Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Quá trình hình thành một số vấn đề về tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái ở việt nam p3 ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (282.11 KB, 12 trang )


25

chịu tác động của các cơn sốc tạm thời. Cân bằng tập trung vào ổn
định tổng sản phẩm, thay cho cân bằng cán cân thanh toán quốc tế
làm chức năng hấp thụ các cơn sốc, để triệt tiêu tác động của các
thay đổi đột biến lên trên tổng sản phẩm. Tuy vậy, mâu thuẫn của
chính sách có thể xảy ra khi cán cân thanh toán quốc tế cũng được
coi là mục tiêu chính sách. Mâu thuẫn này đặc biệt rõ nét ở các
nước đang phát triển, là những nước thường thiếu dự trữ ngoại tệ.
Nếu vị trí cán cân thanh toán quốc tế tạo nên sự hạn chế thì tỷ giá
hối đoái cần phải được dùng như là công cụ để tạo mục tiêu cán
cân thanh toán quốc tế thay đổi cho ổn định tổng sản phẩm. Mặt
khác khi lạm phát là vấn đề nổi lên hàng đầu thì tỷ giá hối đoái có
thể là chức năng hỗ trợ cho việc ổn định mặt bằng giá cả.
V- Sự can thiệp của nhà nước vào tỷ giá hối đoái:
Việc thực hiện một chế độ tỷ giá linh hoạt vừa phải có sự
kiểm soát với một mức tỷ giá gọi là tỷ giá chính thức được công
bố bởi ngân hàng nhà nước, cùng với một biên độ quy định cho
các mức tỷ giá giao dịch trên thị trường so với tỷ giá chính thức
đòi hỏi chính phủ nói chung và ngân hàng nhà nước nói riêng cần
phải có sự can thiệp điều phối thị trường để duy trì biên độ quy
định trong hoạt động can thiệp đó cần phải chú ý một số vấn đề
sau:
+ Ngân hàng nhà nước luôn phải xác định mình là một
thành phần chủ chốt, thường trực của các giao dịch trên thị trường
liên ngân hàng.
+ Trong công tác điều hành hệ thống tỷ giá hối đoái nói
chung và thị trường ngoại hối nói riêng, ngân hàng nhà nước cần
có sự phân tích rõ ràng giữa hai chức năng: chức năng ngân hàng
đại diện cho nhà nước với chức năng can thiệp thị trường. Trong


đó chức năng ngân hàng đại diện cho nhà nước là để thực hện các
chức năng giao dịch nhằm thanh toán các khoản thu chi của nhà
nước và giao dịc tăng tích luỹ ngoại tệ theo mục tiêu. còn chức
năng can thiệp thị trường là nhằm điều chỉnh tỷ giá hối đoái trên
thị trường.

26

+ Ngân hàng nhà nước phải không ngừng chú trọng việc xây
dựng và tăng cường bộ khung của thị trường ngoại tệ liên ngân
hàng bằng việc tăng số lượng thành viên trên thị trường. Từng
bước cho các tổ chức tín dụng không phải là ngân hàng thương
mại tham gia đầy đủ các nghiệp vụ như kỳ hạn hoán đổi mặc dù
có thể giới hạn ở việc các giao dịch này chỉ được thực hiện voí
các ngân hàng thương mại và ngân hàng nhà nước.
+ Ngân hàng nhà nước và cac bộ ngành phải có kế hoạch dự
tính trước các giao dịch của mình một cách cụ thể và không để
các thành phần kinh tế khác bật ra khỏi thị trường chính thức bằng
cách các giao dịch của nhà nước không chỉ được thực hiện trên thị
trường ngoại tệ liên ngân hàng mà còn phải mở rộng giao dịch
trên khu vực tự do của thị trường.
+ Chú trọng hơn đến việc hoàn thiện và phát triển các công
cụ của thị trường ngoại tệ mà trước mắt là các nghiệp vụ đang
hiện tồn tại như các nghiệp vụ mua bán có kỳ hạn ngoại tệ hoán
đổi bằng các biện pháp cụ thể như: ngân hàng nhà nước, cơ quan
có trách nhiệm; tổ chức báo cáo bồi dưỡng nghiệp vụ ngân hàng,
nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ ngân hàng, nên gấp rút
tổ chức các lớp bồi dưỡng về bản chất và kỹ thuật các nghiệp vụ
hối đoái nói riêng và nhệm cụ nào đó nói chung khi mới được đưa
vào sử dụngđể đảm bảo một sự nhận thức đúng về bản chất cũng

