong khi chạy
trốn, đứa con đã chết ngay khi vừa lọt lòng mẹ. Catherine bị mất máu, kiệt sức và chết. Còn
Henry “ lủi thủi trở về khách sạn dưới cơn mưa”.
Ở câu chuyện này, những yếu tố tự truyện khá nhiều khi đối chiếu câu chuyện chiến
tranh, chuyện tình, thời gian, địa điểm với cuộc đời thực của Hemingway. Tuy nhiên
phần kết thúc câu chuyện tình đã sửa đổi. Kết thúc được miêu tả gần đúng với sự thật hơn
một truyện ngắn khác viết năm 1929 (A very short story: Một câu chuyện cực ngắn).
Truyện này kéo dài độ hai trang giấy khổ nhỏ. Một đôi lứa chiến binh và nữ y tá yêu nhau,
hứa hẹn sẽ lấy nhau sau chiến tranh, khi tìm được việc làm, “họ không thể sống được nếu
thiếu nhau” và “họ phát ốm vì phải chia tay nhau như vậy”. Anh đi tìm việc ở Chicago, chị

ở Padu. Anh nhận được thư chị báo rằng chị đã yêu một thiếu tá người Ý và họ sẽ cưới
nhau vào mùa xuân Viên thiếu tá không cưới nàng vào mùa xuân và chẳng vào mùa nào
hết. Còn Lu (tên cô gái) chẳng bao giờ nhận được thư trả lời từ Chicago. Một thời gian sau,
chàng cựu chiến binh mắc bệnh hoa liễu với một cô nàng bán tạp phẩm ở một cửa hàng
bách hoá lớn khi đi qua Lincohn Park bằng xe taxi.
A very short story một truyện ngắn đa âm, đan cài hai giọng trái ngược mà ở đó giọng
thứ hai bị che giấu rất sâu kín. Nổi lên trên là một giọng khinh bạc, lạnh lùng, mỉa mai và
phải rất tinh tế mới nhận thấy đằng sau đó là cả một nỗi cay đắng tiềm ẩn. Nét độc đáo ấy
báo hiệu âm hưởng của “Giã từ vũ khí”, tuy mới thoạt nhìn hai truyện có vẻ rất khác nhau,
thậm chí trái ngược nhau.
Với dung lượng của cuốn tiểu thuyết, thời gian sự kiện ở đây khá chật hẹp. Đó là thời
gian diễn ra giữa hai khoảnh khắc: khoảnh khắc ngắn ngủi giữa tình yêu và cái chết,
khoảnh khắc nhân vật chính Henry nhận ra tất cả cái bi-hài của cuộc chiến để đi đến quyết
định “giã từ vũ khí”. Về mặt thời gian, giã từ vũ khí rất tiêu biểu cho những câu chuyện của
Hemingway cũng như một khuynh hướng đổi mới của tiểu thuyết hiện đại. So sánh giữa
trường độ ( nhiều trang sách) của văn bản với trường độ tồn tại ngắn ngủi của nhân vật ta
thấy một độ lệch rất lớn. Tiểu thuyết xưa kia thiên về miêu tả một kiếp người, một cuộc
đời thì nay nhân vật Frederich Henry chỉ là một mảnh đời không lịch sử, không có quá khứ
và cả tương lai. Anh đến với trang sách khi bắt đầu yêu và ra đi trong mưa gió, chẳng hề
ngoảnh lại và cũng chẳng hề tiên tri một điều gì ở tương lai. Điều này gây ra cảm giác một
khoảnh khắc được kéo căng ra đến tột độ. Có lẽ Hemingway đã ý đồ rõ ràng về sự đổi mới
ở đây, bởi lẽ, theo lời ông, ông đã phải sửa chữa cái kết thúc tới 17 lần. Trong văn bản đầu
tiên, đoạn kết không phải ở chỗ Catherine chết, mà còn nửa trang Henry (người kể chuyện)
thông báo về đám tang, và về số phận của một số nhân vật khác sau chiến tranh dưới chế độ
phát xít. Hemingway đã hài lòng bỏ lối “đóng truyện” truyền thống, với lối “làm văn”
quen thuộc xen lẫn vài lời bình của tác giả (hoặc nhân vật kể chuyện) để cắt ngang dở
chừng một mảnh của cuộc sống mà thôi.
Tuy nhiên chẳng phải vì thế mà những quan hệ phức tạp của cuộc sống bị thu hẹp,
sức chứa rộng lớn của tiểu thuyết vẫn không giảm sút. Số phận của tình yêu đôi lứa ở đây
đã dựng trên một tấm phông nền khốc liệt và u ám của chiến trường, liên quan đến một sự

kiện gây đổ vỡ trong cuộc sống của nhân loại đầu thế kỉ: đó là Đại chiến thế giới I . Cũng
như nhiều truyện khác, Hemingway nhường lời cho nhân vật chính, hơn nữa, câu chuyện
được kể từ ngôi thứ nhất. Dù câu chuyện được kể lại từ điểm nhìn của nhân vật chính, song
dường như đã có một khoảng cách từ nhân vật đến nhà văn, thậm chí từ nhân vật tới chính
150

mình. Và giọng nói của “tôi” ở đây cũng không toát lên không khí trữ tình, chủ quan
thường gợi lên qua lối kể chuyện ở ngôi thứ nhât. Sự tỉnh táo khách quan ấy được gợi lên
nhờ một giọng mỉa mai duy trì trong toàn bộ tác phẩm, ngay cả khi nhân vật nói về mình.
Nhân vật chính của tác phẩm: trung uý Henry cũng như bạn thân của anh là Rinandi
đều hiểu rõ thực chất của những điều đang được tuyên truyền thổi phồng quá cỡ ở thời kì
ấy: tình yêu, vinh quang, vinh dự Có rất nhiều chữ mà người ta chẳng thể chấp nhận được
nữa, và rút cục chỉ còn những địa danh thì còn giữ được đôi chút nể nang -H enry đã nói
vậy. Anh kể lại “vinh quang” của mình bằng giọng mỉa mai “Tớ bị thương trong khi đang
ăn một mẩu phó mát” và nhờ hành động “anh hùng” ấy mà Henry được thưởng huân
chương, đến nỗi khi bạn đến hỏi về chuyện đó, Henry ngơ ngác tưởng rằng bạn nhìn lầm.
Trung uý Henry là một người lính bình thường, bởi thế anh không hiểu hết tiến trình
của chiến tranh. Về điểm nhìn, Henry gợi lại hình ảnh Phabrice ở chiến trường Waterloo
hay tiểu thuyết Đỏ và Đen của nhà văn Pháp Stendhale. Đang chiến đấu, đơn vị của Henry
nhận được lệnh rút lui, lệnh trên là ai, từ đâu đến? Thế nhưng trong đám người rút chạy
giữa cảnh tan tác vẫn hình thành một quan hệ hữu ái và vẫn đấu tranh vì những điều đẹp đẽ
khi cần thiết. “Những cánh tay” (Arms: cánh tay / vũ khí) của người yêu có lẽ không bao
giờ khiến Henry rời bỏ (vũ khí) và đồng đội, nếu chính “lệnh trên” không phản bội những
người lính đang chiến đấu ở chiến trường. Do một hành động chẳng có gì được gọi là anh
hùng, anh lại được thưởng huân chương. Nhưng cũng vì một lí do vớ vẩn, rất nhiều người,
trong đó có anh bị kết tội tử hình một cách vội vã bởi những kẻ chưa hề trải qua lửa đạn và
coi tính mạng của những người vào sinh ra tử chẳng có gì phải xét xử cẩn thận.
Cũng như nhiều đoạn khác, đoạn kể chuyện “hút chết” của Henry được trình bày qua
sự kiện và đối thoại, tự nó đã có ý nghĩa mỉa mai, mà tác giả không bao giờ lên tiếng giải
thích, bình luận gì, dù người kể lại chuyện chính là người trong cuộc- là nhân vật chính -

một cơ hội để nhà văn dễ dàng lồng vào đó tiếng nói của mình. Khi nhận lệnh phải rút lui,
Henry đang vận chuyển các thương binh, và anh cũng bị thương cuối cùng, người lính Mỹ
chiến đấu tình nguyện trong quân đội Italia. Bị đứt liên lạc với đơn vị trên đường rút chạy,
anh gặp nhiều binh lính và sĩ quan của các đơn vị khác, cũng ở tình trạng như anh và cùng
bị rơi vào tay đội cảnh sát quân nhân của quân đội Italia. Bọn họ không cần nhiều thì giờ để
tra xét. Một sĩ quan được hỏi cung vài câu, những kẻ tra vấn họ đeo lon cấp thấp hơn. Khi
bọn cảnh sát quân nhân nghe thấy mọi người trả lời rằng họ “nhận được lệnh phải rút lui”
thì bọn này trả lời như một cái máy “Nước Italia không hề buộc phải rút lui bao giờ”. Chưa
ai kịp tiếp tục trình bày, giải thích, chúng đã vội vã ngoáy viết trên một tờ giấy kẹp trong sổ
tay có thể xé rời (block note) như sau “Bỏ ngũ - bị kết án xử bắn”. Khi đứng chờ đến lượt
mình nhìn thấy trước mắt là những sĩ quan còn xạm mùi khói đạn quần áo tả tơi đang bị
những thằng mặt non choẹt kéo ra xử bắn ngay ở gốc cây, Henry đã vùng chạy về phía bờ
sông gần đó, theo sau là hành loạt đạn bắn theo. Bọn cảnh sát Italia không thèm chú ý rằng
Henry là lính ngoại quốc tình nguyện đi chiến đấu trong quân đội Italia. Và những cái chết
phi lí hơn một lần diễn ra trước mắt anh đến mức không tài nào chịu đựng nổi nữa.
Danh dự, vinh quang và tình yêu ở nhân vật này là những từ rỗng tuếch, bị đem ra
mỉa mai, song người đọc vẫn thấy anh là người đầy tự trọng, biết hi sinh, đồng cảm và cao
thượng. Cái mâu thuẫn ấy vẫn rất logic và được chấp nhận qua sức chinh phục của hình
tượng, chứ không nhờ lời giải thích của nhân vật hoặc tác giả. Henry không hề ảo tưởng ở
tình yêu và lúc đầu khi đến với Catherine, anh cũng xử sự như nhiều người đã sống qua
cuộc đời lính tráng bấy giờ.
151

