Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Giáo trình văn học phương tây III - 4 pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (356.83 KB, 24 trang )

94

1.4. Louis Aragon nhà thơ nhà văn cộng sản Pháp
(1897 - 1982)
1.4.1.Tiểu sử
Cuộc đời và con đường sáng tác của Aragon là cả một chuỗi dài băn khoăn day dứt tìm
hiểu sự thật: sự thật về bản thân mình, sự thật về thế giới xung quanh, trước bao hiện tượng
vô cùng phức tạp xuất hiện trên mỗi bước đường đi. "Tôi biết được điều gì đều từ kinh
nghiệm xương máu mà ra - ông viết - không có một niềm tin chắc nào đến với tôi mà chẳng
phải qua con đường hoài nghi, lo âu, mò mẫm, đau đớn của từng trải".
Ánh sáng của niềm tin
Louis Aragon (3.10.1897 - 24. 12.1982) từng đau khổ về gốc gác mờ ám của bản thân
mình. Ông sinh ở Pari là con hoang của Marguerite mà lúc nhỏ ông cứ tưởng là chị cả.
Louis Andrieux, cha đẻ của Aragon, trốn tránh nhiệm, không thừa nhận vợ con. Marguerite
do hoàn cảnh nào đấy cũng đành chịu mang tiếng, không dám công khai lãnh trách nhiệm
của người mẹ. Mãi đến 1917, khi Aragon đã có lệnh gọi nhập ngũ, mẹ ông mới cho ông
biết một phần sự thật. Tới mùa xuân 1942, bà con cho ông biết thêm sự thật trước khi từ giã
cõi đời. Những băn khoăn về lai lịch của bản thân để lại không ít dấu vết trong các tác
phẩm của ông rải rác từ thời thanh niên đến lúc về già.
Aragon đang học y khoa năm thứ nhất thì bị động viên vào lính ngày 20.6. 1917 khi đại
chiến I ở vào giai đoạn quyết liệt. Tháng sáu năm 1919, ông giải ngũ về tiếp tục học dở
dang. Mấy năm tại ngũ đánh dấu bước ngoặt quan trọng đầu tiên trong đời ông. Ông thuộc
thế hệ thanh niên lớn lên đúng vào những năm tháng hãi hùng của chiến tranh đế quốc. Là
một người lính Pháp, ông làm tròn nghĩa vụ đối với đất nước, nhưng đồng thời cũng mơ hồ
cảm thấy tính chất phi lí của cuộc chiến tranh này và bao điều ngang trái khác hằng ngày
diễn ra trong xã hội, tiếng súng im lặng rồi nhưng sự khủng hoảng tinh thần chỉ càng trầm
trọng thêm bám riết lấy thế hệ thanh niên chán chường, từ mặt trận trở về. Đó là những kẻ
"chết ở tuổi hai mươi". Vấn đề "tìm đường” trở nên bức thiết với họ. Aragon đến với chủ
nghĩa đađa, trào lưu văn học do Tristan Tzara cùng một số tri thức khác lập ra năm 1916,
thể hiện sự nổi loạn vô chính phủ đối với trật tự tư sản và chiến tranh đế quốc. "Sự nổi loạn
của tôi - Aragon viết - chống lại thế giới bao quanh tôi hoàn toàn tất nhiên tìm thấy trong đa


đa mạch rẽ đầy đủ của nó".
Cũng tinh thần nổi loạn trên đã khiến ông quyết định dứt khoát rời bỏ ngành y đẩu năm
1922. Tuy nhiên,tiếp thu tinh thần "nổi loạn" của đa đa mà không tán thành thái độ phủ
nhận cực đoan, ông sớm nhận thấy cái hạn chế của phong trào. Tháng Năm 1921, ông cùng
một số bạn thân đoạn tuyệt với đa đa để tìm hướng đi mới. Aragon chuyển sang chủ nghĩa
siêu thực do A. Breton nắm ngọn cờ đầu. Trào lưu này không chủ trương thái độ hư vô chủ
nghĩa cực đoan như đa đa, mà đối lập với "hiện thực" tư sản bằng cách đi tìm miền đất hứa
trong cái "siêu thực".
Tuy cố gắng vượt qua đa đa, nhưng chủ nghĩa siêu thực vẫn bộc lộ rõ rệt những hạn chế
và mâu thuẫn. Câc nhà siêu thực cho rằng phong trào của học có tính chất cách mạng,
95

nhưng thực ra đấy chỉ là sự nổi loạn tinh thần và được biểu hiện chủ yếu ở trong lĩnh vực
thơ ca. Vì vậy, ngay từ buổi đầu, người ta đã nhận thấy có một khoảng cách nhất định giữa
Aragon với nhóm siêu thực và thái độ có phần nào dè dặt của ông khi tham gia phong trào.
Sự rạn nứt trong quan hệ giữa ông với Brơtong chớm xuất hiện từ mùa thu 1922 và sang
những năm sau càng rõ nét.
Ngày 6.1.1927, chẳng hỏi ý kiến ai trong nhóm siêu thực, Aragon viết đơn gia
nhập Đảng Cộng Sản Pháp. Ông là người thứ hai trong nhóm đi đến quyết định này sau
P.Eluard vào Đảng Cộng sản trước đó bốn tháng. Đối với Aragon việc gia nhập Đảng Cộng
sản Pháp thời kỳ này là một quyết định quan trọng.
Một sự kiện khác không kém phần có ý nghĩa đối với diễn biến tư tưởng Aragon là cuối
năm 1928 ông gặp Elsa Triolet (1896 - 1970), người phụ nữ Nga gốc do thái sang định cư ở
Pháp và là nhà tiểu thuyết Pháp. Sau cuộc gặp gỡ ấy, Enxa trở thành người bạn đời của ông.
Chính Enxa đã đưa ông đến quê hương của Cách mạng tháng Mười lần đầu tiên cuối năm
1930; nhân chuyến đi này ông được mời tham dự đại hội quốc tế các nhà văn cách mạng tổ
chức tại Kharkop gồm 80 đại biểu của 22 nước. Aragon viết trong vì một chủ nghĩa hiện
thực xã hội chủ nghĩa (1935): "Tôi ở Liên Xô về và không còn là ngưởi như trước nữa…
Từ nay trở đi không thể xem xét sự tiến triển của chủ nghĩa siêu thực ngoài sự tiến triển của
giai cấp vô sản, và người ta cũng có thể xem bước chuyển của các nhà Siêu thực sang phía

giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh cách mạng của nó như việc đã rồi".
Từ sự nổi loạn cá nhân vô chính phủ, ông đến với cách mạng vô sản. Từ chủ nghĩa đa đa
và chủ nghĩa siêu thực, ông chuyển sang chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Diến biến
của tình hình thế giới những năm 30 vô cùng phức tạp. Hitle lên cầm quyền ở Đức. Nguy
cơ của một cuộc chiến tranh thế giới ngày càng tỏ ra không thể nào tránh khỏi. Trong hoàn
cảnh ấy, Aragon đã tham gia hoạt động sôi nổi trên mặt trận báo chí với tinh thần nhập
cuộc (Các tờ Văn học quốc tế, Nhân đạo, Công xã chiều nay …).
Ngày 3. 9.1939, Anh và Pháp tuyên chiến vói Đức. Cùng ngày Aragon được lệnh nhập
ngũ lần thứ hai. Mấy tuần sau Đảng cộng sản Pháp bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Rồi nước
Pháp thua trận, dẫn đến kết cục bi đát bị Đức chiếm đóng vào năm 1941. Aragon được giải
ngũ từ tháng Bẩy năm 1940 . Sau đó ít lâu hai vợ chồng ông bắt được liên lạc với tổ chức
Đảng Cộng sản ở Nice đang hoạt động bí mật để tham gia vào cuộc kháng chiến chống phát
xít Đức cho đến ngày giải phóng được hoàn toàn. Những năm tham gia kháng chiến có một
ý nghĩa đặc biệt đối với bước đường tư tưởng và nghệ thuật của ông. Ánh sáng của niểm tin
đã đưa ông đến với chân lí của chủ nghĩa xã khoa học. Bây giờ chân lý ấy được biểu hiện ở
kích thước mới: kích thước dân tộc.
Một trái tim chân thành
Aragon đã từng dấn thân trên những chặng đường đau khổ trong quá trình đi tìm lẽ sống
và đã tìm thấy. Tâm hồn lạc quan, tiếng thơ hào hùng và ngòi bút sảng khoái của ông vươn
lên cao nhất vào giai đoạn kết thúc Đại Chiến II và mấy năm tiếp theo. Sau năm 1950, tình
hình quốc tế diễn biến phức tạp, tâm hồn ông có phần nào nắng xuống, nhiều khi trải qua
những cơn dằn vặt đấu tranh với mọi người và cả với bản thân mình để giữ vững niềm tin.
96

Trong kháng chiến chống Đức, Đảng Cộng sản Pháp đứng ở tuyến đầu, uy tín lên cao,
nên sau khi chiến tranh giành kết thúc, Đảng luôn giành được nhiểu phiếu trong các cuộc
bầu cửtừ tháng Mười năm 1945 đến tháng Mười năm 1946 và tham gia rộng rãi vào chính
phủ. Nhưng chỉ it lâu sau dưới áp lực của cánh hữu, các bộ trưởng cộng sản lại buộc phải
rút lui vào tháng năm 1947. Khối thống nhất dân tộc gắn bó trong thời kháng chiến không
còn. Trên phạm vi quốc tế, khối liên minh phát xít trong Đại chiến II giữa Liên Xô và các

nước Phượng Tây cũng tan vỡ dẫn đến cuộc chiến tranh lạnh bắt đầu từ 1948. Rồi khối
NaTo được thành lập (1949) , mĩ vũ trang lại Tây Đức (1950), đem quân vào Triều Tiên (
1950) trong khi Pháp còn đang sa lầy ở Đông Dương. Đây cũng là thời kỳ trên lĩnh vực văn
hóa văn nghệ, nhiều trào lưu sáng tác đủ mọi khuynh hướng phức tạp xuất hiện lấn át các
dòng văn học hiện thực và hiện thực xã hội ở phương Tây.
Trong hoàn cảnh ấy, Aragon lại được giao trách nhiệm nặng nề được bầu làm uỷ viên
dự khuyết BCHTƯ Đảng Cộng sản Pháp mùa xuân 1950 và đến 1954 thì trở thành uỷ viên
chính thức. Những năm tiếp theo, bao nhiêu sự kiện nữa xảy ra khiến ông phải băn khoăn
suy nghĩ: ĐCS Liên Xô kiểm điểm những sai lầm mắc phải dưới thời Xtalin; những vụ lộn
xộn xảy ra ở một số nước Đông Âu; những cuộc tranh luận xung quanh các tác phẩm của
Đuđinsep, Paxternac, Sôlôkhôp…
Thời gian này, ta thấy ở Aragon những biểu hiện muốn duyệt lại quãng đời đã qua
và tự vấn lương tâm. Tập thơ Cuốn tiểu thuyết chưa hoàn thành (1956) là một bằng chứng.
Ông điều chỉnh lại thái độ có phần nào cực đoan của ông trước kia cho nhuần nhuyễn và
công bằng hơn.
Bên cạnh quá khứ là hiện tại nóng bỏng buộc Aragon, một con người “dấn thân đến
cùng”, hơn nữa với cương vị của mình, phải tỏ thái độ. Trái tim ông rỏ máu khi nghe
những tin không vui ở các nước xã hội chủ nghĩa, chẳng hạn như năm 1956, ông can thiệp
với chính phủ Hungari xin ân xá cho hai nhà văn bị kết án tử hình sau vụ bạo loạn….
Aragon hành động căn cứ chủ yếu vào truyền thống nhân đạo và tự do của nước Pháp,
đôi khi không thấy hết tính chất phức tạp của tình hình. Nhưng trước sau ông vẫn luôn bộc
lộ một trái tim chân thành gắn bó đời mình với sự nghiệp của cách mạng, ngay cả khi lòng
mình bị giằng xé dữ dội. Ông đã hoạt động đến hơi thở cuối cùng cho sự nghiệp của Chủ
nghĩa xã hội.
Không thể nói đến cuộc đời trăn trở của Aragon tách rời tác phẩm. Thậm chí có thể nói
trong trường hợp của ông, tác phẩm là tất cả. Cuộc sống bao la, những chuyện riêng tư,
diễn biến tư tưởng, sướng vui, đau khổ, tình yêu, căm giận…bày cả ra đấy vì ít có nhà văn
nào cuộc đời và tác phẩm, người chiến sĩ và người nghệ sĩ lại quyện chặt vào nhau đến thế.
97