như kỹ thuật nghiệp vụ khi thực hiện.
+ Việc can thiệp của ngân hàng nhà nước và nhằm vào điều
phối các quan hệ cung cầu trên thị trường chứ không nên có sự
can thiệp sâu vào các nghiệp vụ mang tính kỹ thuật của thị
trường.
+ Nâng cao năng lực cho các tác nhân tham gia thị trường
ngoại tệ liên ngân hàng thông qua một số biện pháp cụ thể như:
đặt mạnh trọng tâm vào việc không ngừng đổi mới hệ thống thanh
toán của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng và quan trọng là
ngân hàng nhà nước cả về cơ chế thanh toán và trang thiết bị kỹ
thuật để hạn chế về thanh toán qua nhiều :

27

trung gian mà trước hết là hệ thống thanh toán nội bộ của
chinhs các ngân hàng, các tổ chức tín dụng.
+ Bổ sung vào cơ chế điều hành tỷ giá mới một nội dung hết
sức quan trọng vào đầu năm, ngân hàng nhà nước vào công bố tỷ
giá hối đoái danh nghĩa hàng năm, hàng quý trên cơ sở điều chỉnh
mức tỷ giá giao dịch thực té bình quân của thị trường ngoại tệ
lieen ngân hàng được xác lập theo cơ chế mới. Dựa vào đó các cơ
quan chức năng có đầy đủ căn cứ để xác lập cân đói lớn, vĩ mô
của nền kinh tế.
+ Mục đích can thiệp của ngân hàng trung ương không hoàn
toàn giống nhau, điều này phụ thuộc vào tình hình, ý đồ chiến
lược của mỗi nước, ngay ở một quốc gia thì mục đích can thiệp ở
mỗi thời kỳ cũng khác nhau. Để thực hiện điều chỉnh tỷ giá hối
đoái đã và đang tồn tại nhiều phương pháp khác nhau, sau đây là
một vài phương pháp phổ biến:
1- Phương pháp lãi suất chiết khấu:

Đây là phương pháp thường được sử dụng để điều chỉnh tỷ
giá hối đoái trên thị rường. Với phương pháp này, khi tỷ giá hối
đoái đạt đến mức "báo động" cần phải can thiệp thì ngân hàng
trungương nâng cao lãi suất chiết khấu. Do lãi suất chiết khấu
tăng, lãi suất cho vay trên thị trường cũng tăng lên. kết quả là vốn
vay ngắn hạn trên thị trường thế giới sẽ dồn vào để thu lãi cao
hơn. Nhờ thế mà sự căng thẳng về nhu cầu ngoại tệ sẽ bớt đi, tỷ
giá hối đoái không có cơ hội để tăng nữa. Vào năm 1971 đến năm
1973 USD rơi vào khủng hoảng. Tổng thống Mỹ Nich-xơn đã
phải áp dụng những biện pháp khẩn cấp để cứu nguy cho USD
banừg cách tăng lãi suất chiết khấu lên rất cao để thu hút vốn
ngắn hạn trên thị trường tiền tệ quốc tế. Tuy nhiên chính sách lãi
suất chiết khấu cũng có những hạn chế nhất định, vì quan hệ giữa
lãi suất và tỷ giá chỉ là quan hệ tác động qua lại gián tiếp, chứ
không phải quan hệ trực tiếp nhân quả.
2- Các nghiệp vụ thị trường hối đoái:
Thông qua các nghiệp vụ mua bán ngoại tệ điều chỉnh tỷ giá
hối đoái là một trong những biện pháp rất quan trọng của nhà