Song qua những lời đùa giỡn giữa anh và bạn thân là Rinandi (cũng yêu Catherine),
chúng ta vẫn thấy một tình yêu và một tình bạn thật sự. Sau khi chạy thoát vụ xử bắn phi lí,
Henry đi tìm người yêu của mình. Trên đường đi, ở một chặng dừng chân, anh gặp lại một
người bạn già – bá tước Grefi. Hai người bàn về cuốn sách mà họ cho là đáng chú ý nhất
gần đây, cuốn “Khói lửa” của Henry Baccbus. Và khi bá tước hỏi anh “anh quí điều gì nhất
trên đời này ?” thì anh trả lời: “một người mà tôi yêu”.
Khi Henry tưởng rằng có thể quên đi tất cả trong cánh tay vỗ về âu yếm của người

yêu, thì chính lúc ấy hạnh phúc tan vỡ, Catherine đã chết khi sinh đứa con đầu tiên. Giữa
những người y tá xa lạ, anh cảm thấy muốn ở lại một mình với nỗi đau của mình” Nhưng
sau khi đuổi họ ra khỏi phòng, sau khi đã đóng cửa lại và tắt đèn, “tôi hiểu rằng tất cả đều
vô ích. Dường như tôi nói lời vĩnh biệt với một pho tượng. Một lát, tôi đi ra và rời bệnh
viện . Và tôi trở về khách sạn, dưới mưa”
Trong câu chuyện, Hemingway đã miêu tả những sự tách biệt với những tình cảm
thống thiết. Nhan đề tác phẩm chẳng những nhằm ý mỉa mai đối với chiến tranh mà còn
mỉa mai khi đề cập đến tình yêu. Do nghệ thuật chơi chữ thật khó dịch ra tiếng nước ngoài.
“A Farewell to Arms” vừa có nghĩa là: “giã từ vũ khí “vừa có nghĩa “giã từ những cánh
tay”(cánh tay ôm ấp của tình yêu). Như vậy, tựa đề hàm ý mỉa mai. Nhưng dư vị cuối cùng
vẫn là nỗi đau vô phương cứu chữa, sự bất lực và cô đơn của con người ngay khi đã tìm
thấy một tình yêu mãnh liệt. Và lứa đôi lãng mạn Frederich Henry chàng trai Mỹ khinh bạc,
trải đời và yêu say đắm Catherine lại là một cặp tình nhân gây xúc động mạnh nhất trong
số tiểu thuyết hiện đại. Họ đã toả sức hấp dẫn đến cả một thế hệ nhà văn sau đó.
Đối lập với cái phi lí của chiến tranh, của những quan hệ cách biệt, xa lạ giữa người
và người, Hemingway đưa ra tình bạn, tình hữu ái giữa những người cùng chia sẻ đắng cay
và vinh quang vô ích dưới chiến hào của Đại chiến I, và trình bày tình yêu của một lứa đôi
Romeo Juliet hiện đại. Bởi thế chẳng những Hemingway gợi lên bao âm vang ở nhiều nhà
văn trẻ Mỹ cùng thế hệ mà dường như vẫn có một mạch nối giữa ông với nhiều nhà văn
khác sau Đại chiến I như: M. Remaque ở Đức (Một thời để sống một thời để chết, Chiến
hữu, Khải hoàn môn ) hoặc một nhà văn khác viết về Đại chiến II như H. Burn (Tàu chạy
đúng giờ, Chân dung một nhóm người cùng phụ nữ ). Môtip về tình yêu, tình bạn nổi lên
như ốc đảo giữa sa mạc cháy bỏng của chiến tranh, rồi ảo ảnh về tình yêu tan vỡ, những kết
thúc không có hậu trở thành dấu hiệu quen thuộc của nhiều tác phẩm hiện thực chủ nghĩa
thế kỉ này (

).
Như đã nói trên, do truyện được in ở nhật báo Scribner nên giám đốc Sở cảnh sát
Boston đã ra lệnh đình bản tờ báo do lúc ấy thói đạo đức giả vẫn còn thịnh hành ở Mỹ.
Nhưng lúc ấy việc cấm cản lại có giá trị như một quảng cáo. Lúc ấy đã có những câu vè

“Tờ báo Scriber sẽ càng đắt khách hơn từ khi Hemingway trở thành mối đe doạ cho đất
nước “(!) Cuốn truyện sau khi in sách đã nhanh chóng dựng thành kịch và hai lần dựng
thành phim. Lần làm phim đầu tiên (1932) nhân vật chính Henry do diễn viên Mỹ nổi tiếng
mà tên tuổi đã đi vào từ điển là Garry Cooper đóng. Chính quyền Musolini lập tức ra lệnh
cấm sách và phim ở Italia, cho rằng nó xúc phạm “tinh thần thượng võ” của dân Ý. Tuy vậy
sách vẫn liên tiếp in lại và dịch ra nhiều thứ tiếng, thuộc loại bán chạy nhất. Sách bán chạy

(

) Ở Việt Nam, nhà văn Bảo Ninh với tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” chịu ảnh
hưởng của Remaque và Hemingway.

152

còn phụ thuộc vào một số lí do khác thuộc về thị hiếu: A Farewell to Arms tuy cốt truyện
đơn giản nhưng là một truyện tình hấp dẫn, sách dễ đọc hơn số truyện khác của
Hemingway, dễ tiếp cận với đông đảo công chúng, lại vẫn vừa lòng số độc giả tinh tế bởi vì
đằng sau vẻ trong sáng dễ hiểu ấy là những âm hưởng phức tạp trái ngược của trái tim và số
phận của một thế hệ trẻ, là khoảnh khắc đổ vỡ của một thế kỉ sắt thép, khói lửa. Và một
giọng nói giản dị, trần trụi mà vẫn độc đáo, mới mẻ khác hẳn lối văn đương thời - lối khoa
trương trong bút pháp và miêu tả tình cảm bắt đầu trở thành cũ kĩ trước sự xuất hiện của
văn Hemingway.
2.3.3 Chuông nguyện hồn ai (For Whom the Bell Tolls)
Thế hệ vứt đi và con người nhập cuộc
Sinh thời Hemingway, trong khoảng ba mươi năm, báo chí đã theo dõi, tường thuật
kịp thời từng sự cố trong cuộc đời ngang tàng của nhà văn. So sánh với tác phẩm, có nhà
nghiên cứu Mỹ còn cho rằng “trong vầng hào quang của sự nghiệp chói lọi ấy, những câu
chuyện của Hemingway đôi khi chỉ giống như những bản sao chép nhợt nhạt so với bản
gốc” (bản gốc: ám chỉ con người thật Hemingway)
Tiểu thuyết phản ánh cuộc đấu tranh anh dũng của nhân dân Tây Ban Nha chống bọn

phátxít Franco để bảo vệ chế độ cộng hoà trong giai đoạn sắp nổ ra đại chiến thế giới II
Nhân vật chính là Robert Jordan, một chiến sĩ người Mỹ trong lữ đoàn quốc tế tham
gia cuộc chiến tranh chống chủ nghĩa phát xít. Trong kế hoạch nhằm giải phóng một vùng
lãnh thổ Tây Ban Nha của sư đoàn số 14 do tướng Gondez người Nga chỉ huy, Robert
Jordan được lệnh phối hợp với một nhóm du kích Tây Ban Nha đặt mìn phá huỷ một chiếc
cầu để chặn viện binh và cắt đường rút chạy của địch. Anh lên đường đến Vilaconegio, tổ
chức kế hoạch đánh cầu. Tại đây mối tình sâu nặng giữa anh và cô du kích Tây Ban Nha
xinh đẹp tên là Maria đã nảy nở.
Tình yêu đã giúp hai người nhận ra ý nghĩa sâu sắc của cuộc sống và công việc họ
đang làm . . . Robert Jordan lại phát hiện ra bọn phát xít đã đánh hơi được cuộc tập kích
và đang bố trí ráo riết một cuộc phản kích. Anh cử ngay Ander mang báo cáo về Ban chỉ
huy sư đoàn đóng ở Navaserada, đề nghị thay đổi kế hoạch tác chiến và yêu cầu ngừng
việc phá cầu. . .
Song thật không may, do gặp nhiều trắc trở, lẽ ra chỉ cần đi hết đoạn đường trong ba
giờ, Ander đã phải mất cả một ngày. Khi bức thư của Robert Jordan tới tay chỉ huy Gondez
thì cũng là lúc những chiếc máy bay đồng minh đầu tiên đã xuất hiện ném bom mở màn
chiến dịch. Robert đành cho nổ mìn phá cầu theo kế hoạch cũ rồi dẫn đội du kích rút lui
Dọc đường, anh bị thương gãy chân, vết thương quá nặng, anh quyết định từ giã đồng đội
và người yêu, nằm lại ngọn đồi cạnh chiếc cầu bị phá, cố chiến đấu cầm chân địch cho đội
du kích rút lui an toàn.
Năm 1936, nhà văn của những trận đấu bò, nhà văn từ đại chiến thế giới I trở về với
những vết chấn thương trên cơ thể và tâm hồn lại đi tham gia một cuộc chiến tranh khác ở
Tây Ban Nha. Khi trở về, ông viết: “Tôi chưa biết chính xác đã có nhà văn Mỹ nào dám
sang Tây Ban Nha để tìm chân lí hay chưa. Nhưng tôi biết đã có nhiều nhà văn Anh sang
Tây Ban Nha. Nhiều nhà văn Đức, Pháp, Hà Lan ra tiền tuyến tìm chân lí, có khi họ chỉ tìm
thấy cái chết thay vì chân lí. Nhưng nếu mười hai người ra đi chỉ có hai người trở về thì lúc
đó cái họ mang về sẽ là chân lí thực sự”
153

Năm 1940, ông cho in “Chuông nguyện hồn ai” vốn đã được nung nấu trong khi tham

gia chiến đấu ở Tây Ban Nha. Trong cuốn này, nhân vật chính Robert Jordan vẫn giống như
một bóng hình, một phân thân (an alterego) của Hemingway trong một chặng đường mới -
một con người nhập cuộc, theo một ý nghĩa tích cực, dù nét này đã tiềm tàng trong Frederic
Henry của “Giã từ vũ khí”
Ở đây, trước hết vẫn là sự thể nghiệm về chiến tranh và cái chết: đây là những motif
của tiểu thuyết, truyện ngắn của Hemingway. Ông rất có ý thức về đề tài trên. Ông đã từng
ghi vào sổ tay “Viết về một trong những điều đơn giản nhất và chủ yếu nhất là cái chết
bất đắc kì tử”. Hemingway thích viết về Tây Ban Nha bởi vì ở đó “người ta biết rằng cái
chết là điều không thể tránh khỏi, là điều chắc chắn duy nhất”
Nhưng theo nhà văn, con người vẫn không bỏ cuộc đời ra đi để miễn sao khỏi phải
nghĩ tới nó và hi vọng rằng nó không hề tồn tại. Khi viết như vậy, Hemingway nghĩ tới Tây
Ban Nha của những trận đấu bò, song đồng thời ông nghĩ tới Tây Ban Nha trong cuộc nội
chiến chống phát xít. Nhân vật trung tâm ở “Chuông nguyện hồn ai” đã tự nguyện lựa chọn
cái chết, giống như một số nhân vật khác của Hemingway. Tuy nhiên, anh Robert Jordan
không chết vì tự sát như đại tá Cantoen trong cuốn “Bên kia sông và dưới vòm cây lá” sau
này. Tất nhiên cái chết tự sát của đại tá Catoen hoàn toàn không có ý nghĩa là một sự đầu
hàng: Nó giống như một sự lựa chọn của một Robert Jordan khi Cantoen ở một thời kì trẻ
trung hơn, lãnh nhiệm vụ phá cầu và nằm lại đó để cầm chân địch cho đồng đội rút đi.
Sự lựa chọn cái chết bất đắc kì tử này vừa như một thể nghiệm đớn đau của “con
người trong thời đại chúng ta”, vừa mang một dư vị bi tráng của thời sự. Bởi thế, ngoài ý
muốn của mình, Hemingway tuy rất ghét sử thi, đã viết một tiểu thuyết mà một số nhà phê
bình so sánh với sử thi.
Tuy vậy, “Chuông nguyện hồn ai” vẫn là một cuộc đối thoại ngầm với người anh
hùng kiểu cũ (nhân vật chính của sử thi), và đã thể hiện cuộc chiến đấu của những người
chống phát xít mà không tắm mình trong hào quang của sử thi, dù là sử thi kiểu mới. Thực
ra kể từ “Giã từ vũ khí”, nhà văn đã đối thoại với lối hư cấu nhân vật anh hùng kiểu cũ, qua
lời nói của Catherine Bake: “người dũng cảm có lẽ phải chết tới ngàn lần, nếu như anh ta
thông minh”. Quan niệm này của Hemingway nhằm đối chọi ý của thi hào Shakespear
trong vở kịch Julius Caesar: “người anh hùng chỉ chết có một lần, còn kẻ hèn nhát chết
hàng ngàn lần”. Do đó, Jordan chấp nhận cái chết một lần khi coi mình là kẻ hèn nhát.