1.4.2. Thơ ca
Aragon sáng tác rất nhiều thơ. Có thế kể các tập:
Lửa vui (1920), Hoan hô Uran (1934), Nát lòng (1941), Đôi mắt Enxa
(1942), Lại nát lòng (1948), Đôi mắt và trí nhớ (1951)
Cuốn tiểu thuyết chưa hoàn thành (1956), Enxa (1959)
Các nhà thơ (1960), Anh chàng say đắm Enxa (1963)
Trong nền thơ ca Pháp thế kỉ này và giai đoạn sau Đại chiến II không thiếu các nhà thơ
có tên tuổi và những ngôi sao sáng trên thi đàn, nhưng thơ Aragon vẫn giữ được vẻ độc đáo
với nội dung riêng biệt và những sáng tạo nghệ thuật của mình.
Aragon bước vào sự nghiệp thơ ca bằng con đường của chủ nghĩa đađa và chủ nghĩa
siêu thực chất chứa tâm trạng chán chường, u uất, hằn học với những vần thơ giống như
tiếng cười nhạo, cười gằn, rồi cái cười chuyển thành méo xệch, chua chát, đau đớn khi nhà
thơ cảm thấy mọi thứ trên đời đều là giả dối, kể cả tình yêu. Ông muốn phỉ nhổ, phá phách,
huỷ hoại sạch trơn.
Tiếng reo vui thực sự đến với Aragon từ đầu những năm 30 trong các tập Kẻ hành hạ
người bị hành hạ, Hoan hô Uran, khi nhà thơ rời bỏ mây mù để trở về với “thế giới thực
tại”, từ bỏ chủ nghĩa siêu thực để đến với chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Đại chiến II
nổ ra, nước Pháp bị phát xít Đức chiếm đóng. Một âm điệu mới toát lên trong thơ ông,
âm điệu “nát lòng” bao trùm nhiều tập thơ ông sáng tác thời kì này chứ không chỉ riêng tập
có nhan đề Nát lòng nổi tiếng.
Là người Pháp, ông không thể thờ ơ với vận mệnh đất nước bị quân thù giày xéo; là
người cộng sản, ông chống lại cuộc chiến tranh đế quốc phi nghĩa. Các khía cạnh ấy khi
tách ra hai, khi hòa làm một, tạo nên sắc thái riêng của thơ ông thời kì này. Mặt khác, từ
chỗ quanh quẩn với chốn ốc đảo cá nhân của thời kì đađa và siêu thực, thơ ông đã vượt ra
ngoài giới hạn của “cái tôi” riêng tư để thực hiện quá trình “hướng ngoại” mở tâm hồn ra
thế giới chung quanh trong mấy tập thơ đầu những năm 30. Nhưng rồi có lẽ ông cảm thấy
thơ ông còn hời hợt, thiếu chiều sâu cần thiết, nặng về ghi chép; quá trình “hướng ngoại”
còn cần phải được bổ sung bằng giai đoạn “hướng nội” để cho thực tế khách quan ngấm
vào tâm tư, tình cảm, chuyển thành những rung động thơ ca sâu lắng.
Sau bảy năm trời im ắng, thơ ông đã mang một chất lượng mới khi lại vang lên vào năm

1941, bắt đầu bằng tập Nát lòng. Vẫn là những vấn đề thời sự nóng bỏng đối với mỗi người
và bản thân nhà thơ, nhưng tất cả đều đã được chuyển hoá vào thế giới nội tâm thành buồn
vui, lo lắng, yêu thương, căm thù…cất lên thành lời thơ từ một trái tim chân thành và nhạy
cảm. Trước hết, trái tim ấy đã rỏ máu, tiếng thơ đau đớn não lòng. Những vần thơ buồn của
Aragon trong bài Hai mười năm sau dễ thấm sâu vào lòng người và có tác động phản
chiến.
Trong những bài thơ tiếp sau Hai mươi năm sau, thơ Aragon vẫn giữ nguyên âm điệu
trên, lòng yêu nước toát lên không phải ở những lời thơ hào hùng đanh thép, mà vẫn là nỗi
đau “nát lòng”
98

Nước Pháp dưới chân ta như tấm vải sờn
Cứ dần dần chối từ không cho ta bước
Đó là hai câu mở đầu bài Đêm Đoongkec in trong tập Đôi mắt Enxa
Hoa lila và hoa hồng là một trong những bài thơ hay nhất của tập Nát lòng và của thơ
kháng chiến Aragon nói chung, bài thơ gợi lại những kỉ niệm đã qua gắn với hoa hồng và
hoa lila, mà bây giờ tất cả đều không còn nữa trước cảnh sụp đổ của đất nước.
Những vần thơ “nát lòng” của Aragon rung lên tự đáy tim ông, ông viết cho ông, với
nhu cầu thổ lộ, nhưng chính vì thế mà chúng có sức truyền cảm mạnh mẽ đến các bạn đọc
là những đồng bào của ông, những người cũng như ông không thể không đau xót trước họa
mất nước. Nhiều người đã không cấm được nước mắt khi đọc đến câu “Giữa nước Pháp ta
trở thành khách lạ” (Những đóa hoa hồng Nôen), hay “Tin chiều nay Pari thất thủ” (Hoa
lila và hoa hồng), một câu thơ vô cùng bình dị mà có sức lay động lạ thường.
Tất nhiên, “nát lòng” không phải là âm điệu duy nhất của thơ ca kháng chiến Aragon.
Ta cũng bắt gặp cả âm điệu nổi giận, tuy không nhiều, phù hợp với bí danh Frăngxoa Nổi
giận. Cũng có cả một số bài hừng hực khí thế, kêu gọi chiến đấu chống giặc ngoại xâm
(Hành khúc, Vinh quang…)
Xét về một phương diện khác, các màu sắc thơ Aragon thời kì này còn phụ thuộc vào
những phương thức ra đời không giống nhau. Trong hoàn cảnh đất nước bị chiếm đóng,
hoạt động sáng tác thơ ca kháng chiến có khi công khai đăng trên báo chí hợp pháp, có khi

tiến hành theo phương thức bí mật. Đối với bộ phận thơ ca xuất bản tự do, bất hợp pháp,
không bị hệ thống kiểm duyệt trói buộc, nhà thơ có thê bộc lộ thẳng thắn nỗi căm giận
cháy bỏng và lòng yêu nước thiết tha. Đối với bộ phận thơ ca hợp pháp, Aragon khai thác
triệt để đặc điểm mập mờ, người Pháp yêu nước đọc thì hiểu ý nghĩa sâu xa, còn bọn Đức
và lũ tay sai nhiều khi không để ý. Ta gọi đó là phương pháp “lậu thuế” được trình bày
trong tiểu luận quan trọng Bài học Ribêrăc.
Đẹp hơn nước mắt cũng là một trong những bài hay nhất, gồm 32 khổ thơ thuộc bộ
phận thơ ca kháng chiến của Aragon. Khi bài thơ được đăng báo, có những người thuộc
khuynh hướng cực tả đã lên án Aragon là một kẻ phản bội. Thực ra đây cũng là một bài thơ
“lậu thuế” lợi dụng con đường báo chí hợp pháp để tuyên truyền yêu nước.
Trường hợp bài Hoa hồng và hoa trắng cũng khá tiêu biểu. Một bài thơ kháng chiến
hay của Aragon gồm những câu thơ ngắn bảy âm tiết, kết thúc bằng câu “Và hoa hồng hoa
trắng như nhau” kêu gọi mọi người đoàn kết chống giặc cứu nước. Năm 1964, bài thơ được
ngâm tại điện Invalides nhân dịp kỉ niệm 20 năm ngày giải phóng. Thế nhưng bài thơ ra
mắt lần đầu là ở Macxây, trên một tờ báo hằng ngày xuất bản hợp pháp, mà bọn mật thám
Đức và lũ tay sai không đánh hơi thấy được điều gì, vì ý tưởng trong bài thơ được diễn tả
khá kín đáo.
Đối với Aragon, không thể có sự phân biệt rành mạch giữa thơ yêu nước và thơ tình cũng
như không thể tách biệt Aragon nhà thơ chiến sĩ với Aragon nhà thơ trữ tình. Không có gì
99

lạ khi một tập thơ kháng chiến của Aragon xuất bản năm 1942 đang thời kì chiến đấu gay
go lại có nhan đề Đôi mắt Enxa.
Aragon gia nhập Đảng Cộng sản Pháp năm 1927 trước khi quen biết Enxa. Nhưng ta
hoàn toàn có cơ sở để nói rằng Aragon nhà thơ chiến sĩ và Aragon ca sĩ tình yêu xuất hiện
cùng một lúc vào buổi tối đầu tháng Mười một 1928 khi lần đầu tiên ông gặp Enxa. Thật
vậy, ít có mấy ai như Aragon xem việc gặp gỡ người bạn đời của mình như một cuộc tái
sinh với đầy đủ ý nghịa của từ này. Tứ thơ ấy xuất hiện rất đậm nét trong tập Cuốn tiểu
thuyết chưa hoàn thành xuất bản sau gần ba mươi năm chung sống với Enxa. Tập thơ chia
làm ba phần thì hai phần đầu bao gồm những bài thơ nhớ lại quãng thời gian khi đời ông

chưa có Enxa, những năm tháng vật vờ, nhợt nhạt, buồn tênh, cô đơn giữa bạn bè, chán
chường trong tình ái, nổi loạn nhưng tuyệt vọng, có sống mà như không.
Tôi đã gặp ở trên Cầu Mới
Bóng hình xưa của bản thân tôi
Đôi mắt dành cho lệ tuôn rơi
Đôi mắt dành cho lời nguyền rủa
Đó là những câu thơ không có nhan đề mở đầu tập thơ, nhà thơ phân thân thành hai con
người của hiện tại và quá khứ, gặp gỡ nhau trên cầu và có lúc cùng nhau trò chuyện. Ấn
tượng sâu sắc toát lên từ bài thơ là hình bóng hư ảo của Aragon những ngày ấy. Aragon
dường như không tồn tại lúc chưa gặp Enxa: “Tôi đã gặp ở trên Cầu Mới – Có vẻ như trước
lúc ra đời…”
Cảm giác về sự tái sinh từ ngày gặp Enxa khởi nguồn từ đấy và sẽ trở thành cảm hứng
chủ đạo của bài Tình yêu không chỉ một từ suông thuộc phần thứ ba của Cuốn tiểu thuyết
chưa hoàn thành. Một bài thơ dài gồm sáu phần tách biệt, với lối thơ thay đổi linh hoạt
từng phần theo nhịp cảm xúc của nhà thơ. Ngay mới vào bài, tác giả đã nói lên nỗi bàng
hoàng khi gặp Enxa. Ông ví Enxa như thứ rượu nồng mà êm, như ánh sáng rọi vào cửa sổ.
Ông ví đời ông như một trái cây, bị sâu ăn ba mươi năm một nửa, còn nửa kia ít nhất ba
mươi năm nữa, ông trả cho Enxa để cắm ngập răng vào
Ngày gặp em mới thật có đời anh
Em đã chặn lối điên cuồng thê thảm
Em đã chỉ cho anh vùng tươi thắm
Chỉ nảy mầm khi ý tốt gieo lên
Và ở ngay khổ thơ tiếp theo, ý “tái sinh” lại xuất hiện:
Anh quả thật đã sinh từ môi ấy
Cuộc đời anh khởi sự tự em đây
để rồi còn được nhắc đi nhắc lại nhiều lần nữa với những dạng khác nhau cho đến cuối
bài.
Và tim tôi đã chết
Tái sinh trong làn hương
100