28

nước để giữ vững sự ổn định sức mua của đồng tiền quốc gia.
Đây là biện pháp trực tiếp tác động vào tỷ giá hối đoái.
Đây là hoạt động mang tính chủ quan, do vậy việ lựa chọn
các thời điểm cần mua bán ngoại tệ trên thị trường với tỷ giá nào
để đạt được mục tiêu điều chỉnh có ý nghĩa quyết định. Để nắm
được một cách đầy đủ tình hình cung cầu ngoại tệ trên thị trường,
nagỳ nay nhiều nước trên thế giới đã và đang tổ chức các thị
trường ngoại tệ liên ngân hàng.
Để thực hiện có hiệu quả biện pháp này, một trong những

điều kiện không thể thiếu được cho bất kỳ quốc gia nào là cần
phải thường xuyên có một lượng dự trữ ngoại tệ dư sức để can
thiệp vào thi trường khi cần thiết.
3- Quỹ dự trữ bình ổn hối đoái:
Trong điều kiện tình hình giá cả thị trường luôn không ổn
định, thậm chí xảy ra những biến động lớn, các nước thường sử
dụng quỹ dự trữ bình ổn hối đoái như là một trong những công cụ
để điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Nguồn vốn để hình thành quỹ
thường là:
+ Phát hành trái khoán kho bạc bằng tiền quốc gia.
+ Sử dụng vàng để lập quỹ dự trữ bình ổn hối đoái. Theo
phương pháp này, khi cán cân thanh toán quốc tế bị thâm hụt, quỹ
sẽ đưa vàng ra bán thu ngoại tệ về để cân bằng cán cân thanh
toán.
4- Vốn để phá giá đồng tiền:
Phá giá đồng tiền là việc nâng cao hoặc hỉam thấp sức mua
của đồng tiền đối với các ngoại tệ. Kết quả của phá giá đồng tiền
sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ giá hối đoái. Trên thế giới, việc phá
giá đồng tiền thường được sử dụng ở những nước có tiềm lực
kinh tế dồi dào, nhưng phải đối đầu với suy thoái kinh tế đi đôi
với lạm phát trầm trọng.
Trên đây là một số công cụ mà nhà nước sử dụng để tác
động vào tỷ giá hối đoái nhằm mục đích cao nhất: duy trì sự ổn

29

định của tỷ giá hối đoái, ổn định sức mua của đồng tiền, kiềm chế
và đẩy lùi lạm phát, góp phần vào việc thực hiện các mục tiêu
kinh tế xã hội đã dự kiến.
CHƯƠNG II: Chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt nam