Quả vậy, Robert Jordan là kiểu người anh hùng phải chịu đựng muôn ngàn thử thách
của cái bình thường hàng ngày, vì anh không nổi bật hơn đám đông quanh anh. Thậm chí
nhà phê bình George Sneo còn cho rằng “Những lãnh tụ của đội du kích, Pilar, Pablo là
những trí óc bậc thầy, ở bên cạnh họ ngay cả Robert cũng chỉ là một cái gì mờ nhạt”
Những người anh hùng của Hemingway không chấp nhận thực tại, nhưng không thể
hiểu hết và đương đầu với thực tại bí ẩn. Robert dù đi đến cùng con đường đã chọn trong
một khoảnh khắc ngắn ngủi của cuộc đời, song anh làm việc đó không phải không cảm thấy
ít nhiều cái bất lực của mình, và có phần hoài nghi chính cái khả năng biến đổi thực tại của
người anh hùng “kiểu mới”. Từ trước đó tới nay, có không ít nhà phê bình tự nhận là
mácxít đã phê phán điểm này của Jordan, đòi anh phải là cái loa phát ngôn trực tiếp, đầy đủ
cho nhà văn. Vậy mà lịch sử thống trị của tên trùm Franco tới gần 50 năm qua cũng đã
chứng tỏ rằng sự hoài nghi của Jordan chẳng phải là không có căn cứ, nếu ta coi thực tiễn là
một kiểm nghiệm của hư cấu.
154

Đối với Robert Jordan, cái cầu mà anh có nhiệm vụ phá hủy, không phải là trung tâm
của cuộc nội chiến Tây Ban Nha. Trong đời anh vẫn có cái bơ vơ của cái tiền thân anh, con
người thuộc “thế hệ vứt đi” (A Lost Generation). Bởi thế, có nhà phê bình cho rằng “cái
cầu” còn xuất hiện trong trí óc anh như một bánh xe định mệnh. Trong liên tưởng của nhân
vật, có hình ảnh của chiếc bánh xe vô biên của trường đua ngựa hoặc nơi quay xổ số chồng
chéo lên những đợt máy bay ném bom là hiện thực, song cũng là biểu tượng của định
mệnh, cuốn hút và nghiền nát những nhân vật, và cũng là hình ảnh tượng trưng cho nền
“văn minh công nghiệp” Những ám ảnh đó để lại một dấu vết cô đơn cố hữu, không thể
hủy diệt ở nhân vật Hemingway, đem lại một vẻ đẹp cho người anh hùng kiểu Hemingway
bởi dư vị lãng mạn của nó.
Thái độ của người anh hùng trước cái chết, đau khổ và bạo lực trong văn Hemingway
là một thái độ phức tạp, khó diễn giải rành mạch: bề ngoài chán chường, buông thả, phủ
nhận, che giấu một bên trong nhạy cảm, nồng nhiệt và khao khát hành động. Người ta đã
tóm tắt nét đặc trưng ấy của nhân vật Hemingway là “chủ nghĩa khắc kỉ”
Sự thể hiện cuộc chiến đấu chống phát xít lúc bấy giờ ở tác phẩm này không hề tắm

trong màu sắc lí tưởng hoá. Cho tới nay vẫn có những lời phê phán nhà văn đã viết về việc
quân cách mạng bắn giết bọn lính phátxít Franco. Hình như đã tiên đoán điều này, năm
1937, khi đem in vở kịch “Đội quân thứ 5” tên gọi một tổ chức gián điệp của địch,
Hemingway đã viết: “Một số người bảo vệ nền cộng hoà Tây Ban Nha một cách cuồng tín
- và bọn cuồng tín vốn thường gây hại nhiều hơn là làm lợi cho một lý tưởng- sẽ phê phán
vở kịch rằng người ta đã chấp nhận việc hành hình những phần tử thuộc Đội quân thứ 5.
Bọn họ sẽ nói- và đã nói- rằng vở kịch không trình bày được sự cao thượng và tôn quí của
lí tưởng Tây Ban Nha. Vở kịch này không hề tìm cách làm việc đó. Lời tiên đoán và đối
đáp này, rõ ràng là cũng có thể vận dụng vào “Chuông nguyện hồn ai”. Đối chiếu với thời
sự những năm 80, 90 thế kỉ này, thì hẳn “Chuông nguyện hồn ai” không còn bị phê phán là
đã thể hiện một thực tế thiếu chân thực của phong trào cách mạng nữa.
Vả chăng, dù là một trường hợp được một số nhà phê bình coi là bước ngoặt của
Hemingway trong sự thể hiện con người nhập cuộc thì “Chuông nguyện hồn ai” vẫn in dấu
biểu tượng vốn là nét cố hữu cũng như sẽ phát triển trong nghệ thuật của ông ở giai đoạn
sau, với “Ông già và biển cả”(The old man and the sea). Trong “Chuông nguyện hốn ai”,
nhân vật Maria - người con gái bị kẻ thù làm nhục, lại mang tên của Đức mẹ đồng trinh.
Nét này có ảnh hưởng đến nghệ thuật thể hiện nhân vật cũng như vấn đề thời gian của
“Chuông nguyện hồn ai”
Đến tiểu thuyết “Chuông nguyện hồn ai”, cốt truyện chưa phải là một sơ đồ như ở
“Ông già và biển cả” nhưng so với “Giã từ vũ khí” nó đã đơn giản hơn. Tất cả chỉ xoay
quanh sự chuẩn bị trong ba ngày hai đêm để phá cầu. Điều này ảnh hưởng tới cốt truyện
vốn xưa nay dựa vào sự phát triển của biến cố và hành động theo chiều dài thời gian. Và
cũng ảnh hưởng tới việc miêu tả tâm lí nhân vật. Có thể nói rằng nhân vật và thời gian
trong truyện gần như bị chặt cụt mất hai chiều chỉ còn có hiện tại đang tuôn chảy.G Stein-
người bạn văn từng có ảnh hưởng tới Hemingway thời trẻ đã muốn thực hiện một điều mà
bà không thành công lắm : “công việc của nghệ thuật chính là sống trong hiện tại”. Về mặt
này, Hemingway là người đồng thời của nghệ thuật hiện đại nên không nói là tiên phong.
Nếu các hoạ sĩ như Picasso hoặc Gri đã xoá bỏ luật viễn cận trong hội họa thì ở tác phẩm
Hemingway, ranh giới xa gần của thời gian cũng bị xoá mờ. So sánh với thời gian nghệ
thuật thế kỉ trước, M. Haliday nhận xét “Khi đồng hồ của Baudelaire, nhà thơ Pháp điểm

155

lên rằng: hãy nhớ lại bằng biết bao thứ tiếng thí kí ức của Robert Jordan cất lên tiếng : bây
giờ, bây giờ, bây giờ !”
Cũng hướng về hiện tại như Proust và Joys, Hemingway vẫn được coi là trẻ hơn họ
bởi toàn bộ tác phẩm của ông không phải là cuộc “săn tìm thời gian đã mất”. Ông là người
của khoảnh khắc chớp được qua dòng điện tín, qua giây phút phát thanh, qua hiện hình trên
màn ảnh, ở đó tất cả có thể đồng hiện trong hiện tại. Từ tác phẩm của Hemingway càng toát
lên một không khí trẻ trung lành mạnh của con người đang sống hết mình với thời gian hiện
tại.
Khi nhà văn Hemingway chủ trương rằng “tôi cho các nhân vật hành động chứ không
miêu tả họ”, do đó các nhân vật của ông ít được giải thích về mặt tâm lí. Hành động (bao
gồm cả ngôn từ trực tiếp) có khi không phù hợp với nội tâm, cho nên các nhân vật của ông
có phần khó hiểu, gần như “phi tâm lí” - một nét cực đoan ở một số nhà tiểu thuyết hiện đại
khiến người ta đã nói đến “cái chết của nhân vật tâm lí”. Ở trường hợp Hemingway, thực ra
nhân vật vẫn được tâm lí hoá, chỉ có điều những độc giả lười suy nghĩ sẽ không thấy điều
đó bởi vì họ không được hỗ trợ bằng những lời dẫn truyện như truyền thống.
Trong các biện pháp tâm lí hoá nhân vật, Hemingway thường dùng biện pháp rọi sáng
nó bằng cách chọn một thời điểm nhất định trong khoảng thời gian hạn hẹp. Nhà văn bắt
ngay vào thời điểm hạn chế- từ đầu câu chuyện ví như người đấu bò tóm ngay lấy sừng con
bò tót. Thời gian ở đây dường như thoát khỏi lịch biểu, lịch sử mà khép kín trong những
xúc động của nhân vật. Đây cũng là một nét khá mới mẻ của tiểu thuyết hiện đại. Một vài
nhà nghiên cứu nói về mối đe doạ cắt đứt liên hệ giữa nhân vật với xã hội. Song bởi
Hemingway đã chọn nhân vật ở những giây phút chìa khoá, như được dọi chiếu bằng luồng
sáng đặc biệt của sân khấu quyền Anh “ở độ căng cuộc đấu hoặc xúc động mãnh liệt nhất
lúc bộc lộ ra tất cả những nét xấu nhất hoặc tốt đẹp nhất của họ. Và, khi cô đọng thời gian
như thế, ông đã làm tăng sự phong phú và cường độ của câu chuyện”
Mối liên hệ giữa các nhân vật dựa vào đối thoại của họ. Trong lịch sử văn học Mỹ,
Hemingway đã từng được Philip Iong đánh giá là “người làm sống lại nghệ thuật đối
thoại”. Trong “Chuông nguyện hồn ai”, đối thoại chiếm một tỉ lệ rất lớn, khác thường.

Nhiều về số lượng nhưng đối thọai ở đây thường là ngắn, gần với khẩu ngữ, nhiều ẩn ý và
chỉ dễ hiểu khi gắn với ngữ cảnh. Chẳng phải ngẫu nhiên mà người ta đánh giá là nhân vật
của Hemingway “ít lời”. Theo nhà văn Nga Pautovski đây là “loại đối thoại mang tính chất
dòng chảy ngầm”. Người ta đã đổ bao nhiêu mực để bàn về lối viết đối thoại Hemingway.
Nó vừa thể hiện phong cách báo chí của Hemingway, lại giống như một thông điệp về sự
cô đơn của con người trong thế giới hiện đại mà Robert Jordan cũng ít nhiều là một đại
diện.
Nếu đối thoại do tính chất khó giao tiếp một phần giữa người và người - có lúc giống
như một lời độc thoại, thì ngược lại, độc thoại ở “Chuông nguyện hồn ai” có lúc lại giống
như một lời đối thoại. Nghịch lí mang lại sức hấp dẫn cho độc thoại ở đây là ở chỗ: một lời
nói hướng nội là một sự giải toả, hướng ngoại để giải quyết những đấu tranh dằn vặt, đau
đớn của nhân vật. Sau đây là những lời kết thúc được coi như một mẫu mực của độc thoại
nội tâm trong “Chuông nguyện hồn ai”:
“Hãy nghĩ tới những người đã đi xa rời- anh nói. Nghĩ là họ đang băng qua rừng.
Nghĩ tới họ đang đi qua suối. Nghĩ tới họ trên mình ngựa, trong rừng dày. Nghĩ tới họ đang
lên dốc núi ( ). Hãy nghĩ tới Montana: Ta chẳng làm nổi. Nghĩ tới Marid: Ta chẳng làm
156

nổi. Hãy nghĩ tới một cốc nước mát. Được lắm. Cứ thế. Như một cốc nước mát. Mày là
thằng nói dối. Điều đó chẳng có nghĩa gì. Thế thì làm đi ”
Rõ ràng, nét độc đáo của nghệ thuật độc thoại nội tâm ở đây không đơn giản chỉ là
một tìm tòi thuần túy về kĩ xảo mà nó được qui định bởi thế giới bên trong của một con
người nhập cuộc.
Từ năm 1925 cả một thế hệ nhà văn và độc giả tìm thấy qua tác phẩm của ông những
cảm hứng, hình ảnh có tính tượng trưng cho “sự sống sót của tính cách giữa cõi hỗn mang”
và đồng thời Hemingway cũng đã “gây nên một cuộc cách mạng trong ngôn ngữ có ảnh
hưởng tới nghệ thuật kể chuyện và đối thoại”
Tuy không phải loại sách bán chạy như “Giã từ vũ khí” nhưng “Chuông nguyện hồn
ai” cũng đã góp phần thể hiện “sự sống sót của tính cách giữa cõi hỗn mang”-tính cách của
một con người bơ vơ nhập cuộc.