Bóng đêm thơm ngào ngạt…
…Chuyện sinh nở này bạn kể ngọn ngành cho rõ
Chuyện một kẻ ra đời ở độ tuổi trung niên
Tình yêu Enxa chiếm vị trí đặc biệt như vậy trong cuộc đời Aragon nên rất dễ hiểu tại
sao Enxa lại đi vào thơ ông đậm nét đến thế, tuy chậm và mới đầu thưa thớt, nhưng càng về
sau càng phong phú như hoa xuân.
Bao nhiêu thơ cũng không đủ để ca hát mối tình ấy: “Tình yêu không phải chỉ một từ
suông”
Mọi sự ví von xem ra đều vô ích
Bạn có thể thiêu cháy hết tiếng này tiếng khác
Mà không sao giải thích lửa là gì.
Không phải ngẫu nhiên, từ sau Đại chiến II, thơ Aragon lại dành cho Enxa nhiều đến thế,
với vị trí đặc biệt đến thế. Các nhà nghiên cứu nói đến bộ phận sáng tác liên hoàn về Enxa
trong thơ Aragon và đưa vào danh mục này gần như toàn bộ các tập thơ của ông sau bộ
phận thơ ca kháng chiến. Theo G. Sadoul, có thể nói Aragon đã viết “cuốn tiểu thuyết về
Enxa” với khái niệm tiểu thuyết xưa như định nghĩa trong từ điển: “Truyện có thật hoặc
bịa, viết bằng văn vần hay văn xuôi” (Littré). Cuốn tiểu thuyết chia thành nhiều “khúc ca”
và mỗi khúc ca là một tập thơ kể trên.
Đôi mắt và trí nhớ là khúc ca đầu tiên của “cuốn tiểu thuyết” ấy, gồm 15 bài thơ dài với
nhiều chủ đề khác nhau, trong đó Enxa luôn được nhắc đến. Tập thơ đề tặng cho “tác giả
của Con ngựa hung” tức là Enxa.
Cuốn tiểu thuyết chưa hoàn thành có thể xem là khúc ca thứ hai, với hơn bốn ngàn câu
thơ, “một tác phẩm loại hay nhất của thơ ca châu Âu thế kỉ XX”. Tập thơ mang dáng dấp tự
truyện nhưng không dàn trải, mà hầu như chỉ cốt làm nổi bật lên qua từng bài, những thay
đổi của đời ông nhờ có Enxa.
Khúc ca tiếp theo, là Các nhà thơ, một phần của tập thơ này có tiêu đề Enxa bước vào
trong thơ, kết thúc bằng hai câu:
Và cuộc đời tôi rút cục
Tóm lại ở tên nàng Enxa

Enxa trở thành nhan đề cho khúc ca thứ tư, tập Enxa. Tiếp đó là Anh chàng say đắm
Enxa, khúc ca thứ năm, đồ sộ nhất. Với trên bốn trăm trang khổ lớn, Anh chàng say đắm
Enxa thuộc vào số những tác phẩm dài nhất của thơ ca Pháp, vừa là thơ, vừa là tiểu thuyết,
vừa là “triết học bằng hình ảnh”.
Những đặc điểm nghệ thuật của thơ Aragon phát huy thế mạnh của chúng trong “vườn
thơ Enxa”. Thơ ông không có các loại dấu chấm câu, tuy đây chẳng phải là nét sáng tạo
của riêng ông, mà trước đó ta đã bắt gặp ở Apôline. Theo Aragon, dấu chấm câu dẫn đến
cách đọc theo câu cú (phrase) mà không theo cách ngắt của câu thơ (vers); vì vậy “câu thơ
101

có gieo vần bị huỷ hoại nếu khi đọc không dừng lại ở cuối dòng”. Những vần thơ không
dấu chấm câu buộc người ta phải đọc theo cách của Aragon chẳng phải không có tác dụng
đáng kể diễn tả các sắc thái tình cảm với tất cả tâm hồn của ông trong lĩnh vực thơ tình.
Cùng với vần thơ là nhịp điệu được ông khai thác triệt để. Trên cơ sở giữ vững nhịp
điệu, ông đã mở rộng khả năng của thơ biểu hiện những diễn biến tâm trạng phong phú
nhất của tình yêu bằng cách vận dụng xen kẽ rất nhiều thể thơ khác nhau, đồng thời phát
triển câu thơ dài ra chưa từng thấy, tới hai mươi âm tiết, thậm chí dài nữa, dài mãi thành
…hàng trang văn xuôi. Theo Aragon “không có sự khác biệt cơ bản giữa văn xuôi và thơ
cũng như không có sự khác nhau cơ bản giữa bài thơ và tiểu thuyết”
Aragon là người có tài hùng biện. Đặc điểm ấy để lại dấu vết rất rõ trong thơ, tạo nên
sắc thái riêng. Ta gặp nhan nhản trong thơ ông biện pháp tu từ láy đi láy lại để nhấn mạnh
một tình cảm hay cảm xúc nào đấy, không chỉ riêng ở bộ phận thơ tình. Thể thức láy rất đa
dạng và linh hoạt. Một câu có thể được láy lại nhiều lần trong bài cách quãng nhau. Câu “Ở
nghĩa địa Ivry” trong bài Dã sử về Garbrien Pêri lặp lại chín lần ở đầu các khổ thơ lẻ, nếu
tính cả câu đầu tiên hơi khác một chút’ câu “Bóng ma bóng ma bóng ma” lặp lại tới ba
mươi lần trong Bảo tàng Grêvanh. Hai câu láy có thể bố trí sát nhau như trường hợp mở
đầu của bài Vinh quang:
Những kẻ không muốn bán mình
Những kẻ không muốn bán mình
Có khi chỉ láy lại vài từ ở những câu khác nhau như ở đoạn cuối của Bảo tàng

Grêvanh:
Ta chào nước Pháp mắt bồ câu
Ta chào nước Pháp gió im hơi
Ta chào nước Pháp cánh con chim
Ta chào nước Pháp với nhân dân
Hiện tượng láy nhiều lần một từ sát bên nhau rất phổ biến. Có trường hợp khá độc đáo
như câu cuối cùng của Bài ca hai mươi bẩy người bị cực hình chỉ là một từ “xanh” (bleus)
lặp lại tám lần.
Tất nhiên , Aragon không bỏ qua biện pháp tu từ kể trên trong những vần thơ về Enxa,
và ở đây giá trị hùng biện được chuyển hoá thành trữ tình nói lên cái thiết tha của tình yêu
say đắm. Còn gì da diết hơn những vần thơ sau đây trong bài Cuộc hẹn hò bất tuyệt:
Anh biết có mặt trời nơi tay em sạm nắng
Mặt trời thiếu yêu đương là cuộc sống phiêu lưu
Mặt trời thiếu yêu đương là thời gian đứt hẳn
Trong những kẻ chia tay luôn có em cùng anh từ biệt
Luôn có tình đôi ta trong những mắt lệ tràn
Luôn có tình đôi ta trong quãng đường lạc bước
102

Có tình đôi ta và có em khi con đường bị cắt
Và liền năm câu thơ tiếp theo đều mở đầu bằng “Có em” (C’est toi). Một kiểu láy móc
xích liên hoàn thật độc đáo. Ta sẽ gặp lại kiểu láy này ở một quy mô khác trong bài Enxa
ngồi trước gương.
Trong “vườn thơ Enxa”, nhìn góc nào ta cũng phát hiện được những “bông” những
“khóm” sử dụng biện pháp láy đủ mọi kiểu đạt được nhiều hiệu quả thơ ca.
Một buổi tối kia thế giới nổ tan tành
Va phải đá ngầm của bọn cướp tàu xảo trá
Nhưng anh thấy long lanh trên biển cả
Đôi mắt Enxa đôi mắt Enxa đôi mắt Enxa
(Đôi mắt Enxa)

Biện pháp nghệ thuật này còn có một tác dụng nữa là làm cho thơ Aragon gần với
những bài ca, rất phù hợp với chủ đề tình yêu và cũng dễ phổ nhạc. Trong số thơ Aragon
được phổ nhạc có không ít bài thuộc “vườn thơ Enxa”
Enxa trong thơ Aragon là một hình tượng nghệ thuật hơn là một chân dung Enxa có thực
ngoài đời. Tuy rải rác đây đó cũng có những chi tiết gợi lên “chân dung” Enxa, một mùi
hương, một giọng nói, một hơi thở, đôi môi, vài đường nét của cơ thể…nhưng tất cả chỉ
thấp thoáng chưa đủ sức lắng đọng thành hình ảnh đậm nét. Trái lại, hai bàn tay, mái tóc và
nhất là đôi mắt Enxa được nhà thơ lựa chọn có dụng ý, trở đi trở lại nhiều lần, nhằm khắc
họa một hình tượng riêng biệt.
Bài thơ hay nhất hiện lên rực rỡ mái tóc của Enxa có lẽ là Enxa ngồi trước gương (trong
tập Tiếng kèn trận Pháp). Đây cũng là bài thơ có nghệ thuật láy móc xích liên hoàn nhiều
kiểu rất độc đáo. Trong Bài ca gương vắng người soi, mười bốn năm sau, ở tập Enxa, mái
tóc ấy lại được nhắc đến với tình cảm thiết tha, nhưng lần này không phải Enxa soi gương
mà là gương nhớ bóng người, nhớ đôi môi thắm, đôi mắt đẹp, nhớ mái tóc bồng bềnh như
mây. Mái tóc còn xuất hiện với thủ pháp so sánh táo bạo ở cấp độ vũ trụ “Chòm sao của em
Mái tóc Enxa” trong Bài ca tặng Enxa, một bài thơ khá dài kết thúc tập Đôi mắt Enxa.
Đôi bàn tay Enxa được nhắc đến trong thơ còn nhiều hơn mái tóc nữa, trong Bài ca tặng
Enxa, Đôi bàn tay Enxa, Bài ca gương vắng người soi…Ở Bài ca tặng Enxa, nhà thơ dành
cho đôi bàn tay cả một phần riêng nhan đề Enxa múa. Còn Đôi bàn tay Enxa là một bài thơ
dài sáu khổ, mỗi khổ bốn câu trong tập Anh chàng say đắm Enxa. Những chi tiết gợi tả cho
chúng ta biết về đôi bàn tay có nhưng không nhiều. Màu sắc ư?
Đôi bàn tay tuyệt vời của em khiến bao mơ màng
Trắng muốt làn da những cánh chim trời
(Bài ca tặng Enxa)
Có lúc nước da sạm đi nhưng vẫn bao thân thương: “Anh biết có mặt trời nơi tay em
sạm nắng”. Đường nét ư? Có lẽ còn gì đẹp bằng những vần thơ ca ngợi đôi bàn tay Enxa,
103

như “đôi bàn tay vũ nữ nhà hát Ôpêra” khi tối tối nàng làm các đồ nữ trang để kiếm thêm
tiền chi tiêu trong lúc khó khăn:

Những chiếc vòng đẹp như tiên
Đẹp không thể tả
Enxa múa và sẽ còn múa nữa
“Enxa múa và sẽ còn múa nữa” trở thành điệp khúc lặp lại rất nhiều lần ở cuối mỗi khổ
thơ như đôi tay múa, múa mãi không thôi.
Tuy nhiên, nếu như viết về mái tóc chủ yếu là để miêu tả mái tóc thì những vần thơ về
đôi bàn tay lại khơi nguồn cảm hứng không phải từ vẻ đẹp của đôi bàn tay ấy. Trước hết,
đó là đôi bàn tay đã “cứu vớt” ông, đã dắt dẫn, an ủi ông:
Em đưa anh đôi bàn tay vì nỗi niềm ưu uất
Em đưa anh đôi bàn tay anh mơ ước thiết tha
Anh mơ ước thiết tha trong cảnh đời hiu hắt
Em đưa anh đôi bàn tay để cứu vớt anh ra…
(Đôi bàn tay Enxa)
Xu hướng nhấn vào ý nghĩa biểu tượng càng mạnh hơn ở hình ảnh đôi mắt Enxa, một
chùm hoa nổi bật trong “vườn thơ Enxa”. So với mái tóc, đôi bàn tay Enxa được nâng lên
cấp độ nhan đề bài thơ. Đôi mắt Enxa được nâng lên cấp độ cao hơn, nhan đề của một tập
thơ, tập Đôi mắt Enxa mở đầu bằng bài thơ dài mười khổ cũng nhan đề ấy. An – Nadjdi,
“anh chàng say đắm Enxa” cũng nồng nhiệt ca ngợi đôi mắt nàng trong bài Đôi mắt nhắm
là do chính An – Nadjdi đọc cho tôi và nói thêm rằng ông không muốn để cho bất cứ ai đẽo
gọt cái gì liên quan đến đôi mắt Enxa.
Trong thế giới thơ ca của Aragon, hình ảnh đôi mắt Enxa gắn bó mật thiết với bước
ngoặt quan trọng trong cuộc đời ông vào cái giây phút thiêng liêng cuối năm 1928 mà ta đã
biết. Trong lời tựa Đôi mắt Enxa, nhà thơ viết: “Anh nhìn đời bằng đôi mắt của em, chính
em khiến cho thế giới này cảm nhận được đối với anh và đem lại ý nghĩa cho những tình
người ở anh”
Anh đã học từ em để hiểu nhân tình thế thái
Và từ đó anh nhìn thấy thế gian theo cách em nhìn…
(Áng văn xuôi về hạnh phúc và Enxa)
Nhà thơ có quá lời không, nhưng chắc chắn đây là những tình cảm thật của ông:
Trần gian như do em nghĩ ra dưới đôi mí mắt

Như nó bắt đầu cùng với em ngay trước mặt
(Enxa)
Vì thế, dường như nếu Enxa nhắm mắt lại thì thế giới này cũng biến đi theo, tứ thơ ấy
nổi lên ở bài Đôi mắt nhắm và cả ở Du lịch sang Hà Lan với cường độ mạnh hơn nhiều,
xuất bản năm 1964.
104

Tất nhiên, nhà thơ không vì quá chú trọng ý nghĩa biểu tượng của đôi mắt mà quên đôi
mắt cụ thể của Enxa, “đôi mắt to”, “bát ngát”, “đôi mắt đẹp màu mưa”, “đôi mắt sâu thăm
thẳm” như biển khơi khi nhìn vào như “thấy tất cả các mặt trời đến bên bờ soi bóng”, đôi
mắt mở to như “những đóa hoa rừng bừng bở sau trận mưa rào”.
Tóm lại, với cảm hứng thiên về biểu tượng khi ca ngợi Enxa, Aragon đã sáng tạo nên
trong thơ ông hình ảnh nghệ thuật về Enxa chứ không đơn giản chỉ là sự sao chép Enxa
của cuộc đời thực.
Hình ảnh đặc biệt của Enxa trong thơ giúp ta hiểu rõ thêm mối quan hệ khăng khít giữa
Aragon nhà thơ - chiến sĩ và Aragon ca sĩ của Enxa, giữa lí tưởng và tình yêu. Tình yêu
Enxa và tình yêu Tổ quốc không hề mâu thuẫn nhau mà bồi đắp cho nhau. Yêu Enxa, ông
càng yêu nước Pháp đau thương, và ngược lại càng yêu Enxa thêm.
Sau khi chiến tranh kết thúc, bầu không khí không kém phần nặng nề bao trùm nước
Pháp và châu Âu trong hoàn cảnh chiến tranh lạnh và sự tăng cường của các thế lực cánh
hữu. Đặt vào hoàn cảnh ấy mới thấy hết ý nghĩa và giá trị bài Nhà thơ tặng Đảng của mình
in trong tập Tiếng kèn trận Pháp xuất bản lần đầu năm 1945, sau đó được tái bản rất nhiều
lần. Cũng phải đặt vào những năm tháng giá băng ấy ta mới hiểu tại sao nhà thơ chọn nhan
đề “Lại nát lòng” cho tập thơ mới của ông ra đời năm 1948. Tương ứng với chủ đề “Nát
lòng” của tập thơ mấy năm về trước, ở đây ta bắt gặp nỗi xót xa của nhà thơ trước thời thế
mới, nhưng đằng sau nỗi xót xa ấy là ý chí kiên cường của người cách mạng được biểu hiện
được biểu hiện một cách thâm trầm lắng đọng. Tâm trạng ấy sẽ còn vang lên mãi trong các
tập thơ về sau, và nhiều khi quấn quýt, lồng vào với những vần thơ về Enxa thành một thể
thống nhất, lí tưởng và tình yêu, không dễ gì tách bạch ra được.
Kẻ thù công kích Đảng, công kích con đường nhà thơ đã chọn bằng tất cả tim óc của

ông từ bao năm ư?
Anh viết những lời thơ ngược chiều gió thổi
Mặc cho ai xuôi gió no buồm
Gió càng to than hồng càng cháy đỏ
Lịch sử và tình anh chung một bước đường
Anh viết những lời thơ ngược chiều gió thổi…
(Cuộc hẹn hò bất tuyệt)
Ông cứ viết “những lời thơ ngược chiều gió thổi” mặc ai chê cười là đối với ông “chỉ
có đôi mắt Enxa mới là trời xanh” và “chỉ có lối nào Enxa đi qua mới là cửa ngõ”
Sự lựa chọn đường đi còn diễn ra không kém phần gay gắt trong lĩnh vực văn học. Đặt
vào hoàn cảnh có những khuynh hướng đậm màu sắc bi quan, tuyệt vọng, mất lòng tin, phá
hủy lòng tin vào cuộc sống và con người mới thấy hết được ý nghĩa một bài thơ như Đời
thật đáng sống trong tập Đôi mắt và trí nhớ. Tứ thơ quan trọng này sẽ xuất hiện trở lại hay
hơn, sâu hơn với tất cả sức nặng niềm tin tưởng của nhà thơ trong bài Áng văn xuôi về hạnh
phúc và Enxa, bài thơ dài giữ vị trí đặc biệt kết thúc Cuốn tiểu thuyết chưa hoàn thành
105

…Ai nói đến hạnh phúc mắt thường buồn da diết
Như tiếng than dài nỗi tuyệt vọng chua cay
Dây đàn đứt trong tay người đánh nhịp
Nhưng tôi cho hạnh phúc con người có thật
Không phải trong mơ không phải trên mây
Mà nơi bến lạ bờ xa trên quả đất này
Các anh tin hay không tin lời tôi nói
Tôi đã khổ đau nên có đủ quyền
Dầu mặt trời cứ xa khi người bước tới
Dầu cổ người dành cho tay đao phủ
Dầu cánh tay giang chờ đinh đóng treo lên
Hạnh phúc con người vẫn có và tôi tin.
1.4.3 Văn xuôi

a.Tập truyện ngắn “Dối mà thật”
Năm 1980, Aragon cho xuất bản tập Dối mà thật gồm 28 truyện ngắn ông sáng tác suốt
từ khi còn ở tuổi thanh niên mãi tới bấy giờ. Số lượng 28 truyện ngắn rõ ràng không thấm
vào đâu so với khối lượng thơ ca và tiểu thuyết đồ sộ nhưng đã thể hiện những tìm tòi sáng
tạo và đổi mới không ngừng của Aragon.
Bảy truyện Các lần gặp gỡ, Những người láng giềng tử tế, Kẻ xưng tội 43, Con cừu,
Kẻ cộng tác, Những chàng trai trẻ, Luật La Mã chẳng còn là những truyện sáng tác trong
Đại chiến II và đã từng được in thành tập riêng với nhan đề Nhục và vinh của người Pháp
ngay sau khi chiến tranh kết thúc. Đề tài khơi nguồn từ giai đoạn lịch sử nước Pháp bị quân
Đức giày xéo. Luật La Mã chẳng còn là truyện quan trọng nhất ở mảng này.
Các truyện sáng tác sau đó: Máy giết thời gian, Trước khi sinh nở, Lời nói trái ngược,
Các câu chuyện, Đốt nhà, Người mù, Vũ khúc giã từ …và quan trọng hơn cả là Dối mà thật
b.Truyện dài “Luật La Mã chẳng còn”
Nhân vật chính là viên thiếu tá Đức Von Luttwitz - Randau, quan toà tại một tòa án binh
và ả Fraulein Muller, thư kí và nhân tình của lão. Ả lúc nào cũng chán nản bực bội vì cái
thành phố Pháp nhỏ bé này tẻ ngắt, thiếu âm nhạc, chỉ luôn ước ao giá có thêm chút âm
nhạc thì hay. Còn lão quan tòa, từng là giáo sư về luật La Mã, nay muốn thay thế bằng luật
Đức. Cuối cùng, cả lão quan tòa và ả thư kí đều rơi vào tay du kích và bị xử tội. Luật La mã
vẫn còn.
Truyện khá dài, lại chia thành mười đoạn phân biệt, với nhân vật xưng “tôi” không phải
là một con người nhất định. Theo thứ tự, nhân vật xưng “tôi” ở đoạn 1 và đoạn 5
106

là Fraulein Muller, ở các đoạn 3 và 7 là Von Luttwitz - Randau. Trong các đoạn 2, 4, 8, 9,
10, truyện được kể ở ngôi thứ ba, người trần thuật không lộ diện. Như vậy, sự việc được
quan sát, chuyện được kể từ nhiều điểm nhìn khác nhau, với các thái độ chính trị, đặc điểm
tâm lí và cách đánh giá không giống nhau. Thủ pháp nghệ thuật này làm cho truyện kể
được sinh động hơn, khách quan hơn, người đọc không bị chi phối bởi cách nhìn độc đoán,
từ một phía, dù đó là của tác giả.
Riêng trong đoạn 6, truyện lại được kể ở ngôi thứ hai. Thấy Fraulein Muller cứ than

phiền mãi là thiếu âm nhạc, người trần thuật như thấy cần phải xuất hiện, cần phải chất vấn.
Cả đoạn này, dài bốn trang là những lời căn vặn ả thư kí của tòa án phát xít, nhưng không
có hai chấm, không có những dấu ngoặc kép như khi trích dẫn ra đây : “Fraulein Lotter
Muller, một chút âm nhạc chẳng làm phiền đến ả phải không… Fraulein Lotter Muller, ả
điếc hay sao mà không nghe thấy âm nhạc? Có những ngày nó từ đất dội lên, lan khắp
thành phố và bầu trời như một trận cuồng phong, cửa đập ầm ầm giấy bay loạn xạ, ả phải
giữ lấy váy, thế mà ả không nghe thấy âm nhạc hay sao? Fraulein Lotter Muller , ả điếc
hay sao mà không nghe thấy âm nhạc đang vang tới? Fraulein Lotter Muller,… ả hãy lắng
nghe, lắng nghe mà xem…” Đó là điệu nhạc ai oán trong các nhà tù, tiếng xương kêu rắng
rắc, tiếng thịt cháy xèo xèo…Đó là khúc nhạc buồn đêm đêm đầy lo âu trong các căn nhà
không đèn, không lửa, tim đập thình thịch chưa biết cảnh sát ập đến lúc nào… “Ôi! Ả
không nghe thấy, không nghe thấy âm nhạc hay sao? ” Đó là tiếng súng của nhân dân diệt
thù, tiếng bước chân của quân du kích rầm rập đó đây…tiếng đoàn tàu chở đạn của quân
chiếm đóng trúng mìn nổ tung ba toa lên trời… “Âm nhạc, âm nhạc, Fraulein Lotter Muller
ơi, chỉ mới bắt đầu trong cái thành phố nhỏ bé nhung nhúc bọn lính áo xanh áo xám
đây…Này, này, đó mới chỉ là một khúc nhạc dạo nho nhỏ…dàn nhạc vĩ đại được rèn luyện
ở chỗ khác đang tập hợp, và âm nhạc, âm nhạc sắp bùng lên”.
Có thể hình dung nhân vật không có tên, không xưng “tôi” và đang mặt đối mặt với ả
thư kí kia chẳng nhất thiết là người trần thuật của các đoạn 2, 4, 8, 9, 10 mà chính là
Aragon xuất hiện nguyên hình hay một độc giả, một thính giả nào đấy thấy bất bình cần
phải nhẩy ra tham gia vào truyện. Trong các đoạn truyện được kể ở ngôi thứ ba, nhà văn
dùng thì quá khư: giữa thời điểm sự việc xảy ra và sự việc được kể lại có một khoảng cách
nào đấy. Ở các đoạn truyện được kể ở ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai, nhà văn dùng thì hiện
tại. Khoảng cách nói trên không còn nữa. Độc giả lúc như được kéo ra xa, lúc như lại được
đưa đến gần, trên hai tuyến thời gian khác nhau.
Thủ pháp nghệ thuật nhiều điểm nhìn không hề cản trở nhà văn xây dựng Luật La Mã
chẳng còn thành một truyện ngắn có tính khuynh hướng rõ rệt và được chỉ đạo nhất quán
bởi thế giới quan của ông.
Dối mà thật sáng tác năm 1964, không những là truyện ngắn quan trọng nhất mà còn có
ý nghĩa như một bản tuyên ngôn về nghệ thuật của Aragon. Không phải ngẫu nhiên “Dối