I- Nhìn lại cơ chế điều hành tỷ giá VIệt nam
Trong quan hệ với các nước thuộc khối XHCN trước đây, tỷ
giá của Việt nam được tính theo đồng Rúp clearing(sau này đổi là
rúp chuyển khoản- transferable ruble) đồng tiền ghi sổ dùng trong
thanh toán mậu dịch giữa các nước thuộc khối XHCN tự quy định
với nhau để làm sao cho tài khoản các bên, sau khi trao đổi ngoại
thương theo khối lượng đã được quy định trong hiệp định ký kết
vào đầu năm thì cuối năm không còn số dư. Đặc trưng của chế độ
tỷ giá Việt nam trong thời kỳ này là cố định, đã bộc lộ nhiều mặt
bất hợp lý, nó không những không thể hiện vai trò điều tiết tỷ giá
hối đoái trong việc cân bằng cán cân thanh toán, điều tiết tái sản
xuất mà còn kìm hãm các hoạt động kinh tế đối ngoại của nước ta
là nghuyên nhân dẫn đến tình trạng trì trệ kinh tế trong một thời
gian dài.
Từ năm 1989 trở về sau cho đến nay, nhà nước ta đã có
những chủ trương và giải pháp đổi mới trong quan hệ đối ngoại,
và chính sách tỷ giá đã từng bước xoá bỏ cơ chế độc quyềnngoại
thương, cho phép các tổ chức kinh tế được phép xuất nhập khẩu
trực tiếp với nước ngoài. Số lượng các công ty được trực tiếp kinh
doanh xuất nhập khẩu không ngừng tăng lên, cùng với việc mở
rộng ngoại thương chế độ tỷ giá cũng có những thay đổi căn bản;
chuyển sang cơ chế quản lý kinh tế mới bản thân cơ chế điều hành
tỷ giá hối đoái đã được nhanh chóng thay đổi phù hợp với bối
cảnh thực tế. Từ một cơ chế đa tỷ giá, mang nặng tính chủ quan
bao cấp, xa rời với thị rường; tỷ giá hối đoái đã được điều chỉnh
theo các quan hệ và điều kiện của các quy luật kinh tế thị trường.
Cơ chế một tỷ giá linh hoạt, có sự điều tiết của nhà nước đã phát
huy được vai trò vừa là một phạm trù kinh tế vận động theo quy
luật cung cầu của nền kinh tế vừa là một công cụ điều tiết vĩ mô
quan trọng của nhà nước. Nhà nước đã áp dụng chính sách tỷ giá

linh hoạt có sự quản lý của nhà nước nhưng việc điều hành của

30

nhà nước trong từng năm có khác nhau, ta có thể chia ra 3 giai
đoạn:
1- Giai đoạn thả nổi tỷ giá: 1989-1993
Trong giai đoạn này, tỷ giá hối đoái VND/USD thể hiện qua
bảng 1 dưới đây:
Bảng 1: Tỷ giá và lạm phát của Việt nam qua các năm 1989-
1993

Tỷ giá USD/VND
Năm
Giá chính
thức nhà
nước
Gía thị
trường tự
do
Tăng giảm
%
Lạm phát

1989 4.200 4.570 +8,80 +34,70
1990 6.650 7.550 +13,50 +67,50
1991 12.720 12.550 - 0,02 +68,00
1992 10.720 10.550 - 0,02 +17,50
1993 10.835 10.736 - 0,01 +5,20
Bảng số liệu trên cho chúng ta thấy, tỷ giá VND/USD qua

các năm có biến động lên xuống. Tuy nhiên tổng quát mà nói,
trong khoảng thời gian này, tỷ giá VND/USD có khuynh hướng
tăng và được nhà nước điều chỉnh sát với giá thị trường tự do,
điều này chứng tỏ nhà nước bắt đầu thả nổi tỷ giá, quan hệ cung
cầu ngoại tệ đã được quan tâm đầy đủ hơn, tuy nhiên sự thả nổi tỷ
giá đã:
+ Kích thích tâm lý đầu cơ ngoại tệ, nhằm mục đích hưởng
chênh lệch giá.
+ Tình trạng tỷ giá thường xuyên đột biến và thiếu ngoại tệ
đã gây nên những cơn sốc USD làm mất ổn ddịnh nền kinh tế.

31

+ Quản lý ngoại tệ của chính phủ không đạt được kết quả
như mong muốn.
+ Nhà nước không kiểm soát được lưu thông ngoại tệ.
Tình trạng leo thang của giá đồng Đôla đã kích thích tâm lý
dự trữ Đôla. Ngoại tệ vốn đã khan hiếm lại không được dùng cho
hoạt động xuất nhập khẩu mà còn bị buôn bán vòng vèo giữa các
tổ chức trong nước. Mọi cố gắng quản lý ngoại tệ của chính phủ ít
đem lại kết quả, thậm chí có những quyết định của chính phủ về
quản lý ngoại tệ đã bị mất hiệu lực ngay khi vừa mới công bố.
Giai đoạn này, ngân hàng không kiểm soát được lưu thông ngoại
tệ.
Trước tình hình đó, từ năm 1992 chính phủ đã chọn con
đường thay đổi cách quản lý ngoại tệ và đổi mới cơ chế điều hành
tỷ giá hối đoái VND/USD. Nội dung chính của những thay đổi về
chính sách và cơ chế nêu trên là:
+ Thay thế biện pháp hành chính, bắt buộc các đơn vịkinh tế
quốc doanh có ngoại tệ phải bán cho ngân hàng theo tỷ giá ấn