2.3.4 Ông già và biển cả (The Old Man and the Sea)
Cốt truyện và điểm nhìn, hiện thực và biểu tượng
Nếu xét bề ngoài, “Ông già và biển cả” ít có liên hệ chặt chẽ với một số tiểu thuyết
trước đó của ông như Giã từ vũ khí, Chuông nguyện hồn ai hoặc một số truyện ngắn như
The Fifty Thousand Dollars (Năm mươi ngàn đô la), The Man who Can’t Be Defeate,
(Người không thể chiến bại), The Murders (Bọn giết người). Nhưng nếu xét ở chiều sâu
hơn, thì những nét mới mẻ và độc đáo ở đây vẫn chỉ là sự phát triển những nét đặc sắc vể
kiểu người anh hùng, về nghệ thuật kể chuyện vốn đã tiềm tàng từ các tác phẩm kể trên.
Sau khi viết The old man and the sea, ông được tặng giải năm 1954.
“Ông già và biển cả” là một cuốn truyện độc đáo, trước hết ở tính chất không có cốt
truyện. Nếu quan niệm cốt truyện là sự phát triển những sự kiện, biến cố gắn bó với nhân
vật trong sự vận động của thời gian (thậm chí có lúc nó đã được định hình trong một kết
cấu có tên gọi là là kết cấu dramatic gồm năm thành phần như một vở kịch truyền thống
hoặc rất tiêu biểu ở tiểu thuyết thế kỉ thứ 19 về trước, thì quả thật “Ông già và biển cả” đã
thể hiện ý đồ huỷ diệt cốt truyện ở thế kỉ hai mươi rõ rệt hơn “Giã từ vũ khí”.
Khi xác định thể loại của “Ông già và biển cả”, có nhà nghiên cứu xếp nó vào truyện
ngắn vì tính chất loãng của cốt truyện, lại có người gọi là tiểu thuyết.
Thực ra ngay cả truyện ngắn cũng có tác phẩm trong đó cốt truyện khá chặt chẽ, căng
thẳng. “Ông già và biển cả” giống với thơ nhiều hơn bởi vì một nét đặc sắc của nghệ thuật
hư cấu nhân vật. Hemingway ngay từ khi cầm bút đã chú ý để cho nhân vật hành động, tự
nói lên chính mình, ngay cả đối thoại cũng là một kiểu hành động. Bởi vậy đã có những tác
phẩm nổi bật về đối thoại như là “Giã từ vũ khí”, “Mặt trời vẫn mọc”, và những truyện tạo
nên toàn bằng đối thoại như The lost Paradise (Thiên đường đã mất) lần đầu tiên xuất hiện
với tựa đề Hills like White Elephans (Những đồi tựa như đàn voi trắng). Điểm nhìn được
đặt từ phía ngoài vào. Ở “Ông già và biển cả”, điểm nhìn di động vào bên trong, bởi lẽ hành
động bên ngoài rất đơn giản, dường như toàn bộ hành động diễn ra ở bên trong nhân vật.
Một khi điểm nhìn đã di động vào bên trong, thì cốt truyện – theo quan niệm truyền thống-
dựa trên sự phát triển của tình tiết – rõ ràng là bị giảm nhẹ.

157

Tất cả bề dày và chiều sâu của nhân vật được gợi lên qua một hình thức ngôn từ của
nhân vật đặc biệt phát triển ở cuốn truyện này : đó là độc thoại nội tâm. Những ý nghĩ ở đây
cũng hết sức giản dị, giống như một sơ đồ phản ảnh kịp thời hành động đánh cá trên biển
của ông già Santiago. Tuy thế, xen lẫn vào đó, vào những ý nghĩ tưởng chừng như đơn giản
về con cá, về biển cả, là những chân lí lớn lao mà con người thể hiện ở thời đại này: “
không một con người nào phải cô đơn nơi biển cả”. Suốt đời suy nghĩ, trăn trở về nỗi cô
đơn, từ Henry đến Robert Jordan, thì đến ông già Santiago – nhân vật trung tâm của
Hemingway đã rút ra kết luận như vậy. Dù chẳng ở chiến trường chống phátxít như Robert
Jordan nhưng vẫn có một mạch ngầm nối liền ông già Santiago với người chiến sĩ ấy.
Những quan hệ xã hội ở đây chỉ xuất hiện xa xôi, gián tiếp qua những mảnh hồi ức
rời rạc, trong độc thoại nội tâm của nhân vật. Trong một cuốn tiểu thuyết, những quan hệ xã
hội trước hết có thể xuất hiện qua quan hệ giữa các nhân vật. Ở tác phẩm “Ông già và biển
cả”, mối liên hệ giữa các nhân vật xuất hiện rất ít, chủ yếu qua ông già Santiago và chú bé
Malonin và cũng chỉ xuất hiện trực tiếp ở đoạn đầu và đoạn cuối mà thôi. Mối quan hệ ấy
hoàn toàn không gợi lên cái mà trong chủ nghĩa hiện thực gọi là một hoàn cảnh điển hình:
cuộc đấu tranh xã hội. Ngay cả hình ảnh những người khách du lịch ở khách sạn Terace
xuất hiện ở cuối truyện, qua một vài mẩu đối thoại, cũng không nhằm gợi lên mối quan hệ
ấy, mà chỉ nhằm gợi nên sự cô đơn của người anh hùng kiểu Hemingway giữa cảnh đời xa
lạ mà thôi.
Hoàn cảnh là một khái niệm vừa có ý nghĩa không gian vừa có ý nghĩa thời gian.
Không gian choán ngập những trang sách này là biển cả và bầu trời, và lùi ra phía xa xăm
là những ánh sáng của hải cảng La Habana, ánh điện thấp thoáng của khách sạn Terace. Ở
đây, cũng như nhiều cuốn tiểu thuyết khác của Hemingway, nhà văn dường như chỉ chớp
lấy thời gian hiện tại, thời gian trước mắt, cái “tại đây- bây giờ”. Điều đó khiến thời gian sự
kiện được giới hạn rất hạn hẹp: câu chuyện đi đánh cá ba ngày đêm được kể lại với độ dài
gần một trăm trang sách và bởi vì thời gian ấy tuôn chảy trong dòng tâm tư của một nhân
vật nói chuyện với chính mình, nên không những thời gian lịch sử mà cả thời gian lịch biểu
cũng bị đẩy lùi ra sau.

Thời gian tương lai - chiều thứ ba của hiện thực đã xuất hiện ở đây một cách hàm ẩn
qua một biểu tượng: chú bé Manolin - Và khi gắn biểu tượng tương lai vào hình ảnh một
chú bé dễ thương đến như thế - người bạn gần gũi thân thiết nhất của ông già- Hemingway
đã gửi gắm vào đó biết bao tinh thần lạc quan. Nhà văn của “thế hệ vứt đi” không hoàn toàn
là một kẻ yếu thế, chán chường. “Một thế hệ qua đi, một thế hệ tiếp đến, và trái đất mãi mãi
vững bền” không phải ngẫu nhiên mà ông đã đặc biệt yêu mến những lời văn ấy trong Kinh
Thánh.
Những lời độc thoại nội tâm của ông già không hoàn toàn biểu hiện một trạng thái cô
đơn, khép kín. Đây là một cách đối thoại với chú bé Manolin đang ở xa, trên bờ biển, đối
thoại với trời mây, biển cả hoặc với cá nước, chim trời cuộc đối thoại này đã nhân hoá
những vật thể ấy. Con người bị kết án phải chết và phải chết , nhưng họ có thể tìm thấy
nguồn khuây khoả trong ý nghĩ mà Robert Jordan đã linh cảm được và ông già đánh cá đã
thể hiện tới cùng, khi hiểu được rằng “không có một ai phải cô đơn ngoài biển khơi”. Tiếp
nối ý niệm về sự cô đơn không thể tiêu diệt con người tác phẩm đã kết thúc bằng sự suy
tưởng về sự liên kết toàn vũ trụ, nó gắn bó tất cả mọi vật và mọi người.
158

Nếu coi nhân vật ông già đánh cá là một biểu tượng, thì sự đánh giá ấy có phần đúng.
Dù ngôn từ của nhân vật có xen lẫn nhiều thổ ngữ (Hemingway biết nhiều ngoại ngữ và
ông đặc biệt yêu tiếng Tây Ban Nha, những tiếng địa phương ở đây vẫn không nhằm cá thể
hoá nhân vật, mà nó giống như những lời phù chú, những tiếng hò dô đệm cho động tác của
người đang lao động. Tác giả đã vẽ nên hành động của ông già bằng những nét sơ lược
nhất, giống như một sơ đồ về hành động của người đánh cá nói chung. Khi mô tà ngọai
hình nhân vật, Hemingway cũng đẩy tới cá thể hoá nhân vật : rất khó giữ lại một gương mặt
cụ thể, riêng biệt về “con người này” trong truyện. Hemingway miêu tả bàn tay giang ra
hình chữ thập thâm bầm nứt nẻ của ông già khiến có người đọc liên tưởng tới hình ảnh
Chúa bị đóng đinh câu rút. Ngay cái tên của ông già đánh cá cũng không gợi nên sự cá thể
hoá, mà giống như một biểu tượng: Santiago, do ghép âm hai chữ: sant (thánh) và igo (ông
thánh Igo). Đến lượt mình, tính chất biểu tượng cũng góp phần làm thay đổi màu sắc thời
gian ở đây. Nhiều nhà nghiên cứu đã chú ý đến lối mở đầu giống như trong một ngụ ngôn