mà thật” được ông chọn làm nhan đề cho cả tập sách. Dối mà thật cũng được sắp xếp mở
đầu cho tập truyện ấy. Dối mà thật lại khá dài so với phần lớn các truyện khác của ông.
Tác phẩm có dáng dấp tự truyện, kể lại quãng đời của nhà văn vào những năm 1908 –
09, khi ông còn là một học sinh mười một, mười hai tuổi. Về hình thức, truyện được
tổ chức thành hai tuyến bố trí theo từng đoạn cách biệt và xen kẽ nhau. Một tuyến là
107

“Aragon – Nhân vật” đội tên Pierre tự kể chuyện mình. Còn tuyến kia là “Aragon – Nhà
văn” bình luận, nhận xét những điều Pierre kể, hoặc bổ sung thêm các suy nghĩ hay hồi ức
nhân câu chuyện của Pierre gợi ra. Nói chung, cứ sau mỗi đoạn Aragon – Pierre kể là một
đoạn xen kẽ với độ dài gần như tương đương của Aragon – Nhà văn. Câu chuyện kể của
Pierre chia làm hai phần: phần đầu ngắt thành sáu đoạn xen với năm đoạn lời nhà văn; phần
sau ngắt thành ba đoạn xen với hai đoạn lời nhà văn. Trong câu chuyện Aragon – Pierre kể,
ta như cùng với nhân vật đang sống những năm 1908 – 09. Đến những đoạn Aragon – Nhà
văn trò chuyện, ta được kéo trở về với hiện tại để từ đây phóng tầm mắt quan sát quá khứ
xa xưa. Như vậy, có thể nói tương ứng với hai tuyến của truyện là hai bình diện thời gian
cách nhau trên nửa thế kỉ, tính từ quãng thơi gian được kể lại cho tới năm tác phẩm ra đời.
Hình như có hai Aragon ngồi đối diện với nhau, như người soi bóng trong gương, và
Aragon – Nhà văn luôn luôn nêu ra những chi tiết mà Aragon – Pierre do vô tình hay hữu ý
đã “dối trá” trong câu chuyện kể.
Pierre kể rằng, Paul là bạn thân nhất của cậu, hai người quen biết nhau năm năm trước
đây, từ ngày còn chưa đi học. Gia đình Paul không sùng đạo lắm và Paul trách Pierre quá
nhiệt thành với tôn giáo. “Cậu ta bảo rằng tôi nịnh nọt tu sĩ Prangaud. Và ông tu sĩ ấy lại
gọi tôi là Jacques, cái đó muốn nói lên điều gì? ” Rồi Pierre được gia đình cho đi học ở
trường Đức – Bà vì có cái lợi là trường gần nhà lại không phải qua đường, cứ việc men
theo hè phố mà đi…Aragon – Nhà văn thì nói hồi ấy tên ông có phải là Pierre đâu, đấy là tu
sĩ Pangaud chứ không phải Prangaud, gọi ông là Pierre chứ đâu phải là Jacques. Còn tên cái
trường học nữa! Trường Saint - Louis chứ có phải là trường Đức – Bà đâu! Gọi trường
Saint - Louis là trường Đức – Bà thì có tiến bộ gì hơn?”…
Paul kể về hoàn cảnh gia đình, về cha, về mẹ, về bà…hoàn cảnh thật éo le: cha thì cậu

tưởng là người đỡ đầu, mẹ thì cậu cứ nghĩ là chị Mactơ, còn bà thì cậu lại tin là mẹ nuôi.
Pierre tưởng mẹ cậu đã chết, còn cha cậu là người có tấm ảnh treo trong phòng đã bỏ đâu
sang Tây Ban Nha hay Nam Mĩ, cậu chưa gặp bao giờ. Một hôm Pierre ốm, người đỡ đầu
vào phòng nhìn thấy ảnh, hỏi ảnh ai, cậu trả lời là ảnh Ba; ông ta nổi giận cầm luôn ảnh
nhét vào túi… “Sau đó Mactơ đã giải thích cho tôi và người ta đã mang treo lên tường, lần
này, phía trên hình chúa Jêxu, tấm ảnh lớn đã hơi cũ, vàng ố, của người cha thật của tôi…”
Aragon nhà văn liền can thiệp: suốt thời thơ ấu, ông có nói dối ai bao giờ đâu, ông không
hề biết những chuyện éo le trong gia đình, chỉ khi lớn lên ông hơi ngờ ngợ song cố nén
chẳng tìm hiểu sâu làm gì. “Chỉ mãi đến khi tôi bị động viên bà mẹ tội nghiệp của tôi mới
quyết định thú nhận với tôi…Tất nhiên ở đây vấn đề không phải là tôi, là một cái tôi nay
không còn nữa, một cái tôi không thể tìm thấy lại được nữa, mà là một cậu bé do tôi hoàn
toàn bịa đặt ra, theo cách của tôi, tất nhiên là thế, để trình bày vắn tắt chuyện của cậu trong
năm học 1908 – 1909, nên tôi đã giả định là mẹ cậu ta, chứ không phải mẹ tôi, đã nói hết
với con ngay từ khi xảy ra sự cố bức chân dung…”
Lại một chuyện Catherine Ximônitzê…Pierre định kể về dự án lớn lao cùng với Paul
“chế tạo” một tàu ngầm. “Nhưng rồi luôn luôn cứ có một điều gì đấy xen vào làm tôi không
kể đươc. Lần này Catơrin Ximônitzê. Đã lâu nàng không đến chơi nhà. Trời ơi sao nàng
đẹp thế! Nàng hỏi tôi đã đọc Anna Karênin chưa, và vì tôi chưa đọc quyển tiểu thuyết ấy
nên nàng hứa hôm nào khác sẽ mang cho tôi mượn. Có thể là sang năm. Miễn sao nàng
đừng đi lấy chồng trước khi tôi thành người lớn…Năm nay nàng mười bẩy tuổi…Tôi cầu
108

nguyện Đức Mẹ cho nàng”. Aragon – Nhà văn vội ngắt lời Pierre mà cũng là ngắt lời bản
thân mình vì chính ông là người đang viết truyện: “Dừng lại. Bắt quả tang rồi. Đó là tiểu
thuyết. Bảo rằng Pierre cầu nguyện Đức Mẹ. Đứa trẻ là tôi không bao giờ cầu nguyện Đức
Mẹ. Bịa đặt lạ lùng chưa. Để làm gì? Vô cớ ư? Tất nhiên là không phải rồi. Để cách biệt tôi
ra. Nhưng mọi người sẽ không hay biết gì cả! Vấn đề không phải là những người khác. Vấn
đề là tôi. Tôi, tôi biết. Pierre phân biệt với tôi, bởi vì cậu ta cầu nguyện Mari Đức Mẹ…Một
người không có đức tin thì làm sao sẽ tưởng tượng ra được bây giờ những lời cầu nguyện
của một đứa trẻ giống anh ta nhưng lại khác biệt với anh ta hồi xưa vì lời cầu nguyện ấy…”

Aragon – nhà văn và Aragon – Pierre dường như đã hòa lẫn vào nhau. Nhân vật trước
không phải chỉ tìm cách vạch ra những điểm nhân vật sau bịa đặt do cố ý hay vô tình, bởi
vì việc làm của người này thực ra cũng là của người kia. Nhiều lúc có vẻ như bản thân
Aragon cũng hoang mang không hiểu tại sao lại có chi tiết này nọ trong câu chuyện của cậu
bé Pierre.
Xưa kia Aristote và Boileau đã từng viết những cuốn về “nghệ thuật thơ ca”. Đến nay,
Dối mà thật của Aragon của Aragon được giới phê bình đánh giá như một cuốn “Nghệ
thuật tiểu thuyết”. Tác giả muốn nêu lên vị trí và mối tương quan giữa “cái dối” và “cái
thật” trong sáng tác. Đó cũng là mối tương quan giữa cái hiện thực và cái hư cấu sản phẩm
của trí tưởng tượng. Ông đã khéo chọn hình thức tự truyện vì ở lĩnh vực này cái dối và cái
thật bày ra rõ rệt nhất, với những bằng chứng không thể chối cãi. Có thể nghĩ rằng trong
truyện Dối mà thật, “cái dối” nằm về phía câu chuyện kể của Pierre, xen lẫn với cả những
điều có thật, còn bên phía Aragon – Nhà văn thì thuần túy là “cái thật” mà thôi. Lãnh vực
“tiểu thuyết” thuộc về tuyến Aragon – Pierre như Aragon – Nhà văn trong truyện này có
lúc đã thốt lên. Tuy nhiên, những đoạn kể của Aragon – Nhà văn cũng nằm trong văn bản
chứ không phải ngoài văn bản. Chẳng hề có dấu hiệu phân biệt nào ở hình thức in ấn.
Truyện Dối mà thật bao gồm cả hai tuyến kể trên. Nói khác đi, những đoạn kể của Aragon
– Nhà văn cũng nằm trong lĩnh vực “tiểu thuyết”. Vậy không có gì bảo đảm ở đây là “cái
thật” trăm phần trăm. Aragon – Nhà văn đã phải thốt lên những lời đầu tiên ngay từ khi
Aragon – Pierre vào chuyện chưa được bao lâu: “Cậu bé tội nghiệp trong gương. Cậu
không còn giống tôi nữa, song cậu vẫn giống tôi. Chính là tôi nói. Cậu không còn cái giọng
trẻ thơ của cậu nữa. Cậu chỉ là một kí ức người lớn, mãi sau này…Tôi lặp lại tôi. Năm
mươi nhăm năm về sau. Điều đó làm biến dạng các từ ngữ đi rồi. Và khi tôi tưởng nhìn
thấy tôi, thì chỉ là tôi tưởng tượng ra tôi…Tôi tưởng là nhớ lại tôi, song là tôi bịa đặt ra
tôi…”
Thực ra, Aragon – Nhà văn và Aragon – Pierre không đối lập mà bổ sung cho nhau.
Những đoạn lời Aragon – Nhà văn không mâu thuẫn với câu chuyện kể của Aragon –
Pierre mà chỉ soi sáng thêm cho câu chuyện ấy, hoặc làm cho phong phú thêm. Chẳng hạn,
chính qua các đoạn bình luận, nhận xét hoặc liên tưởng mở rộng mà chúng ta được biết
những năm còn thơ ấu, chú bé Aragon đã say mê sáng tác như thế nào, đã viết nhiều “tác