định băngf biện pháp kinh tế: mở trung tâm giao dịch ngoại tệ để
cho các doanh nghiệp và ngân hàng trao đổi mua bán ngoại tệ với
nhau theo giá thoả thuận.
+ Bãi bỏ hình thức quy định tỷ giá nhóm hàng trong thanh
toán ngoại thương giữa ngân sách với các tổ chức kinh tế tham
gia xuất nhập khẩu. Thay vào đó, trên cơ sở tỷ giá hình thành tại
các phiên giao dịch ngoại tệ, ngân hàng nhà nước công bố tỷ giá
chính thức.
Cơ chế hình thành và quản lý tỷ giá hối đoái mềm dẻo như
vậy cộng với sự can thiệp điều tiết của ngân hàng nhá nước đối
với lượng ngoại tệ mua bán tại các phiên giao dịch đã giải toả
được tâm lý đầu cơ ngoại tệ, ngăn được xu hướng tăng quá mức
giá Đôla Mỹ trên thị trường. Từ tháng 3/1992 giá USD bắt đầu
giảm.
2- Giai đoạn cố định tỷ giá 1993 - 1996:
Bảng 2: Lạm phát và tỷ giá Việt nam qua các năm 1993-1996

32


Năm Tỷ giá
USD/VND

So sánh %
năm trước
Tốc độ lạm
phát
1993 10.835,00 100,00% 5,2%
1994 11.050,00 +1,98% 14,4%
1995 11.040,00 0% 12,7%

1996 11.060,00 +0,18% 4,5%
(số liệu lấy từ tập san khoa học ngân hàng tháng 7/1995 đến tháng
12/1995 và từ số 1/1996 đến tháng 12/1996 và từ tháng 1/1997
đến tháng 12/1997)
Do tỷ giá chính thức của nhà nước và tỷ giá thị trường tự do
trong thời gian này không chênh lệch nhiêù nên chúng ta chọn tỷ
giá chính thức của nhà nước làm cơ sở tính toán. qua bảng số liệu
(bảng2), chúng ta thấy tốc độ tăng tỷ giá hối đoái chậm hơn tốc
đọ tăng của lạm phát vì phụ thuộc vào quan hệ cung cầu ngoại tệ,
vào cụm các nhân tố đối ngoại.
Việc duy trì tỷ giá ổn định trong thời gian dài (1993 - 1996_
đã không khuyến khích được xuất khẩu đã làm cho ngoại thương
kém phát triển biểu hiện cụ thể qua bảng 3 sau đây:

Bảng 3: Số liệu xuất nhập khẩu qua các năm (đơn vị tính: triệu
USD)

Năm Xuất khẩu Nhập khẩu So sánh
1 2 3 4 =3 - 2
1993 2.985 3.924 - 939
1994 4.054 5.825 - 1.771
1995 5.448,9 8.155,4 - 2.706,5
1996 7.255 11.143 - 3.888
(số liệu lấy từ nguồn thời báo kinh tế Sài gòn của UBND Thành
phố HCM qua các năm 1996-1997-1998)
Tình trạng nhập siêu liên tục trong giai đoạn này đã tác
động xấu đến xuất khẩu và khuyến khích nhập khẩu, gây thâm hụt
cán cân thương mại dẫn tới tình trạng hặc phải tiêu giảm dự trữ