cổ xưa hoặc một huyền thoại “ông lão đánh cá chỉ có một mình với chiếc thuyền trên dòng
Gill Stream. Vậy là đã tám mươi tư ngày ông đi biển và chưa đánh được con cá nào”. Ở
đoạn kết thúc tác phẩm, tuy đoạn đối thoại của những du khách ở khách sạn Terace có gợi
một không khí dung tục, nhưng những câu chuyện kể cuối cùng lại tái hiện cái không khí
của những câu mở đầu: “Dưới kia, trong lều tranh, ông lão đã ngủ thiếp đi. Ông vẫn ngủ
sấp bụng, và chú bé dõi mắt nhìn ông ngủ. Ông lão nằm mơ thấy sư tử”. Có lẽ do chính
không khí huyền thoại xuất hiện ở đầu truyện mà một vài bản dịch ở Việt Nam (trước 1975
có 2 bản dịch ở Hà Nội và Sài Gòn) và ở Pháp có ghi thêm mấy chữ “Ngày xửa ngày xưa . .
.” trước câu đầu tiên. Không khí truyện được tắm trong màu sắc siêu thời gian.
Tất cả những yếu tố trên góp phần làm cho hình tượng Santiago tuy được gợi ra là
một ông già đánh cá Cuba, vẫn gần với một biểu tượng. Có điều chắc chắn là cái tên của
ông, bàn tay rách nát và động tác của ông, dù có gợi lên hình ảnh Chúa bị đóng đinh câu rút
thì Santiago vẫn không hẳn là một biểu tượng tôn giáo. “Lòng dũng cảm, ý chí quyết thắng,
sự hợp đồng lớn lao với biển, với đất với trời, với đá và chim. Tác phẩm khích lệ những
tình cảm giản dị và thuần khiết ấy, dù có lấy khung cảnh Cuba chăng nữa, vẫn mang tính
chất Mỹ một cách thật sâu sắc“ (Misen Mohort).
Cao hơn thế, Santiago giống như một biểu tượng về cuộc đấu tranh của con người
hiện đại trên thế giới này: suốt cuộc đời cực nhọc vẫn đuổi theo một giấc mơ kì vĩ. Và khi
ông lão săn được con cá lớn như huyền thoại, kéo nó vào bờ bến của thực tại, thì những con
mắt thờ ơ lãnh đạm chỉ còn nhìn thấy được phần rách nát, xương xẩu của nó.
Tuy nhiên, bên cạnh ông già vẫn còn chú bé Manolin đang nhìn ông mơ giấc mơ sư
tử và khóc vì bàn tay rách nát của ông Người đọc nhìn thấy qua “Ông già và biển cả”
một bản di chúc của con người đã suốt đời lao động sáng tạo và hiểu được nỗi đắng cay của
con người ở giữa cuộc đời này trước hết chính là con người Hemingway, nhà văn viết trong
“Ông già và biển cả” – The man can be destroyed but he can not be defeated (con người có
thể bị tiêu diệt nhưng không thể bị khuất phục).

159

2.3.5 Hạnh phúc ngắn ngủi của F. Macomber (The short happy life of F. Macomber)

Một người Mỹ giàu có tên là Francis Macomber cùng vợ đi du lịch và săn thú rừng
ở Châu Phi với một người thợ săn chuyên nghiệp là Wilson. Trong lần đi săn sư tử đầu
tiên, Macomber đã tỏ ra hèn nhát, bỏ chạy khi con thú vùng lên và gục ngã nhờ phát súng
của Wilson. Vợ của Macomber tên là Margaret Margo vốn là một phụ nữ tinh tế đã ngấm
ngầm khinh bỉ sự hèn nhát của chồng, rồi khâm phục và có cảm tình với Wilson.
Thấm thía nỗi nhục nhã, đến lần thứ hai đi săn trâu rừng, Macomber đã cố gắng
vượt qua nỗi sợ hãi, học tập bạn và thể nghiệm được niềm vui đầu tiên của sự dũng cảm.
Phát hiện được con trâu rừng bị thương, Macomber cẩn thận nhằm bắn, gan góc đối diện
với con thú dữ đang lao vào anh. Súng nổ. Thực ra là hai phát súng cùng nổ. Phát đạn thứ
hai là do Margo bắn từ xa, Macomber gục ngã. Cô ta bắn trâu để cứu chồng, chẳng may
trúng nhằm anh như một tai nạn đi săn hay cô vợ chủ ý giết chồng ?
Thực ra , cuộc đi săn chỉ là đoạn kết bi thảm của một cuộc hôn nhân đã kéo dài 11
năm trời . Câu chuyện mở ra quan hệ phức tạp của vợ chồng và bè bạn. Margo vốn là một
cô người mẫu quảng cáo (model) lấy được nhà triệu phú Mỹ giàu có, điển trai. Trong nhiều
năm cô đã khai thác sắc đẹp của mình để giữ chồng và thoả mãn tình dục với nhiều đàn ông
khác. Tính cách của cô được giới thiệu qua nghề quảng cáo “Năm năm trước đây để quảng
cáo cho một thứ mỹ phẩm mà cô ta chưa bao giờ dùng tới, mỗi chữ kí trên tấm ảnh của cô
có giá trị năm ngàn đôla. . .”
Hôn nhân của họ thực chất là một bản hợp đồng che dấu thói vô đạo đức của bọn
nhà giàu. Tác giả làm nổi bật sự tương phản giữa dáng vẻ bên ngoài và tính chất bên trong
của mỗi người. Vẻ đẹp bên ngoài của Margo mâu thuẫn với tính cách giả dối của cô ta. Vẻ
ngoài cao lớn khoẻ mạnh của Macomber che phủ tính cách hèn nhát của anh ta. “Cũng như
Wilson, anh ta mặc bộ đồ đi săn, nhưng bộ quần áo của anh mới nguyên (sau cuộc săn sư
tử). Anh ta khoảng ba mươi lăm tuổi, biết chăm sóc hình thức thân thể, chơi quần vợt giỏi,
đã từng đoạt kỉ lục về câu cá lớn ( ) anh ta rất giàu có và ngày càng giàu có hơn. Anh ta
biết giờ đây chẳng bao giờ cô vợ xinh đẹp dám bỏ anh ta. Anh ta hiểu điều đó thực sự?
Mặc dù bất mãn với cô vợ nhiều lần ngoại tình đã bị báo chí soi mói, anh cũng chưa dám
bỏ cô. Chuyến đi săn Châu Phi này là sáng kiến, cố gắng của anh nhằm cải thiện quan hệ
vợ chồng.
Margo thông minh hơn chồng, cô lo rằng nếu Macomber ngày càng trưởng thành,

ngày càng dũng cảm thì anh sẽ bỏ rơi cô, và thân phận cô sẽ ra sao? Như vậy phát súng
khủng khiếp có lẽ đã được chuẩn bị từ trước khi cô cầm khẩu súng trong tay. Nhưng vì sao
cô ta lại khinh bỉ sự hèn nhát của chồng và thán phục sự dũng cảm của người thợ săn
Wilson - bạn mới quen của họ? Đó chính là tính cách độc đáo của người phụ nữ Margo
(trong đêm trước khi đi săn trâu rừng, cô đã lẻn sang lều Wilson).
Macomber muốn làm vừa lòng vợ nhưng lại không hiểu được tâm trạng của vợ nên
cuộc đi săn chỉ tạo nên tình huống bi hài kịch. Còn Wilson, người làm công và người bạn
mới của hai vợ chồng chẳng cần mất nhiều thì giờ cũng đánh giá đúng tình huống khi phát
súng vang lên. Chắc hẳn với tâm địa xấu xa anh ta sẵn sàng biện hộ, che đậy cho tội lỗi của
Margo, vì anh ta đã và sẽ thu được lợi ích từ bi kịch của vợ chồng họ. Sự giả dối của Margo
thể hiện đến cùng, ngay cả trong tiếng khóc tức tưởi của y tưởng như một nỗi đau khổ khôn
lường và thái độ sắc lạnh tàn ác của Wilson thật là ghê sợ. Y nói “Cái việc bà làm đây thật
tuyệt đẹp”. Y nói bằng một giọng không có âm sắc, “nếu không thì ông ấy cũng bỏ bà”.
160


2.3.6 Nhà lí thuyết của “tảng băng trôi”
Khi tự nhận xét đánh giá văn chương của mình, nhà văn Hemingway đã dùng một
hình ảnh độc đáo để so sánh với cách viết của ông : phương pháp “tảng băng trôi” có bảy
phần tám chìm dưới nước chỉ còn một phần nổi ở trên cho mọi người nhìn thấy. Hình ảnh
ấy chẳng những chỉ nói lên phong cách văn chương của Hemingway mà còn chỉ ra yêu cầu
đối với văn chương thực sự, đặc biệt đối với sáng tạo nghệ thuật thế kỉ 20. Ngày nay, người
đọc không thích lối văn chương giáo huấn lộ liễu và sự lộ mặt của tác giả qua tác phẩm
cũng như lối đồng nhất quá tỉnh táo giữa tác giả - nhân vật - người đọc. Truyện đòi hỏi một
sự đồng sáng tạo tích cực của người đọc. Đọc càng kĩ, người đọc mới phát hiện được “phần
chìm của tảng băng trôi” trong tác phẩm văn chương. Lí luận văn chương cũng đã gọi là
“mạch ngầm văn bản”, còn ở phương Đông chúng ta quen gọi là “ý tại ngôn ngoại”
Dưới cái vẻ trần trụi, thô sơ, rõ ràng, tác phẩm của ông ẩn giấu những tầng sâu kín, đa
nghĩa, ngụ ý và đầy chất thơ. Điều đó, trước hết, bộc lộ qua lời văn của tác phẩm. Ngôn từ
của ông rất ngắn gọn và đơn giản. Ông có sở trường về văn đối thoại.

“Băng trôi” trong đối thoại
Văn đối thoại của ông thường được ví là văn điện tín. Đối thoại rời rạc, khó hiểu xuất
phát từ những nhân vật kiểu Hemingway- đó là những người kín đáo, khó hiểu, không thích
trần tình, không muốn bộc lộ tâm tư. Khó hiểu đối với người đọc nhưng vẫn dễ hiểu với
người trong cuộc. Có tiểu thuyết như “Thiên đường đã mất” (The Lost Paradise) chủ yếu
được viết bằng những đoạn đối thoại ngắn gọn, hàm ẩn và các nhân vật nói nhiều nhưng
vẫn bị coi là “ít nói”
Muốn hiểu rõ đối thoại của nhân vật Hemingway ta phải đọc cả những giây phút im
lặng của họ và phải nhập mình vào hoàn cảnh của họ. Nhà văn lại càng muốn giống mình,
không chịu giải thích bình luận về nhân vật, chẳng hạn trong truyện ngắn “Tổ quốc nhắn gì
mày ?” có một tên thanh niên phátxít hỏi hai người cho gã đi nhờ xe là phải trả bao nhiêu.
Họ đáp hững hờ “ không cần”, hắn hỏi lại “tại sao”. Tác giả không bình luận gì thêm. Nếu
người đọc phối hợp toàn bộ câu chuyện sẽ thấy một nét tính cách của tên phátxít (dù ở thời
kì mới xuất hiện) tính cách không cởi mở nồng nhiệt như những người Italia bình thường,
gã là kẻ xấc láo và đa nghi.
Trong truyện ngắn “Ở làng người da đỏ”, một bác sĩ dẫn theo cậu con trai đi đỡ đẻ
cho một người phụ nữ. Ca đẻ khó, người phụ nữ rên la, gào thét. Chồng chị ta nằm nghỉ ở
tầng trên im lặng hút thuốc lá. Cậu con bưng nước, tiếp tay ông bác sĩ. Đứa bé trai ra đời.
Bác sĩ phấn khởi, khen người chồng giữ được bình tĩnh. Khi ông kéo cái chăn trùm người
chồng thì thấy anh ta đã tắt thở, do tự sát bằng lưỡi dao cạo khi anh không chịu nổi tiếng
kêu rên đau đớn của vợ. Trên đường về hai bố con bác sĩ hướng về phía hồ nước:
- Rất tiếc đã để con đi theo Nick ạ Ba đã dẫn con vào một nơi không đáng
đến.
- Có phải bao giờ đàn bà cũng đau đớn khi sinh đẻ hả ba ?
- Không, trường hợp vừa rồi là hoàn toàn đặc biệt.
- Tại sao anh ta tự tử hở ba?
161

- Ba không rõ. Có lẽ y không thể chịu đựng hơn
- Có nhiều đàn ông tự tử không ba?