phẩm” nho nhỏ cất giữa vào các xó xỉnh trong nhà. Thế giới thực tại cũng được tạo nên,
thậm chí tôi có thể nói là được xây dựng trên những mộng mơ ấy. Trong câu chuyện kể của
Pierre không có những chi tiết này.
Dối mà thật nói lên vai trò vô cùng quan trọng của hư cấu và trí tưởng tượng trong sáng
tạo nghệ thuật. Cái dối không làm hại cho việc phản ánh hiện thực, mà chỉ làm cho cái thật
109

hiện lên lung linh, sâu sắc hơn. Tuy nhiên còn cần thấy rõ cả mặt thứ hai nữa. Nhan đề tác
phẩm dịch thật sát là Cái dối thật, với hai về ngang nhau; dối mà thật, thật mà dối, đấy
chính là đặc trưng của tiểu thuyết. Đúng như nhân vật Aragon – Nhà văn nói trên kia:
“…Tôi tưởng là nhớ lại tôi, song là tôi bịa đặt ra tôi…”. Dối mà thật là một sáng tạo nghệ
thuật, vậy thuộc phạm trù “tiểu thuyết”. Với đặc trưng này của tác phẩm, ta không thể căn
cứ vào Dối mà thật để xác lập một đoạn tiểu sử của nhà văn.
c. Những thành tựu tiểu thuyết
Có thể nói tiểu thuyết là bộ phận chủ yếu nhất, còn quan trọng hơn cả thơ, trong sự
nghiệp sáng tác của Aragon. Ngay từ khi chưa đến mười tuổi, ông đã bắt đầu “sáng
tác” nhiều “tiểu thuyết” nho nhỏ, chỉ mấy trang nhưng cũng chia thành chương, thành
đoạn. Cuốn tiểu thuyết ra mắt bạn đọc đầu tiên, nhan đề Anixê được in cùng năm với tập
thơ Lửa vui. Cuốn tiểu thuyết cuối cùng, nhan đề Sân khấu/ Tiểu thuyết xuất bản năm 1974.
Như vậy là Aragon mở đầu sự nghiệp sáng tác bằng tiểu thuyết và cũng dùng tiểu thuyết để
khép lại sự nghiệp ấy.
Từ “Anicet” đến sân khấu và tiểu thuyết
Tiểu thuyết Pháp trong thế kỉ XX là bức tranh nhiều hình nhiều vẻ với bao nhiêu nỗ lực
tìm tòi đổi mới không ngừng. Từ Đại chiến I trở về trước đã xuất hiện những nhà tiểu
thuyết nổi danh: A. France đoạt giải Nobel năm 1921, R.Rolland đoạt giải thưởng Nobel
năm 1915…Thời kì giữa hai cuộc đại chiến nổi lên các tên tuổi: H.Bacbuyx, R. Martin du
Gard đoạt giải thưởng Nobel năm 1937, A. de Saint Exupéry… Thời kì trước và sau Đại
chiến II nổi lên trào lưu tiểu thuyết hiện sinh với hai nhà văn J.P.Sartre được tặng giải
thưởng Nobel năm 1964 (nhưng ông khước từ không nhận), A.Camus giải thưởng Nobel
1957…

Trong những thập kỉ 50 và 60, văn xuôi Pháp rộ lên với trào lưu Tiểu thuyết Mới.
Các nhà văn trên thuộc nhiều khuynh hướng tư tưởng và nghệ thuật khác nhau, có người
tiếp tục truyền thống của chủ nghĩa hiện thực thế kỉ trước, có người mở ra chủ nghĩa hiện
thực xã hội chủ nghĩa, có người được coi là một trong những ngọn cờ đầu của chủ nghĩa
hiện đại, rồi tiểu thuyết hiện sinh, Tiểu thuyết Mới…; có những khuynh hướng chủ trương
văn học nhập cuộc như chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, nhưng
lại có trào lưu như Tiểu thuyết Mới xem “nhập cuộc” là một trong những khái niệm lỗi
thời. Nhưng dù thuộc khuynh hướng nào thì các nhà văn cũng đều đẩy mạnh những tìm tòi
thể nghiệm để đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết.
Giữa khung cảnh ấy, Aragon vẫn khẳng định được vị trí của ông trong lĩnh vực tiểu
thuyết, khiến có người đã phải thốt lên: “Cứ mỗi lần Aragon xuất bản một tác phẩm mới,
giới phê bình lại kinh ngạc trước kì tài của nghệ sĩ”. Sự nghiệp tiểu thuyết của ông có thể
chia làm 3 giai đoạn
Anicet (1920) và Gã dân quê Pari (1926) gắn với thời kì nhà văn còn ở trong các nhóm
đa đa và siêu thực.
110

Giai đoạn tiếp theo thể hiện đầy đủ những đặc điểm của ngòi bút hiện thực xã hội
chủ nghĩa với bộ Thế giới thực tại gồm năm tiểu thuyết:
Chuông thành Balơ (1934), Những khu phố đẹp (1936), Những hành khách trên xe
(1943), Aurélien (1944), Những người cộng sản (1949 – 51)
Giai đoạn cuối cung gồm 4 tiểu thuyết với những thể nghiệm hết sức táo bạo và độc đáo
của nhà văn: Giết chết (1965), Blăngsơ hay Lãng quên (Blanche ou I’oubli, 1967), Hăngri
Matrix, tiểu thuyết (Henri Matisse, roman, 1971) và Sân khấu/ Tiểu thuyết (1974). Tiểu
thuyết Tuần lễ thánh (1958) có vị tri riêng như cái dấu nối giữa giai đoạn hai và giai đoạn
ba.
Nhà nghiên cứu T. Balasôva hoàn toàn đúng khi nhận định rằng bản thân nhan đề “Thế
giới thực tại” đã là “một bản tuyên ngôn nói rõ quan điểm thẩm mĩ của tác giả”. “Thế giới
thực tại” là lời tuyên bố cắt đứt với quá khứ siêu thực để trở về với bến bờ của thực tại.
Có cái “thế giới thực tại” bầy ra trước mắt Aragon từ 1930 đến 1950, thời gian ông

sáng tác bộ tiểu thuyết liên hoàn, nhưng cũng có cái “thế giới thực tại” bên ngoài tác phẩm
tồn tại và diễn biến theo những quy luật của nó. Cái “thế giới thực tại” bên trong tác phẩm
của ông trước hết được tổ chức theo những ý đồ nghệ thuật của riêng ông.
Chuông thành Balơ gồm bốn phần Diane, Catơrin, Victo và Clara. Diane là một phụ nữ
xuất thân gia đình quí tộc. Catơrin Ximônitzê có thể xem là nhân vật trung tâm của cả tiểu
thuyết, là con gái một trùm tư sản dầu lửa ở Giêorgi, (tức Gruzia), theo mẹ sang Pháp từ
lâu, sống cuộc đời phóng túng, cuối cùng rời bỏ tư tưởng vô chính phủ và nhích gần lại với
chủ nghĩa xã hội. Quá trình chuyển biến của Catơrin có liên quan với Victo, công nhân lái
xe tăcxi, người đã dắt dẫn cô đến với môi trường công nhân. Còn Clara Zetkin là người phụ
nữ cách mạng xuất sắc ở đầu thế kỉ này đã tham gia Đại hội các đảng Xã hội ở châu Âu họp
ở Balơ (Thụy Sĩ) năm 1913.
Những khu phố đẹp kể với chúng ta về quá trình hình thành và diễn biến tính cách của
hai anh em Edmond Barbentane và Armand Barbentane từ xó tỉnh lẻ Serianne buồn tênh
(Phần I) đến thủ đô Pari hào hoa, nhốn nháo (Phần II) và cuối cùng là Câu lạc bộ Đường
Hẻm, hang ổ cờ bạc của chốn đô thành (Phần III).
Những hành khách trên xe cũng chia làm ba phần kể chuyện tỉ mỉ những năm tháng lưu
lạc khắp nơi của Pierre Mercadier, nguyên là giáo sư sử học đã rời bỏ vợ con nhà cửa ra đi
để được tự do, cuối cùng mệt mỏi, thân tàn ma dại, cơ thể bị bại liệt và chết đau khổ. Người
ta báo tin cho con trai ông là Pascal đã bị động viên hai ngày trước đó. Anh ở mặt trận suốt
bốn năm ba tháng của Đại chiến I để cho con trai anh là Jeannot sau này không biết đến
chiến tranh.
Ôrêliêng gồm tám mươi chương cuối cùng là phần Kết thúc khá dài gồm tám chương.
Đề tài xoay quanh câu chuyện yêu đương giữa Ôrêliêng và Bêrênix cô em họ của Étmông
Bacbăngtan, đã có chồng, từ xó tỉnh lẻ của nàng lên Pari chơi ít hôm vào thời gian sau khi
kết thúc Đại chiến I. Họ yêu nhau thắm thiết, nhưng do bao hoàn cảnh éo le, cuối cùng cuộc
đời mỗi người lại rẽ theo một ngả.
111

Những người cộng sản là bộ tiểu thuyết có quy mô lớn nhất trong Thế giới thực tại,
bao quát những sự kiện sôi động ở Pháp từ tháng Hai 1939 đến tháng Sáu 1940, mở đầu là

cảnh hỗn độn ở biên giới Tây Ban Nha với hàng đoàn người lũ lượt kéo sang Pháp sau khi
nền Cộng hòa Tây Ban Nha bị Franco đàn áp. Rồi bóng mây đen của Đại chiến ùn ùn kéo
tới và Đảng cộng sản Pháp bị chính phủ tư sản đàn áp. Tiếp đến, chiến tranh thực sự nổ ra,
tinh thần chiến đấu ngoan cường chống phát xít của các đảng viên cộng sản tuy họ vẫn luôn
luôn bị đàn áp. Lồng vào những sự kiện nóng bỏng ấy là mối tình trong trắng giữa anh sinh
viên y khoa Jean de Moncey và cô Cecile vợ tay tư sản Fred Wisner có những hoạt động
mờ ám. Cecile đã trải qua nhiều biến động trước các điều mắt thấy tai nghe trong những
ngày đen tối ấy. Cô đã thú thật tình yêu với Jean và đến cuối tác phẩm, hai người trở thành
đôi tình nhân, hòa chung với nhau giấc mơ hạnh phúc trong một nhà trọ bên đường.
Văn học Pháp có truyền thống về loại tiểu thuyết liên hoàn từ lâu. Có loại xây dựng trên
cơ sở diễn biến của một dòng họ như Gia đình Rougon – Macquart của E.Zola hay Gia
đình Tibô của R.Mactanh đuy Ga. Có loại lấy xã hội rộng lớn làm nền như trường hợp Tấn
trò đời của H. De Balzac. Thế giới thực tại gần với kiểu Balzac hơn. Ông tìm thấy ở loại
tiểu thuyết này khả năng bao quát thực tế rộng lớn mà khuôn khổ một cuốn tiểu thuyết
thông thường không đủ sức dung nạp.
Xét về quy mô theo một nghĩa nào đấy, về số lượng tác phẩm chẳng hạn, thì Thế giới
thực tại không đồ sộ bằng Tấn trò đời. Nhưng kiến trúc tòa lâu đài Thế giới thực tại có vẻ
độc đáo riêng.
Kiểu nhân vật trở đi trở lại từ tiểu thuyết này sang tiểu thuyết khác, chất keo quan trọng
của Tấn trò đời cũng trở thành rường mối của Thế giới thực tại. Quesnel trong Chuông
thành Balơ sẽ lại xuất hiện trong Những khu phố đẹp. Hai nhân vật chính của Những khu
phố đẹp là Edmond và Armand Barbentane ta sẽ lại gặp trong Ôrêliêng hoặc Những người
cộng sản. Jean (tức Jeannenô) cháu nội của Pierre Mercadier ở Những hành khách trên xe
cũng bước vào Những người cộng sản cùng với nhiều nhân vật khác nữa của bốn tác phẩm
trước. Không kể các nhân vật trở đi trở lại, còn có mối quan hệ họ hàng xa gần góp phần
nối liền các tác phẩm của Thế giới thực tại thành một khối thống nhất. Chẳng hạn Orelien
và Berenix, hai nhân vật chính lần đầu xuất hiện là ở Ôrêliêng, nhưng Berenix lại là cô em
họ của Edmond Barbentane mà độc giả đã được làm quen trong Những khu phố đẹp, Cecile
đến Những người cộng sản mới ra mắt chúng ta, nhưng chồng Cecile là Fred Wisne thuộc
dòng họ đại tư sản chủ nhà máy thì chẳng xa lạ gì với mọi người từ Chuông thành Balơ đến