33


ngoại hối quốc gia, hặc phải vay nợ nước ngoài để bù đắp cán cân
thanh toán. Tuy cơ cấu nhập khẩu có thay đổi, tỷ trọng nhập máy
móc thiết bị công nghệ này càng tăng, nhưng nhập siêu vẫn kéo
dài làm đất nước lún sâu vào nợ nần, khó khăn cho nền tài chính
quốc gia.
Trở lại bảng 2, ta thấy qua 4 năm phát triển kinh tế đất nước
(1993 - 1996) tốc độ lạm phát tăng tổng cộng là 36,8% trong khi
tỷ giá VND so với USD chỉ tăng 2% đưa đến thực tế giá bán hàng
nội địa đã tăng trên 30% so với hàng nhập ngoại. Hàng nhập
ngoại đã trở nên rẻ hơn và được nhập vào thị trường nước ta với
số lượng lớn cạnh tranh với hàng nội địa, thể hiện qua sự gia tăng
thâm hụt cán thương mại quốc tế của nước ta trong những năm
1993-1996 từ nhập siêu 939 triệu USD năm 1993 lên 1,7 tỷ USD
năm 1994 lên 2,7 tỷ USD năm 1995 lên 3,8 tỷ USD năm 1996 .
Đứng trước tình hình đó, ngay từ năm 1997 cho đén nay nhà
nước đã có những chỉ đạo:
+ Chỉ đạo xử lý nợ quá hạn từ năm 1994, hạn chế kịp thời
tình trạng mở LC thanh toán tràn lan và cuối năm 1996 thông qua
khống chế mức mở LC At Sight là chủ yếu, hạn chế mở LC trả
chậm, xem xét cho nhập khẩu những mặt hàng cần thiết chủ yếu
là những mặt hàng về tư liệu sản xuất, dựa vào huy động vốn
trung và dai hạn ngày càng được nâng cao và huy động vốn bằng
mọi biện pháp thông qua mức ký quỹ bắt buộc.
+ Điều hành tỷ giá linh hoạt theo tín hiệu của thị trường.
3- Quá trình đi tới một chính sách tỷ giá hối đoái tự chủ theo
cơ chế thị trường (1992 - 1997)
Vào thời điểm cuối năm 1992, do kết quả sự can thiệp của
ngân hàng nhà nước vào thị trường ngoại tệ, tỷ giá VND/USD
dần dần ổn định khiến cho lượng ngoại tệ của các doanh nghiệp

được giải toả khỏi yếu tố đầu cơ, hướng mạnh vào kinh doanh
xuất nhập khẩu. Đồng thời ngoại tệ từ bên ngoài vàonhiều nên
kinh doanh cung cầu ngoại tệ đảo ngược so với cùng kỳ mội năm,
giá Dola giảm mạnh, mức giá phổ biến trên thị trường tư nhân Hà
nội năm 1993 là 10.300 đến 10.400.

34

Tình trạng giá USD giảm mạnh đã ảnh hưởng xấu đến xuất
khẩu và kích thích nhập khẩu quá mức, nên ngân hàng nhà nước
lại phải can thiệp nhằm tăng giá đồng USD. Trong hầu hết các
phiên giao dịch của quý I năm 1993, hệ thống ngân hàng phải
mua Dola vào nhằm ngăn chặn xu hướng giảm giá của đồng tiền
này. Từ tháng 3/1993 USD đã lên giá dần và duy trì xu hướng lên
giá một cách ổn định (ở đây nói về tỷ giá danh nghĩa VND/USD).
Tháng 10/1994 khi thị trường ngoại tệ đã phát triển đến một
giai đoạn nhất định, xét trên khía cạnh phạm vi cũng như cơ cấu
tổ chức, hai trung tâm giao dịch ngoại tệ không còn phù hợp. Số
lượng ngân hàng tham gia vào giao dịch tăng nhanh. Phạm vi và
cường độ giao dịch cũng ngày càng phát triển và mở rộng. Trước
tình hình mới Ngân hàng Nhà nước đã cho phép thị trường ngoại
tệ liên Ngân hàng ra đời, thay thế hoạt động của hai trung tâm
giao dịch. Bởi thị trường liên Ngân hàng có qui mô lớn hơn và
mang tính thị trường khách quan, linh hoạt hơn, tỷ giá hối đoái và
cơ chế điều hành của Ngân hàng Nhà nước cũng càng sát với thực
tế hơn. Đồng thời qua thị trường, Ngân hàng Nhà nước có thể bắt
nắm được nhu cầu tổng thể của nền kinh tế về ngoại tệ trong từng
thời kỳ, điều tiết kịp thời tỷ giá hối đoái. Ngân hàng Nhà nước đã
thông qua thị trường liên Ngân hàng để nắm bắt tín hiệu của tỷ
giá hối đoái, sử dụng tỷ giá chính thức công bố hàng ngày và biên