- Không nhiều đâu Nick ạ.
- Đàn bà có nhiều người tự tử không ba?
- Gần như không bao giờ
- Không bao giờ ư?
- À có, một đôi khi.
Qua cuộc đối thoại trên, chúng ta thấy “bảy phần tám tảng băng” mới thực sự là nội
dung đáng chú ý. Đối thoại rời rạc nhưng chất chứa bao suy tư của hai cha con, nghe như
một cuộc tranh luận, lại nghe như mỗi người đang độc thoại, chẳng ai lắng nghe ai.
Đây là một đoạn trong tiểu thuyết “Giã từ vũ khí”, Henry và Catherine:
- Mưa to em ạ.
- Anh không bao giờ bỏ em chứ?
- Không.
- Ngoài mưa không có gì khác ư?
- Không có gì.
- Hay quá, dù là em vốn tính sợ mưa
- Tại sao?
Tôi thiu thiu ngủ. Sau cửa sổ, mưa vẫn dai dẳng
- Em không biết, anh yêu. Em luôn luôn sợ mưa
- Anh thì anh thích mưa
- Em thích đi dạo dưới mưa. Nhưng đối với tình yêu, đây là một triệu chứng
chẳng hay gì.
- Anh sẽ mãi yêu em
Thực tế là trong đối thoại, hai người không nói chuyện với nhau (không bàn bạc về
một vấn đề) mà mỗi người theo đuổi ý nghĩ riêng, vừa nói ra vừa nghe tiếng nói của mình.
Ngay cả những đoạn độc thoại của nhân vật cũng được miêu tả như đối thoại - đối
thoại với chính bản thân chẳng hạn trong “Ông già và biển cả”, lão Santiago tự nói to giữa
biển khơi.
Lão hỏi lớn: Ở dưới ấy thế nào hả cá? Ta thì đã khá lắm rồi, bàn tay trái gần khỏi rồi.
Ta đã có đủ thức ăn cho đêm nay và sáng mai. Cứ kéo thuyền nữa đi, chú mày”
“Lão ơi! Chính lão cũng không nên sợ hãi. Và đừng có luống cuống. Lão đã nắm giữ

được nó, nhưng vẫn chưa thu về được một thước dây nào cả. Dù sao nó cũng sắp sửa lượn
vòng quanh rồi đó Lão ơi! phải điềm tĩnh! Lúc này lão không thể đuối sức được đâu”
Lão già hỏi con chim: mày đã bao nhiêu tuổi hở chim? Phải chăng đây là chuyến vượt
biển đầu tiên của mày ?
162

Lão nói với bàn tay: Tay với chân gì mà lại thế này ! Mày có muốn tê bại thì cứ
việc Như thế thì có ích gì cơ chứ.
Lão kêu lên: - Cá mập, xông vào đi. Có giỏi thì cứ xông vào lượt nữa đi cho chúng
mày nuốt đi, lũ cá mập kia. Nuốt đi để tưởng tượng là vừa giết chết được một con người.
Qua đoạn độc thoại - độc thoại trên, ta thấy ông già đánh cá thật cô đơn biết bao. Đó
là nỗi đau khổ lớn của lão. Những lời nói của lão là sự cố gắng đặc biệt để tồn tại và đấu
tranh chiến thắng con cá.
Hemingway quan niệm: “Nhiều khi ngôn từ của chúng ta đã mất ý nghĩa vì ta đối xử
với nó một cách khinh xuất. Do đó mọi khả năng biểu hiện của nó cũng mất nốt”. Cách làm
văn của ông là phải hết sức thận trọng xử lí ngôn từ, phải trau chuốt thật công phu. Với tác
giả và với cả nhân vật, “ngôn từ là lẽ sống, là công cụ còn lại cuối cùng, là khu vực tự do
cuối cùng của một cá nhân”.
“Băng trôi” trong nghệ thuật trùng điệp
Bên cạnh lối sử dụng lặp đi lặp lại một số từ ngữ (điệp từ, điệp ngữ) Hemingway còn
lặp lại một số chi tiết, hình ảnh nên đã gây ra một hiệu quả nhất định về nội dung.
Từ truyện ngắn The man who can not be defeated, nhân vật Manuel Garcia thường
nói “Tôi là một tay đấu bò”. Đến truyện ngắn “chuyện khó xảy ra”, không còn là sự lặp từ
nữa mà là sự điệp đi điệp lại một hình ảnh : điều này khiến cho câu chuyện trần trụi của
Hemingway trở nên giống một thứ khủng khiếp. Nhân vật chính là Nicolas tới cánh đồng
cỏ khi cuộc tấn công đã xảy ra và hình ảnh những xác người chết bị lộn hết túi quần , túi
áo. Những thứ vặt vãnh và giấy tờ rơi vãi xung quanh được nhắc đi nhắc lại tới năm lần
trong khoảng hai trang sách: “Túi quần áo họ bị lộn ra ngoài. Ruồi bu kín người, và gần
mỗi xác chết hoặc mỗi đống xác chết, giấy má vương vãi”. Và đây “qui lát súng bị cạy mất,
các thứ phụ tùng trộn nháo nhào thật kì cục, và khắp nơi, trong đám cỏ, vẫn là giấy tờ

vương vãi” Rồi tiếp đến cảnh những cuốn kinh thánh, bưu ảnh chụp đội lính mang súng cối
tươi cười như đội bóng trường trung học trước trận đấu cuối niên học, ảnh tuyên truyền
chụp bọn địch đang làm nhục phụ nữ Kết thúc đoạn văn này là sự điệp lại hay đúng hơn,
là sự phát triển - những hình ảnh giống như trong một bài thơ chứa đầy ác mộng:
“Giờ đây các bức ảnh ấy lẫn lộn trong đám bưu ảnh khiêu dâm, những bức ảnh nhỏ
do các tay nhiếp ảnh nông thôn chụp các cô gái nông thôn, vài chiếc ảnh trẻ con, và những
bức thư, những bức thư và những bức thư. Xung quanh người chết thường có nhiều giấy tờ
và cuộc tấn công này chẳng phải là ngoại lệ”. Và một đoạn khác “áo choàng của họ mở
toang và túi bị lộn ra ngoài, tư thế của họ chứng tỏ rõ kiểu cách và sự khéo léo của cuộc
tấn công. Nóng nực khiến tất cả bọn họ trương phồng lên, chẳng hề phân biệt quốc tịch”.
Tất cả trở đi trở lại như một điệp khúc, làm cho các truyện ngắn đầy tính văn xuôi của
Hemingway tựa như những bài thơ. Chỉ có điều là ở bài thơ này, mối ám ảnh về sự khủng
khiếp của một cuộc chiến tranh vô nghĩa trở thành một điệp khúc ảm đạm.
Đôi khi, lối điệp hình ảnh đó không nằm trong một tác phẩm mà tái hiện trong một
tác phẩm khác. Trong truyện kể trên có một hình ảnh điệp đi điệp lại, giống như một mối
ám ảnh, đó là hình ảnh “một cái nhà quét vôi màu vàng thấp bé có cây dương liễu bao
quanh, một cái chuồng bò. Và ở đó còn có một con kênh nữa”. Ai đã đọc truyện trên thì
mới hiểu hết các truyện sau : “Con sông lớn hai lòng”, “Bên kia sông và dưới vòm cây lá”.
Hình ảnh cánh đồng cháy trụi trong một câu chuyện chỉ xoay quanh cảnh câu cá như “Con
163

sông lớn hai lòng” đã điệp lại ở “Chuyện khó xảy ra”, bỗng trở thành một motif về chiến
tranh. Cũng như vậy, ta chỉ có thể hiểu được vì sao hình ảnh “Ngôi nhà quét vôi màu vàng”
lại là một kỉ niệm u ám đối với nhân vật chính của “Bên kia sông và dưới vòm cây lá” nếu
đã đọc “Chuyện khó xảy ra”. Như vậy, mạch ngầm văn bản của Hemingway xuyên chảy
qua nhiều truyện, và người ta đã có lí khi nói: phải hiểu truyện của ông trong “liên văn bản”
với những truyện khác nữa!
Xét đến cùng, ở đây không đơn giản chỉ là vấn đề kĩ thuật viết ưa lặp từ hoặc điệp
hình ảnh. Đó là một biện pháp tâm lí hoá nhân vật. Tiềm ẩn bên trong là những mối ám
ảnh, căng thẳng của nhân vật kiểu Hemingway. Thông thường nhân vật của ông xuất hiện ở

thời điểm có một độ căng nhất định, họ mang trong lòng một nỗi niềm đau đáu khôn nguôi.
Ngay cả khi đối thoại với người khác, mỗi người vẫn theo đuổi ý nghĩ riêng của mình, bởi
thế nhà phê bình Finkensten đã nhận xét rằng đối thoại của Hemingway giống như độc
thoại bị ngắt quãng bởi người kia. Độ căng không nổi lên trên bề mặt, nhưng “tấn bi kịch
diễn ra bên dưới lời đối thoại”
Thế giới của những nhân vật ấy là một thế giới đầy đổ vỡ. Vẻ rời rạc bên ngoài của
ngôn từ chứa đựng sức biểu cảm bên trong. Trước Ionesco nhà viết kịch của “một thế giới
đổ vỡ” những năm 50, Hemingway đã thể hiện nội dung ấy bằng chính hình thức của ngôn
từ. Mặt khác, ông là người đã kết hợp trong tác phẩm của mình hai yếu tố khó kết hợp với
nhau, hai giọng nói đan cài có phần khác lạ nếu không phải là trái ngược: đó là giọng điệu
mỉa mai và tượng trưng.
Hai giọng điệu
Từ những áng văn xuôi ngắn và các bài thơ ngắn đầu tiên, ta đã thấy xuất hiện giọng
điệu mỉa mai. Tựa đề các tác phẩm của ông nghe rất bình dị : Câu chuyện vô vị, Một cuộc
điều tra đơn giản, Giờ thì tôi nằm xuống, Một câu chuyện cực ngắn, Con mèo dưới mưa,
Một nữ độc giả viết . Nhưng khi xuất hiện những tên tác phẩm nghe hơi kêu một chút thì
người đọc cũng phải gấp lại câu chuyện mới nhận ra dư vị mỉa mai của nó, chẳng hạn:
Thiên đường đã mất, Thủ đô thế giới, Người không thể chiến bại, Nhà vô địch (The
Champion), Giã từ vũ khí . . .
Nhờ nghệ thuật mỉa mai nên mặc dù tác giả cố ý vắng bóng trong tác phẩm, chúng ta
vẫn thấy tác phẩm có khuynh hướng mỉa mai - một thái độ của nhà văn đối với hiện thực.
Giọng mỉa mai của ông được ẩn sâu trong tác phẩm đến mức nếu độc giả đọc lướt qua bề
mặt chữ nghĩa không có khả năng liên tưởng, không coi tác phẩm của ông là một liên văn
bản (kể cả văn bản ngoài đời không phải của tác giả) sẽ không phát hiện được giọng điệu
mỉa mai. Chẳng hạn phải mất ba năm sau khi tập In Our Times ra đời, người ta mới biết
rằng tựa đề của nó ngụ ý mỉa mai (nhái lại lời cầu nguyện – Chúa ban phước lành cho thời
đại chúng ta). Mỉa mai khi khớp các chi tiết lại, trong “Giã từ vũ khí”, khi Henry đầu óc rối
bời bước vào hành lang bệnh viện thăm vợ sắp chết vì đẻ khó, thì các cô y tá í ới gọi nhau
đi xem “một ca mổ lấy con ra” và họ tỏ ra thích thú vì “Chúng mình đến vừa kịp. May
quá”. Ngay cả ông lão Santiago, một nhân vật có tính chất biểu tượng cho những điều nhà