Những khu phố đẹp.
Xét về phương diện này cấu trúc của Thế giới thực tại gọn hơn nhưng cũng gắn bó chặt
chẽ với nhau hơn so với Tấn trò đời. Khác với Balzac, kiểu nhận vật trở đi trở lại được ông
vận dụng nhất quán từ tiểu thuyết đầu đến tiểu thuyết cuối của Thế giới thực tại. Cái khác
nhau cơ bản ở hai nhà văn là thế giới quan dẫn đến chỗ phân biệt chủ nghĩa hiện thực với
chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa.
Nghệ thuật kể chuyện cũng thay đổi linh hoạt từ tác phẩm này sang tác phẩm khác
không có hiện tượng trùng lặp. Loại thứ nhất là loại tiểu thuyết xoay quanh nhân vật trung
tâm với kết cấu theo đường thẳng dẫn dắt mọi tình tiết lấy nhân vật trung tâm làm sườn
(Ôrêliêng, Những hành khách trên xe, Những khu phố đẹp). Loại thứ hai có thể kể đến
112

Chuông thánh Balơ với kiểu cấu trúc táo bạo, bốn phần kể về bốn nhân vật gần như chẳng
có liên quan gì với nhau. Mặc dù tất cả những tiểu thuyết này đều xuất hiện những nhân vật
trung tâm nhưng vai trò của các nhân vật trung tâm trong tiểu thuyết mất dần đi. Một số
tiểu thuyết khó xác định nhân vật trung tâm. Số phận một vài cá nhân nào đấy không còn
quan trọng nữa mà mối quan tâm của nhà văn hướng vào số đông. “Nhân vật có vấn đề”
được thay thế bằng “tình huống có vấn đề”
Vai trò của cốt truyện, yếu tố quan trọng của tiểu thuyết truyền thống do đó cũng trở
nên lỏng dần. Tiểu thuyết được giải phóng khỏi cốt truyện, một dấu hiệu của tiểu thuyết
hiện đại dẫn đến cấu trúc “mở” trái với cấu trúc “khép kín” của tiểu thuyết truyền thống.
Không gian trong tiểu thuyết của Aragon có quy mô rộng lớn, đó là không gian thực tại,
không gian không phải chỉ là nơi diễn ra mọi tâm trạng, hành động, sự kiện mà còn được sử
dụng như một biện pháp nghệ thuật, chẳng hạn như hình tượng “những khu phố đẹp” là
biểu tượng để chỉ sự giàu sang.
Về thời gian, có ba tuyến thời gian: thời gian Aragon viết Thế giới thực tại kéo dài
khoảng hai mươi năm; thời gian ông muốn phản ánh trong Thế giới thực tại gần trùng với
thời gian kể trên, có thể mở rộng hơn một chút về quá khứ, và thời gian thực sự của Thế
giới thực tại, đây là “thời gian tiểu thuyết” do ông sáng tạo.
Để đem lại cho tiểu thuyết vẻ giống như thật, Aragon gắn các nhân vật và sự kiện với

những năm tháng cụ thể, nhà văn cố tìm cách đưa gần thời gian tiểu thuyết đến với thời
gian thực tại.
Về nhân vật của Thế giới thực tại là một lực lượng nhân vật hùng hậu, hùng hậu không
chỉ ở chỗ ít hay nhiều mà cón phải kể đến những kiểu nhân vật mới, phong phú đa dạng về
mặt điển hình xã hội – chính trị cũng như về mặt chủng loại nghệ thuật. Bên cạnh các loại
nhân vật có tính cách ổn định thì những kiểu nhân vật có quá trình được nhà văn đặc biệt
chú ý và dày công xây dựng. Con đường diễn biến của kiểu nhân vật này không phải bao
giờ cũng đi theo một chiều. Sự thay đổi về sau của nhân vật ta khó mà đoán trước được.
Trong Lời bạt tiểu thuyết Những người cộng sản, Aragon viết: “Tiểu thuyết theo tôi
hiểu là một ngôn ngữ không chỉ nói cái nó nói, mà còn nói cái khác nữa, ở bên kia. Chính
là cái ở bên kia đó rất quí giá cho tôi”. Có thể nói “cái khác”, “cái ở bên kia” theo chữ dùng
của Aragon chính là cái hàm ẩn của tiểu thuyết dù có nằm trong dụng ý của người sáng tạo
ra nó hay không thì vẫn cứ là kết quả của văn bản và phụ thuộc vào khâu tiếp nhận của
người đọc. Trong Thế giới thực tại, cái hàm ẩn hình thành theo nhiều cách khác nhau.
Chẳng hạn như tiểu thuyết cuối cùng của Thế giới thực tại là để viết về những người
cộng sản. Nhan đề tác phẩm khẳng định điều đó. Tuy nhiên nhà văn tập trung sáng tạo loại
nhân vật có quá trình chuyển biến như Oatơranh, Jean Bleze, hai vợ chồng Gaya, nhất là
Cecile và Jean de Moncey. Các nhân vật ấy để lại cho ta ấn tượng đậm hơn. R. Garôđi đặc
biệt chú ý đến phương diện này của tiểu thuyết nên đã nhận định chủ đề về “sự chuyển
biến” là chủ đề quan trọng nhất. Đây chính là một “cái khác” trong “Những người cộng
sản”. Và nó có cơ sở trong tổ chức kết cấu. Jean và Cecile không phải là những nhân vật
trung tâm, nhưng so với các nhân vật cộng sản, đôi thanh niên nam nữ này tuy xuất hiện có
113

muộn hơn một chút nhưng lại tồn tại đến tận cuối tác phẩm. Jean và Cecile lại xuất hiện
khá đều đặn, không vắng mặt ở tập nào, tuy mỗi tập có thể chỉ xuất hiện đôi ba lần. Trong
khi đó thì nhân vật Đảng viên cộng sản được khắc họa rõ nhất như Raun Blansa, cả tập II
của Những người cộng sản hầu như không thấy bóng dáng đâu cả.
Bước sang thập kỉ 60, trước tình hình văn học Pháp đổi mới nghệ thuật không ngừng với
tốc độ phi mã, bằng sự nhạy cảm nghệ thuật với trái tim cộng sản và tài năng của mình,

Aragon lần lượt cho ra mắt mấy tiểu thuyết rất mới, rất hiện đại, khiến cho cả bạn đọc bình
thường lẫn giới phê bình đều sửng sốt.
Giết chết là đỉnh cao của văn xuôi Aragon giai đọan sau Thế giới thực tại. Đây là một
tiểu thuyết có nhiều cách đọc khác nhau, việc tóm tắt tác phẩm này chỉ là đưa ta một cách
đọc có thể có mà thôi. Tính chất mới mẻ của Giết chết không phải chỉ ở sự chồng chéo của
nhiều chủ đề với nhiều cách đọc hết sức khác nhau, mà còn là vai trò gần như đã biến mất
của cốt truyện.
Blăngsơ hay Lãng quên là một tiểu thuyết không có cốt truyện còn rõ rệt hơn cả Giết
chết, tiểu thuyết là công cụ để nhận thức cuộc đời và con người. Aragon quan niệm “tiểu
thuyết là khoa học của sự bất thường”, tiểu thuyết “không phải là cái đã xảy ra, mà là cái
có thể xảy ra, có thể xảy ra”. Và ông bắt chước ý của Mác trong Luận cương Fơbach để kết
thúc Blăngsơ hay Lãng quên: “Từ trước đến nay, các nhà tiểu thuyết bằng lòng với việc
nhại lại thế giới. Vấn đề bây giờ là sáng tạo ra nó.”
Sân khấu còn có thể hiểu phần nào theo ý nghĩa hình thức thể loại Sân khấu/Tiểu thuyết
là một tiểu thuyết nhưng nhà văn dường như cố tình đem lại cho nó ít nhiều dáng dấp kịch.
Chỉ cần nhìn qua tiêu đề của một số chương: Mở màn, Màn xen, Độc thoại sân khấu, Diễn
viên nói một mình. Rômanh Raphaen là một diễn viên nên có chương ghi lại anh đang tập
dượt trong một vai kịch nào đấy. Nhà văn còn sử dụng rộng rãi hình thức “chỉ dẫn sân
khấu” dưới dạng in chữ nghiêng hoặc đặt trong ngoặc đơn, như ta thường bắt gặp ở các
kịch bản, khiến chúng ta nhiều lúc cũng quên đi là mình đang đọc tiểu thuyết mà cứ tưởng
đang xem kịch hoặc đọc một kịch bản thật sự.
Khi đọc Giết chết hoặc Blăngsơ hay Lãng quên, ta có cảm tưởng Aragon muốn mở rộng
biên giới của tiểu thuyết đến sát với tuỳ bút. Đến tiểu thuyết này, có lẽ nhà văn chủ tâm mở
rộng bến bờ của tiểu thuyết đến sát với thể loại kịch.
Henri Matisse, tiểu thuyết mở thêm ra hướng mới. Henri Matisse chia làm 2 tập, bao
gồm 30 bài viết của ông về Matisse – nhà danh hoạ Pháp mà Aragon có quen biết – và về
tranh của Matisse. Kèm theo các bài viết sắp xếp xen kẽ chứ không theo trật tự thời gian là
rất nhiều hình họa và tranh màu của họa sĩ. Ngoài ra còn có một số ảnh chụp. Thế nhưng tại
sao lại là tiểu thuyết? Theo Aragon: “Bởi vì Henri Matisse, tiểu thuyết là tiểu thuyết về một
cuộc phiêu lưu tinh thần, cuộc phiêu lưu của tác phẩm hội họa; điêu khắc, chứ không phải

một chuỗi những giai thoại, những sự việc giật gân…”
Aragon còn là một cây bút phê bình nghệ thuật sắc sảo. Đặc điểm mảng phê bình của
ông là không giữ nguyên tính chất của thể loại phê bình mà trong phê bình có hòa lẫn cả
chất thơ, chất hư cấu, nó không thuần túy chỉ là phê bình. Với Henri Matisse, phải chăng
114