độ qui định tỷ giá giao dịch cho các Ngân hàng thương mại làm
công cụ hỗ trợ, can thiệp và điều hoà hướng tỷ giá thị trường theo
mục tiêu của chính sách tỷ giá và chính sách tiền tệ. Thực lực của
Ngân hàng Nhà nước về ngoại tệ cũng đã tăng lên, tỷ giá đã phản
ánh tương đối khách quan sức mua của đồng tiền Việt Nam và
quan hệ cung - cầu ngoại tệ của nền kinh tế, đủ điều kiện cho
phép Ngân hàng Nhà nước dần dần nới hơn đối với cơ chế điều
hành tỷ giá. Thực tế tỷ giá chính thức đã được điều chỉnh ngày
một linh hoạt, theo sát với thực tế và biên độ giao dịch cho các
Ngân hàng thương mại đã được mở rộng liên tục ( tử # 0,5% , +_
0,1% đến #5% so với tỷ giá chính thức )
* Tóm lại từ năm 1989, tỷ giá hối đoái kế hoạch bao cấp đã
bị xoá bỏ và chuyển sang trạng thái nổi cho đến cuối năm 1991.
Từ năm 1992 đến nay, tỷ giá hối đoái được hình thành theo

35

phương pháp ổn định có điều chỉnh, nhìn chung, tỷ giá hối đoái
đã có những bước tiến lớn so với trước: chênh lệch giữa tỷ giá hối
đoái qui định và tỷ giá hối đoái thị trường ngày càng nhỏ ( điều
đó chứng tỏ khả năng chi phối của Ngân hàng trung ương đối với
tỷ giá hối đoái ), mức tỷ giá hối đoái đã phản ánh giá trị ngoại tệ
và quan hệ cung cầu.
Qua quá trình điều hành tỷ giá hối đoái và thực tế nền kinh
tế nước ta, chúng ta có thể khẳng định tính hợp lý tương đối
khách quan của chính sách tỷ giá và cơ chế điều hành trong thời
gian qua là phù hợp với quá trình vận động và phát triển của nền
kinh tế, phù hợp với thực tế Việt Nam. Tuy nhiên, với xu hướng
ngày càng phát triển của nền kinh tế theo hướng thị trường cần
xem xét kỹ lợi và hạn chế trong cơ chế điều hành tỷ giá hiện nay