văn muốn khẳng định (Ông già và biển cả), cũng vẫn không thoát khỏi sự mỉa mai : sau ba
ngày đêm đấu tranh với biển cả, kết thúc một cuộc đi câu bi tráng thì cái mà ông già kéo lên
bờ, dưới con mắt thờ ơ lạnh nhạt của con người chỉ là một bộ xương cá bị rỉa gần hết.
Giọng mỉa mai trong văn bản của ông ẩn chìm ở dưới, nếu không đặt chi tiết trở lại văn
164

cảnh thì rất khó nhận ra. Có khi cả một câu chuyện diễn ra bình thường, dung dị, đến câu
kết thúc ta mới nhận ra giọng điệu mỉa mai.
Truyện “Con chim bạch yến” gồm nhiều đoạn đối thoại giữa một người đàn bà Mỹ
cao tuổi và vợ của nhân vật “Tôi”. Khi người phụ nữ Mỹ phát hiện ra hai vợ chồng đồng
hành trên chuyến xe lửa cũng là người Mỹ, bà ta rất hài lòng và câu nói bà nhắc đi nhắc lại
trong đối thoại là “đàn ông Mỹ thường là những ông chồng tốt chẳng có người ngoại
quốc nào mà đàn bà Mỹ có thể chọn làm chồng như ý được” Song đến lúc chia tay với bà
bạn đồng hành, kết thúc truyện kể “hai vợ chồng tôi trở về Paris để mỗi người sống một
ngả”
Sáng tạo mới mẻ của Hemingway trong nghệ thuật mỉa mai chính là ở chỗ nhà văn
không chỉ giới hạn nó ở cấp độ từ ngữ, hoặc cao hơn là đoạn mạch, kết cấu của một văn
bản mà sự mỉa mai đã xuất hiện, đôi khi, ở cấp độ liên văn bản nếu đặt những tác phẩm đó
bên cạnh nhau. Chẳng hạn In Our Times, có một kết cấu độc đáo - gồm nhiều đoạn kể
truyện xen kẽ với những “chương” miêu tả hoàn toàn rời rạc, độc lập với nhau. Cái vẻ
ngoài của sự chắp nối tùy tiện ấy có dụng ý. Nó gợi lên tình trạng hỗn mang của thế giới
hiện đại vốn là đề tài của toàn bộ tập văn này. Nói cách khác, sự mỉa mai ở đây toát ra từ
kết cấu của một tập những tác phẩm riêng biệt. Trường hợp truyện “Tuyết trên đỉnh
Kilimanjaro”, sự mỉa mai dừng ở trường hợp kết cấu độc đáo của một văn bản: ở đây, tình
nghĩa giữa một đôi vợ chồng thật “đẹp đôi”, hoà hợp được bộc lộ rõ cái bản chất qua
những lời độc thoại nội tâm (in bằng chữ ngả hoặc không in ngả), xen lẫn với những đối
thoại giữa cặp vợ chồng Hary và Helene. Sự thành thực của những ý nghĩ đang hình thành
trong độc thoại nội tâm của Hary trái với tính chất lịch sự giả tạo của lời đối thoại ở hầu hết
truyện (có lẽ chỉ trừ đoạn đầu, khi Hary tự kiềm chế được, lời đối thoại của anh ta có phần
khớp với độc thoại nội tâm)

Như trên đã nói, ở Hemingway có sự kết hợp của hai loại ngôn ngữ nghệ thuật có
phần khó hoà hợp: mỉa mai và tượng trưng. Bởi lẽ, nếu mỉa mai dựa trên sự tách biệt thì
tượng trưng dựa trên sự đồng nhất. Tuy nhiên hai giọng nói khác nhau ấy đều xuất phát từ
dụng ý của nhà văn đã từng nêu lên : nguyên lí tảng băng trôi. Mỉa mai là sự bộc lộ kín đáo
nhất cũng như tượng trưng là cách gợi lên trong độc giả những ý nghĩ rộng hơn là hình
tượng, là cách mang lại cho nhân vật cụ thể một ý nghĩa trừu tượng, khái quát. Mỉa mai và
tượng trưng là hai thi pháp tương phản nhưng được nhà văn dùng cả hai trong văn chương
rất hài hoà. Cần nhấn mạnh rằng Hemingway không phải là nhà văn của chủ nghĩa tượng
trưng nếu hiểu theo nghĩa ông bác bỏ cái bình thường hàng ngày và biến ngôn ngữ thành
một thứ kì diệu huyền bí, biểu đạt trạng thái tâm hồn như những phút giây “rọi sáng”,
“bừng ngộ”. Ngược lại cái bình thường hàng ngày chiếm một tỉ lệ lớn trong tác phẩm và
cũng là chất lượng của hình tượng : sự dung dị ấy xuất hiện ngay từ lối đặt tên tác phẩm,
đến nỗi khi dịch sang tiếng Pháp hoặc đưa lên màn ảnh, người ta đã cố ý đổi tên tác phẩm
cho hấp dẫn, dễ câu khách hơn. Chẳng hạn “Ông bố tồi” khi dựng phim đổi thành “Người
đẹp Paris”, “Có hay không?” đổi thành “Buôn lậu chốn biển khơi”, “Cuộc hội hè di động”
đổi thành “Paris là một ngày hội” khi dịch sang Pháp ngữ.
Với Hemingway, ông sử dụng tượng trưng như một phương tiện nghệ thuật, nhờ đó
mà mở rộng vóc dáng của hình tượng, tăng thêm tính chất hàm ẩn của ngôn từ, khơi sâu
thêm mạch ngầm của văn bản. Nếu quan niệm “tượng trưng là sự lặp lại một số hình ảnh
cho thêm đậm nét như những chủ âm, hoặc sự hội tụ một số dấu hiệu nào đó, tất cả không
chút mơ hồ, đều qui về một hướng có chủ định” thì biện pháp này khá rõ rệt ở một số tác
165

phẩm của ông . Tên của một số nhân vật của ông có ý nghĩa tượng trưng, như Santiago, lại
còn nhân vật Adam, trung tâm của nhiều truyện, hoá thân của Hemingway, mang tên người
đàn ông đầu tiên do chúa sáng tạo. Hemingway khi sử dụng nghệ thuật tượng trưng có điểm
khác với những nhà văn như Edga Poe, Hotoorne và Menville, khác với những nhà tượng
trưng chủ nghĩa là ở chỗ: hình tượng của ông không phải là những biểu tượng của thế giới
bên trong của những ám ảnh mộng mị mê sảng, mà là một thế giới cụ thể, xuất phát của thể
nghiệm cũng như mục đích hướng tới của nó. Người ta đã lưu ý đến trường hợp truyện:

“Một góc sạch sẽ và sáng sủa”. Nếu vào tay một nhà văn khác, nhất là nhà văn phương
Tây, nó rất dễ sa vào những hoảng lạn về suy tưởng triết lí. Còn ở đây, người ta thấm thía
một cách cụ thể cái trống rỗng, qua tâm trạng ông già đang tới cuối dốc bên kia của cuộc
đời, được nhân lên bội phần bằng hình ảnh người bồi bàn quán café bóng đã ngả dài hơn
người bạn bồi bàn cùng làm việc với ông. Và ta cảm thấy vực thẳm của hư vô, ở thế giới
bên ngoài, mọi vật cũng như trong nội tâm. Nhà văn đã có lúc phải phản ứng với những
người suy luận quá khiên cưỡng về hình tượng của ông. Một biên tập viên của tờ tạp chí
Paris đã suy luận rằng , tất cả truyện The Sun Also Rises (Mặt trời vẫn mọc) chỉ miêu tả một
trận đấu bò tót trong đó nhân vật Robert đóng vai con bò tót, Mick Campel đóng vai người
cầm lao đấu bò, còn Jack là con bò bị hoạn (thiến) trong cuộc đấu (ám chỉ bệnh bất lực của
y). Hemingway đã cho rằng: “Có lẽ tay biên tập viên này đã bị chập mạch ít nhiều khi suy
luận như thế”
Nguyên lí tảng băng trôi đã trở thành một hình ảnh rất đạt để nêu lên yêu cầu đối với
sáng tạo nghệ thuật. Nhà nghiên cứu Ivan Katakin cho rằng đây chẳng phải là nét riêng của
phong cách Hemingway mà từ lâu, các tảng băng vẫn trôi trong đại dương văn chương
nhân loại. Tuy nhiê , cũng như nhiều nghệ sĩ có tài, sáng tạo nghệ thuật của họ đều bắt
nguồn từ những yêu cầu thời sự nóng hổi. Phương pháp “Tảng băng trôi” của Hemingway
là một phản ứng đối với lối văn chương thịnh hành đương thời, với lối làm văn hoa mỹ và lí
tưởng hoá thường xuất hiện khi những thế lực thống trị cần khơi dậy đầu óc hiếu chiến
hoặc sôvanh (sovinism). Không riêng gì ngôn ngữ mà từ toàn bộ tác phẩm, toát lên một vẻ
đặc biệt được gọi là lối viết rời rạc, nhát gừng (Style laconique). Tính chất lắp ghép của kết
cấu truyện đôi khi dập vào mắt của người đọc và khá rõ cả ở kết cấu câu. Câu văn của ông
ít khi liên hệ với nhau bởi những liên từ nhân quả ( bởi vậy, do đó ). Ông hay dùng liên từ
thời gian, chẳng hạn những chỗ đáng dùng “nhưng” thì ông lại dùng “và”. Thậm chí ông có
thể lặp đi lặp lại cảm giác tiếp nối, rời rạc bởi liên từ ấy, hơn là sử dụng những quan hệ phụ
thuộc. Bởi vậy, dù gọi ông là “Camera”, một máy Fax, hay văn điện tín, phóng viên, tất cả
đều hàm ý nói về tính chất rời rạc, lắp ráp trong lối viết của ông. Vẻ rời rạc bên ngoài chứa
đựng sức biểu cảm bên trong : cái nền tâm trạng của những nhân vật, của con người đã
từng hiểu sự bất lực của lời lẽ, đã qua lửa đạn và thấm thía sự hỗn mang của một thế giới
đổ vỡ. Ông là người đồng thời của điện ảnh và tắm trong nhạc Jazz vẫn là âm hưởng sâu

lắng và dư vị buồn bã. Hemingway còn là người của “những xứ sở từng dạy ta vẻ đẹp của
những đôi dép ta, vải thô và sự duyên dáng của tẩu thuốc”
Phương pháp “Tảng băng trôi” còn in dấu rõ nét trên những nhân vật theo kiểu
Hemingway.
Nhân vật của ông gần với thị hiếu của độc giả hiện đại và lối viết tiểu thuyết hiện nay
ở chỗ, đằng sau nó không có một nhà văn biết hết tất cả, một đức chúa phán xử rạch ròi mọi
chuyện. Hậu quả của điều đó là : nhân vật anh hùng không thể đứng cao hơn hoàn cảnh
(như trong tiểu thuyết truyền thống). Họ ít nhiều mù quáng trước những sự kiện ập đến.
166