ông muốn mở rộng bến bờ của thể loại tiểu thuyết đến sát với ranh giới của lĩnh vực phê
bình? Hơn nữa đây còn là một thể nghiệm đưa “kênh hình” vào trong tác phẩm văn
chương.
Những đổi mới đầy tính chất táo bạo của Aragon về mặt thể loại ở giai đoạn này kéo
theo các đổi mới không kém phần quan trọng ở cấp độ những biện pháp nghệ thuật tiểu
thuyết cụ thể. Đáng chú ý nhất là sự chuyển dịch không ngừng điểm nhìn của nhân vật
người kể chuyện theo với nhịp biến hóa của hệ thống nhân vật xưng “tôi”. Các điểm nhìn
ấy thường lại được đặt vào những thời điểm khác nhau trên trục thời gian, hiện tại, quá khứ,
thậm chí cả tương lai, nên truyện kể rất sinh động, tuy đọc không quen có phần thấy rối.
Thêm vào đó, còn có sự xuất hiện thường xuyên, trực tiếp của tác giả xưng “tôi” và trò
chuyện với chúng ta, dường như kéo chúng ta ra ngoài tiểu thuyết, tạo nên hiệu quả gián
cách, tuy đấy vẫn là một bộ phận hợp thành của tiểu thuyết. Thậm chí, trong Sân khấu/Tiểu
thuyết, tác giả xuất hiện trực diện, tập trung suốt phần thứ hai của tác phẩm, trở thành môộ
trong hai nhân vật chính: Diễn viên và Nhà văn, tuy hai con người đó thực ra cũng chỉ là
một.
Tiểu thuyết Tuần lễ thánh ghi một mốc quan trọng trên con đường diễn biến tư tưởng và
nghệ thuật của Aragon. Tiểu thuyết này phát triển đầy đủ những đặc trưng của giai đoạn
Thế giới thực tại đồng thời báo trước nhiều cách tân táo bạo của giai đoạn bốn tiểu thuyết
cuối cùng.
Tuần lễ thánh gồm 16 chương xây dựng trên bối cảnh “tuần lễ thánh” năm 1915, tức là
tuần lễ sát ngay trước ngày chủ nhật lễ Phục sinh. Tuần lễ thánh là loại tiểu thuyết “nêu vấn
đề” và dùng hình thức viết lách để tìm lời giải đáp. Tác phẩm giống như một bài toán phức
tạp với các dữ kiện ban đầu bày ra đó. Các nhân vật là những kẻ bị ném vào trong cuộc
chưa biết rồi mình sẽ đi đến đâu, độc giả càng khó đoán định chắc chắn, vì ngay tác giả

cũng chẳng may mắn nhìn xa thấy rộng gì hơn. Tác giả không biết trước tiểu thuyết sẽ kết
thúc ra sao và số phận các nhân vật của ông cuối cùng thế nào. Tiến trình của tiểu thuyết
chính là nỗ lực của nhà văn, và của cả nhân vật để tìm ra lời giải đáp cho bài toán ấy. “Viết
…là một cách suy nghĩ” - Aragon từng nói như vậy. Tuần lễ thánh không phải là một tiểu
thuyết luận đề cơ bản đã hình thành sẵn trong dự đồ của nhà văn ngay từ đầu.
Aragon đã tìm được một đề tài thích hợp cho việc thể hiện cách viết mới. Nhân vật
chính là Theodore Gericault đứng trước ngã ba đường buộc phải có sự lựa chọn và thời
gian cũng không cho phép chần chừ. Gericault đắn đo và do dự. Tất cả diễn ra trong một
tuần lễ, bảy ngày ngắn ngủi nhưng là cả chuỗi thời gian dài như vô tận đối với Gericault, vì
trong mấy ngày ấy chàng đang phải đi suốt con đường quanh co dài dằng dặc trong thế giới
tâm tư. Cũng như thời gian, không gian tiểu thuyết của Tuần lễ thánh hạn hẹp hơn rất nhiều
so với các tác phẩm khác của Thế giới thực tại. Khung cảnh tiểu thuyết chủ yếu thu lại ở
đoạn đường trên hai trăm kilômet một chút từ Pari thẳng hướng Bắc đến Lille. Đoạn đường
không xa với khoảng thời gian không dài có tác dụng nghệ thuật làm nổi rõ tâm lí căng
thẳng của Gericault với bao khúc quanh co mà chàng phải vất vả lắm mới tìm ra lối thoát.
Trong Tuần lễ thánh, Aragon cố giữ ngòi bút khách quan, không can thiệp khi miêu tả
tâm tư, tình cảm của những nhân vật hết sức khác nhau, trước hết là Gericault. Hơn nữa,
115

dường như nhà văn thông cảm với mọi băn khoăn do dự của nhân vật này, các khúc mắc
của Gericault có thể nói cũng là những day dứt của bản thân ông.
Hình tượng nhân vật phức tạp
Theodore Gericault với những day dứt nội tâm được bố trí trong một hệ nhiều trục tọa độ
khiến cho nhân vật càng nổi bật tính chất phức tạp và bề dày nghệ thuật đáng kể.
Trước hết là “trục các nhân vật khác”. “Tuần lễ thánh” không phải chỉ là chuyện anh
lính ngự lâm pháo thủ Gericault. Một nhà nghiên cứu nhận xét chí lí rằng, nhân vật chính
của tiểu thuyết này là “Lịch sử. Lịch sử từng làm đảo lộn nước Pháp năm 1815”. Do đó
không thể nói đến Gericault mà bỏ qua nhiều nhân vật khác cũng như chàng bị ném vào
trong cơn bão tố, cũng trải qua những day dứt nội tâm và quyết định sự lựa chọn theo cách
riêng.

Hầu tước De La Grange, thống chế Macdonald, đức cha Elisee, anh chàng Charles
Ferdinand…mỗi nhân vật mang một giọng điệu riêng, độc lập, tự nó. Mỗi nhân vật là một
“cái tôi” riêng biệt và nhà văn khẳng định “cái tôi” của người khác, không phải như một
khách thể mà như một chủ thể khác. Hệ thống nhân vật phức tạp ấy soi sáng cho những
diễn biến tâm tư của Gericault, tạo thành cái nền cho nhân vật trung tâm hơn là có tác động
ảnh hưởng.
Trái lại, cuộc họp bí mật ban đêm trong rừng ở Poa của những người thuộc phái cộng
hòa để lại dấu ấn khá sâu sắc trong tâm hồn chàng ngự lâm pháo thủ. Đến gần cuối tác
phẩm, tình cờ chàng gặp một thành viên cuộc họp bí mật ở Poa đêm ấy, và hiểu ra nhiều
vấn đề, hiểu rõ còn có con đường thứ ba ngoài hai con đường đi theo Louis XVIII hoặc ở
lại với Napoleon.
Trục tình yêu và nghệ thuật cũng tham gia vào sự lựa chọn có ý nghĩa quyết định của
Gericault. Tuần lễ thánh không nói đến những cuộc tình duyên của chàng ngự lâm pháo
thủ, nhưng hình ảnh của cô gái Catherine và hình ảnh thoáng qua của Carolin ở vị trí hai
đầu tác phẩm đủ tạo nên một âm hưởng có ý nghĩa. Dừng lại ở phía bên này biên giới,
chàng đã đứng về phía sự sống và tình yêu.
Gericault lại nguyên là một họa sĩ, và chàng cũng tìm thấy thêm lí do để sống, đó là trở
về với nghệ thuật.
Qúa khứ và hiện tại
Nhân vật Theodore Gericault càng sinh động hơn vì còn được nhà văn bố trí trên một
trục khác nữa, trục “quá khứ và hiện tại”. Tiểu thuyết Tuần lễ thánh về cơ bản được kể ở
ngôi thứ ba. Tuy nhiên, về phương diện này, đây đó cũng đã thấy xuất hiện những yếu tố
mới, đó là sự hiện diện trực tiếp của tác giả với các mức độ khác nhau.
Có vài trường hợp trong Tuần lễ thánh, thay thế cho mấy chữ “tác giả” nhà văn tự giới
thiệu mình, người trần thuật xuất hiện dưới hình thức xưng danh “tôi”. Các lần nhà văn
xuất hiện trực tiếp kể trên không phải là những bình luận ngoại đề mà các nhà văn trước kia
đã sử dụng. Cách viết đó góp phần tạo nên phong cách mới mẻ tuy chưa có tác động gì
nhiều đến nội dung tác phẩm và hình tượng nhân vật.
116


Có khi, hình tượng tác giả hoà nhập làm một với hình tượng nhân vật Gericault. Tâm
trạng hai người quyện lấy nhau. Câu chuyện anh lính đồng thời là nghệ sĩ Gericault ở thế kỉ
XIX mang bóng dáng cuộc đời Aragon. Mối liên hệ giữa nhà văn với nhân vật chính còn
được đẩy lên cao hơn nữa, có lúc hầu như không còn ranh giới. Tất nhiên, không thể nói
đến sự trùng khớp hoàn toàn giữa Aragon với nhân vật trung tâm của Tuần lễ thánh. Nhưng
ta không thể phủ nhận có sự bắt gặp giữa Aragon và Gericault, cái băn khoăn day dứt của
người này cũng là nỗi lòng của người kia. Ta không lấy làm lạ nhà văn đã diễn tả những
trăn trở của Gericault hay đến thế. Có chỗ ông sử dụng hình thức độc thoại nội tâm. Nhưng
biện pháp nghệ thuật được ông ưa dùng hơn là ngôn từ nửa trực tiếp của người trần thuật.
Sự kiện lịch sử trong Tuần lễ thánh là có thật. Hầu như tất cả các nhân vật có tên tuổi
trong tiểu thuyết đều là những con người có thật trong lịch sử thời kì đó, kể cả nhiều nhân
vật phụ. Têôđo Gericault (1791 – 1824) là một họa sĩ có thật. Thế nhưng Tuần lễ thánh
không phải là một tiểu thuyết lịch sử. Chính nhà văn đã cẩn thận ghi rõ như thế ở đầu tác
phẩm. Ông nắm thật vững lịch sử với từng chi tiết cụ thể để làm chỗ dựa cho trí tưởng
tượng bay bổng và sáng tạo.
Aragon viết trong Tôi lật ngửa quân bài: “Lịch sử theo niên đại, hời hợt, không đủ để tạo
nên cái sâu sắc mà người ta gọi là tiểu thuyết. Ở đây cần phải bịa đặt, sáng tạo, nghĩa là
nói dối. Nghệ thuật của tiểu thuyết là biết nói dối”
Quá khứ và hiện tại đan lồng với nhau trong Tuần lễ thánh. Tìm về đề tài lịch sử nhưng
chính là tác giả muốn tìm lời giải đáp cho hướng đi đối với cả một thế hệ người Pháp đầy
băn khoăn khi bước vào nửa sau của thế kỉ XX trước bao biến cố xảy ra khắp nơi ở bên
trong cũng như bên ngoài biên giới. Tuần lễ thánh không phải loại tiểu thuyết ám chỉ. Dựa
vào quá khứ, nhà văn bàn chuyện hôm nay và cả chuyện ngày mai. Gần kết thúc tác phẩm,
một lần nữa ông bước ra ngoài câu chuyện để nói trực tiếp với bạn đọc: “Có lẽ quyển sách
này hướng về quá khứ một cách giả tạo, một cách thuần túy bên ngoài, chỉ là một cuộc gia
công nỗ lực của tôi để tìm kiếm tương lai…Có lẽ tôi lao mình vào đám đông của một thời
đã khuất để tìm kiếm “mùa xuân của các nghĩa trang” mà người ta gọi là tương lai”. Nhiều
nhà nghiên cứu nhận xét Tuần lễ thánh là một tác phẩm trong đó tương lai choán nhiều chỗ
hơn quá khứ.
Aragon viết trong Tôi lật ngửa quân bài: “Tuần lễ thánh không phải là sự khước từ

phương pháp của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa mà là một bước phát triển của
phương pháp này”.
Hướng dẫn học tập
 Ghi nhớ chủ yếu (tóm tắt)
Louis Aragon là một nhà văn nhà thơ cộng sản thứ thiệt ở Tây Âu. Nhưng là một
cây bút cộng sản sống giữa một nền văn học tư sản tự do.
Điều đó khác biệt với các nhà văn Nga xô viết (xem lại giáo trình Văn học Nga) ở
khá nhiều điểm. Trước hết là sự tự do lựa chọn phương pháp sáng tác. Nhờ thế Aragon hòa
mình được vào nền văn học tư sản Tây Âu.
117

Thời thanh niên, là một người lính Pháp, Aragon làm tròn nghĩa vụ đối với đất
nước, nhưng đồng thời cũng mơ hồ cảm thấy tính chất phi lí của cuộc chiến tranh này (Đại
chiến thế giới I) và bao điều ngang trái khác hằng ngày diễn ra trong xã hội, tiếng súng im
lặng rồi nhưng sự khủng hoảng tinh thần chỉ càng trầm trọng thêm bám riết lấy thế hệ thanh
niên chán chường, từ mặt trận trở về. Đó là những kẻ "chết ở tuổi hai mươi". Vấn đề "tìm
đường” trở nên bức thiết với họ.
Aragon còn là nhà thơ tình yêu say đắm của thế kỉ XX.
 Yêu cầu /Chỉ dẫn khác
1/ SV chỉ ra tính chất lạc quan cách mạng của Aragon trong các tác phẩm đã giới thiệu.
2/ Biện pháp nghệ thuật “trục thời gian” có ý nghĩa gì trong sáng tác của Aragon ?
3/ Chỉ ra dự cảm mơ hồ của tác giả về cách mạng XHCN trong tiểu thuyết Tuần lễ thánh .





×