để đưa ra giải pháp tối ưu trong thời gian tới.
4. Giai đoạn điều hành tỷ giá linh hoạt có sự điều tiết của
Nhà nước từ năm 1997 đến nay.
Giao dịch trên thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng cũng như
thị trường ngoại tệ nói chung bị giảm sút. Thực tế sáu tháng cuối
năm 1997 nhu cầu mua ngoại tệ luôn cao hơn nhu cầu bán ngoại
tệ và hoạt động của thị trường lúc ngưng trệ. Doanh số mua 6
tháng cuối năm 1997 đạt 2,5 tỷ USD, giảm 5% so với 6 tháng đầu
năm 1997, doanh số bán đạt 2,6 tỷ USD giảm 1% so với 6 tháng
đầu năm 1997, nhiều doanh nghiệp không mua được ngoại tệ đã
phải mua với giá cao và chịu lỗ rất lớn do tỷ giá tăng đột biến.
Ngoại tệ tăng giá mạnh đã làm tăng nhu cầu vay vốn VNĐ do lãi
xuất thấp hơn và không chịu rủi ro về tỷ giá đã gây mất cân đối
cung cầu VNĐ trên thị trường.
Nhà nước ta đã mở rộng liên độ giao dịch của các Ngân
hàng thương mại từ 1% đến 5% rồi đến 10%. Những giải pháp
này cũng đã kịp thời góp phần giảm sức ép đối với tỷ giá hối đoái
VNĐ
Năm 1997 dư nợ LC ngắn hạn chỉ còn gần 700 triệu USĐ so
với 1,4 tỷ USĐ vào tháng 6 năm 1996. Tuy nhiên cuộc khủng
hoảng tiền tệ ở khu vực châu á đã ảnh hưởng gây sức ép VNĐ do

36

yếu tố đầu cơ của thị tường, đã đẩy tỷ giá ở thị trường tự do tăng
mạnh có lúc lên đến 14600 VNĐ/USĐ
Nhìn lại chặng đường đã qua có thể nói rằng năm 1997 là
năm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tiến trình đổi mới và
phát triển của hệ thống Ngân hàng Việt Nam, một năm với những
khó khăn và thử thách trên hầu hết các lĩnh vực Mặc dù có những

tổn thất mất mát nhưng hoạt động Ngân hàng vẫn tiếp tục đạt
được những thành tựu quan trọng, tạo đà thúc đẩy sự phát triển
của hệ thống Ngân hàng Việt Nam trong những năm tiếp theo.
Những kết quả nổi bật này được thể hiện qua một số nội dung.
Góp phần kiềm chế lạm phát ở mức thấp.,Nhưng vẫn đảm
bảo duy trì tăng trưởng kinh tế ở mức nhất định.
- Ngân hàng nhà nước đã chủ động tham mưu cho chính phủ
trong việc điều hành lượng tiền cung ứng trong từng thời kỳ thích
hợp nhằm đáp ứng tốt nhất yêu cầu của nền kinh tế.
Chính sách tỷ giá đã được điều chỉnh từng bước linh hoạt,
một mặt tạo điều kiện cho giá trị VNĐ phản ánh tương đối xác
thực cung cầu ngoại tệ, góp phần kiềm chế lạm phát, một mặt đáp
ứng khả năng hỗ trợ xuất khẩu mặc dù giá cao xu giảm 42% dầu
thô giảm 30% giầy da và may mặc cũng đang giảm mạnh, riêng
mặt hàng gạo trong năm qua bị thiên tai, lũ lụt do cơn bão số 5
gây ra nhưng ta vẫn cố gắng khắc phục và nhanh chóng duyd trì
việc xuất khẩu gạo
-Nguyên nhân nhập siêu trong thời gian qua là do Ngân
hàng điều chỉnh tỷ giá bị đông cứng, đúng là tỷ giá có tác động
lớn đến xuất nhập khẩu bởi nó là giá cả của hoạt động mua ( nhập
khẩu ) và hoạt động bán 9 xuất khẩu ). Tỷ giá đứng ( trên thực tế
là giảm so với biến động giá trong nước ) làm cho bán cũng rẻ mà
mua cũng rẻ. Bán rẻ sẽ không khuyến khích bán, mua rẻ sẽ
khuyến khích mua. Mua thì được khuyến khích, bán thì bị hạn
chế, do đó đưa đến tình trạng nhập siêu. Ngoài ra còn nguyên
nhân khác nữa là định hướng xuất khẩu yếu, tình trạng nhập lậu
tràn lan, trốn thuế chưa được quản lý chặt.

×