Manuel là “người không thể chiến bại”, song trong trận đấu bò tót, khi ngước gương mặt
đầy máu lên khán đài “thấy bóng tối từ đó vô số vật đang tuôn xuống”, cho đến cuối cùng,
anh cũng không thể biết được rằng một trong số những nhân vật ấy, cái đệm mà khán giả
ném xuống đầu anh- đã khiến anh vấp phải và khiến anh chết vì nó. Chính vì vậy, người ta
gọi người anh hùng của Hemingway là một kiểu “phản anh hùng”.
Do sự chi phối của nguyên lí “tảng băng trôi”, độc giả của Hemingway, khi gấp
truyện lại rồi vẫn không thể là người thấu hiểu tất cả. Vì sao Andoxan trong truyện “Bọn
giết người” bị hai thằng mặc áo đen định giúp bạn một tay “tìm cách giết y”? vì sao đã
được hai đứa trẻ báo trước mà anh vẫn không tìm cách trốn thoát? Đến một lúc nào đó
trong cuộc sống, nếu ta gặp vài tên gangster ở đâu đó với luật giang hồ của chúng, có thể
hiểu vì sao anh lại không trốn đi. Có thể khi đọc The Champion (Nhà vô địch) hoặc The
Fifty Thousand Dollars lúc ấy ta sẽ hiểu truyện kia hơn.
Tóm lại, văn cảnh giúp độc giả soi sáng truyện của Hemingway. Lí do khiến người
đọc thích hay không thích tác phẩm của ông lại chính là ở chỗ đó: nếu người đọc thiên về
những gì đang ẩn chìm hơn là sáng rõ thì mới thích đọc. Với thế kỉ 20, tiểu thuyết hướng
về sự khêu gợi sự thể nghiệm nhiều hơn là miêu tả hoặc bình luận về điều ấy.
Tiểu thuyết của Hemingway thể hiện một số thành tựu của tiểu thuyết Mỹ hiện đại.
Qua tác phẩm và nhân vật của ông, người ta nói đến tuổi trẻ của nền văn chương Mỹ : “Đột
nhiên ta cảm thấy một sức mạnh do tiếp xúc với đất, với thiên nhiên và có đủ sức mạnh để
chống đỡ cái cơ chế nặng nề của xã hội, của công nghiệp, đi xuyên qua Châu Âu già nua

bằng đá và châu Mỹ bằng sắt”. Mặc dù hầu hết các truyện của Hemingway đều được dựng
trên khung cảnh nước ngoài, ta vẫn thấy qua đó xuất hiện hình ảnh một kiểu người Mỹ hiện
đại.
Sức hấp dẫn của Hemingway trong thế kỉ 20 này, ở thời đại mà có người đã gọi là “
thời đại hồ nghi” chính là do các nguyên nhân trên. Văn chương Hemingway mang lứa tuổi
của nền văn học Mỹ nhưng cũng đại diện cho một chặng đường phát triển của tiểu thuyết
hiện đại nói chung.
Đứng trước hoạt động và sáng tác của Hemingway trong hơn bốn chục năm, nhiều trí
thức châu Âu đã nhìn nhận ông là “Một người Mỹ tiêu biểu”, nghĩa là ông mang tính cách
đại diện cho nhân dân Mỹ. Một tính cách hùng mạnh, ham hoạt động. Trong kí ức những
chiến sĩ Cộng hoà Tây Ban Nha, những chiến sĩ du kích xứ Normandie (Pháp) và những
người dân chài ven biển Cuba, sống mãi hình ảnh Ernest Hemingway, một người Mỹ tiến
bộ vừa cầm súng vừa cầm bút để bênh vực những cuộc đấu tranh chính nghĩa. Nhà phê
bình Leo Lauwa nhận định: Ông cùng chung thế hệ với các nhà văn Mỹ Faulkner, Thomas
Wolfe, Thornton Wilder, thế hệ mang một đặc điểm chung là sự trung thực với bản thân,
trên mỗi con đường không hẹn trước, mỗi người đều có cái nhìn riêng khi đối diện với sự
giàu sang và quyền lực. Và cuối cùng, gạt ra một bên thiên chức và tài năng, còn lại sự
quyết định của họ khi mỗi tác giả giữ niềm tin vào bản thân mình, sự trung thực để phục vụ
nghệ thuật, điều xác định vị trí của họ là một nhà văn và tầm quan trọng là một nghệ sĩ.
Ernest Hemingway mất ngày 2 tháng 7 năm 1961. Nhiều tài liệu viết khác nhau về cái
chết của ông. Ông đã bị tai nạn bất ngờ hay là tự sát bằng súng săn. Cuốn tiểu sử
Hemingway do Jeffrey Meyers viết đã khẳng định rằng ông đã tự sát và bình luận: “Tập
hợp quanh mình biết bao bạn bè, suốt đời đi tìm một người đàn bà lí tưởng, tuy đã 4 lần lấy
vợ nhưng Hemingway vẫn đơn độc ( ) là con người thích phiêu lưu trong cuộc sống, là
167

con người chiến đấu chống mọi nỗi sầu muộn, đồng thời ông cũng là thiên thần thượng
đẳng của sự tuyệt vọng, bị dằn vặt bởi ý niệm về sự thất bại”. Có phải ông đã chủ động đi
tìm cái chết như cha ông đã chết năm 1928? Theo Meyers, “từ một nhà văn tài năng ở
những bước đầu, Hemingway đã không chịu đựng nỗi thất bại. Là nạn nhân của chính sự

thành công của bản thân-nạn nhân của chính số phận mình, để đi tới kết cục bị thành công
đó lừa dối. Chính vào lúc đó Hemingway bị cuộc sống phá huỷ”
Quan điểm của Meyers chỉ nhằm khuếch đại mặt tiêu cực và sự bế tắc của nhà văn
hiện thực Hemingway để cố tình hạ thấp sự nghiệp sáng tạo của ông. Sự nghiệp sáng tác và
tính cách ổn định của nhà văn vốn đã trải qua nhiều thử thách cho phép chúng ta nghi ngờ
lời bình luận của Meyers. Thật ra bất cứ nhà văn hiện thực nào cũng chất chứa mâu thuẫn
dai dẳng về tư tưởng. Biến cố cách mạng của thời đại và nỗ lực chủ quan của nhà văn đã
tạo điều kiện cho họ tiếp cận với lí tưởng hiện thực. Tính cách ổn định của Hemingway là
tình cảm yêu đời, lí tính sáng suốt, hoạt động hăng say trong mọi lĩnh vực. Hemingway là
một nhân cách hùng mạnh có thể chiến thắng được những giờ khắc tuyệt vọng của bản
thân.
“Viết một áng văn xuôi đơn giản trung thực về con người”. Điều đó Hemingway đã
thực hiện được cho đến khi ông từ giã cõi đời. Và Hemingway đã vượt ra ngoài ý định viết
về “một thế hệ vứt đi”. Cho tới nay, ông vẫn thuộc về “một thế hệ đang tiếp đến”.

Hướng dẫn học tập
Tác phẩm “Giã từ vũ khí”
 Ghi nhớ chủ yếu (tóm tắt)
Phô bày hiện thực tàn nhẫn của chiến tranh thế giới I
Chống lại những luận điệu tuyên truyền cho chiến tranh của những nước tham chiến
Đối lập với cái phi lí của chiến tranh, của những quan hệ cách biệt, xa lạ giữa người và
người, Hemingway đưa ra tình bạn, tình hữu ái giữa những người cùng chia sẻ đắng cay và
vinh quang vô ích dưới chiến hào của Đại chiến I, và trình bày tình yêu của một lứa đôi
Romeo Juliet hiện đại. Bởi thế chẳng những Hemingway gợi lên bao âm vang ở nhiều nhà
văn trẻ Mỹ cùng thế hệ mà dường như vẫn có một mạch nối giữa ông với nhiều nhà văn
khác sau Đại chiến I như: M. Remaque ở Đức
Henry là một kiểu nhân vật mới, chẳng phải anh hùng. Bởi vì chiến tranh phi nghĩa không
thể sinh ra anh hùng…Bạn đọc, theo quán tính, mong chờ một nhân vật anh hùng (hero)
như đã từng gặp trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của G.Wasinhton hồi dựng nước
hoặc các nhân vật trong “Gone with the wind” (Cuốn theo chiều gió)… Bất ngờ, nhà văn

Hemingway giới thiệu một kiểu nhân vật chính mới- nhân vật “phản anh hùng”. (Hero có
hai nghĩa: anh hùng, nhân vật chính). Đây là đóng góp mới rất quan trọng của nhà văn cho
nền văn học Mỹ.
 Yêu cầu nghiên cứu
1. So sánh giữa trường độ của văn bản (rất nhiều trang sách) với trường độ tồn tại ngắn
ngủi của nhân vật ta thấy một độ lệch rất lớn. Hãy thảo luận, chỉ ra thời gian nghệ thuật
của tiểu thuyết này.
168

2. Đọc và so sánh motif nhân vật Kiên và Phương (Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh) với
Henry và Catherine (Giã từ vũ khí). Tuy nhiên cần chỉ ra bản chất hai cuộc chiến tranh khác
nhau, do đó cần thấy tư tưởng nghệ thuật khác nhau của hai nhà văn (không đồng nhất hai
tác phẩm).
3. SV cần so sánh với cả nhân vật Grigory Melekhov trong tiểu thuyết sử thi Sông Đông êm
đềm của nhà văn Nga Mikhail Sholokhov.

Tác phẩm “Chuông nghuyện hồn ai”
 Ghi nhớ chủ yếu (tóm tắt)
Năm 1940 “Chuông nguyện hồn ai” ra đời vốn đã được nung nấu trong khi tham gia chiến
đấu ở Tây Ban Nha. Trong cuốn này, nhân vật chính Robert Jordan vẫn giống như một
bóng hình, một phân thân (an alterego) của Hemingway trong một chặng đường mới - một
con người nhập cuộc, theo một ý nghĩa tích cực, dù nét này đã tiềm tàng trong Frederic
Henry của “Giã từ vũ khí”.
Đây là lúc nhân vật Robert Jordan hiện lên hoàn chỉnh kiểu nhân vật mới -“nhân vật phản
anh hùng”.
Tiểu thuyết phản ánh cuộc đấu tranh anh dũng của nhân dân Tây Ban Nha chống bọn
phátxít Franco để bảo vệ chế độ cộng hoà trong giai đoạn sắp nổ ra đại chiến thế giới II.
Nước Mỹ và Đồng minh được coi như lực lượng chính nghĩa (Bối cảnh này khác hẳn với
bối cảnh chiến tranh thế giới I- nước Mỹ tham chiến như một thực dân tìm kiếm lợi ích
ngoài nước…)

+ Nghệ thuật xây dựng nhân vật
+ Nghệ thuật đối thoại và độc thoại vô cùng hàm súc của Hemingway còn là biện pháp
xây dựng nhân vật
 Yêu cầu /Chỉ dẫn khác
1. SV cần xem lại chương “Lí tưởng và Nhân vật lí tưởng” trong giáo trình Mĩ học
đại cương làm cơ sở lí luận phân tích nhân vật “lí tưởng” của Hemingway. Dẫn
tới í kiến thời đại nào có nhân vật chính của thới đại đó, không thể gượng ep cho
ra nhân vật anh hùng lí tưởng đã định trước.
2. SV tìn hiểu các đối thoại và độc thoại trong đoạn văn sau:
“Hãy nghĩ tới những người đã đi xa rồi- anh nói. Nghĩ là họ đang băng qua rừng.
Nghĩ tới họ đang đi qua suối. Nghĩ tới họ trên mình ngựa, trong rừng dày. Nghĩ tới họ đang
lên dốc núi ( ). Hãy nghĩ tới Montana: Ta chẳng làm nổi. Nghĩ tới Marid: Ta chẳng làm
nổi. Hãy nghĩ tới một cốc nước mát. Được lắm. Cứ thế. Như một cốc nước mát. Mày là
thằng nói dối. Điều đó chẳng có nghĩa gì. Thế thì làm đi ”
Anh đối thoại với ai qua từng câu khác nhau ?

×