Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Quá trình hình thành một số vấn đề về tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái ở việt nam p1 pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (345.99 KB, 12 trang )

A - LỜI MỞ ĐẦU

Tỷ giá hối đoái là một phạm trù kinh tế tổng hợp có liên
quan đến các phạm trù kinh tế khác và đóng vai trò như là một
công cụ có hiệu lực, có hiệu quả trong việc tác động đến quan hệ
kinh tế đối ngoại của mỗi nước, đồng thời là yếu tố cực kỳ quan
trọng đối với chính sách tiền tệ quốc gia. Đã bao thời nay, loài
người đã và đang tiếp tục đứng trước một vấn đề có tầm quan
trọng đặc biệt này và cố gắng tiếp cận nó, mong tìm ra một nhận
thức đúng đắn để từ đó xác định và đưa vào vận hành trong thực
tế một tỷ giá hối đoái phù hợp, nhằm biến nó trở thành một công
cụ tích cực trong quản lý nền kinh tế ở mỗi nước.
Tỷ giá hối đoái, như các nhà kinh tế thường gọi là một loại
"giá của giá" , bị chi phối bởi nhiều yếu tố và rất khó nhận thức,
xuất phát từ tính trừu tượng vốn có của bản thân nó. Tỷ giá hối
đoái không phải chỉ là cái gì đó để ngắm mà trái lại, là cái mà con
người cần phải tiếp cận hàng ngày, hàng giờ, sử dụng nó trong
mọi quan hệ giao dịch quốc tế, trong việc sử lý những vấn đề cụ
thể liên quan đến các chính sách kinh tế trong nước và quốc tế.
Và do vậy, nhận thức một cách đúng đắn và sử lý một cách phù
hợp một cách tỷ giá hối đoái là một nghệ thuật.
Trong điều kiện nền kinh tế thế giới ngày nay, khi mà quá
trình quốc tế hoá đã bao trùm tất cả các lĩnh vực sản xuất kinh
doanh và trong cuộc sống, thì sự gia tăng của hợp tác quốc tế
nhằm phát huy và sử dụng những lợi thế so sánh của mình đã làm
cho việc quản lý đời sống kinh tế của đất nước và là mối quan tâm
đặc biệt của chính phủ các nước trong quá trình phục hưng và
phát triển kinh tế. Việt Nam là một trong những nước như vậy.
Xuất phát từ những lý do trên đây, Em chọn đề tài của mình
là "Một số vấn đề về tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối
đoái ở Việt Nam". Tập đề án được chia làm 2 phần chính.


Những vấn đề lý thuyết chung ( chương I )
Những chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam ( chương II )
Quá trình hình thành một số vấn đề về tỷ
giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái
ở việt nam

2

Do đề ra, chương I sẽ chiếm phần lớn tập đề án. ở chương
II. Và em sẽ cố gắng trình bầy và thể hiện những gì đã đề cập
trong chương I.
Dưới đây em xin trình bầy nội dung đề án của mình.


3

NỘI DUNG
CHƯƠNG I: Những vấn đề lý thuyết chung

I. Tỷ giá hối đoái và sự hình thành tỷ giá hối đoái
1. Tỷ giá hối đoái:
Hầu hết mỗi quốc gia hay một nhóm quốc gia liên kết (như
liên minh Châu Âu) đều có đồng tiền riêng của mình. Việt nam có
tiền đồng (VNĐ) Trung quốc có Nhân dân tệ (CNY), Mỹ có
Dollar (USD).
Mối liên hệ kinh tế giữa các nước, các nhóm nước với nhau
mà trước hết là quan hệ mua bán trao đổi đầu tư dẫn đến việc cần
có sự trao đổi đồng tiền của các nước khác nhau với nhau, đông
tiền này đổi lấy đông ftiền kia, từ đố ta có thể nói rằng: tỷ giá hối
đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ của một nước tính bằn tiền tệ

của một nước khác. Thông thường, thuật ngữ "Tỷ giá hối đoái"
được ngầm hiểu là số lượng đơn vị tiền nội tệ cần thiết để mua
một đơn vị ngoại tệ, tuy nhiên ở Mỹ và Anh được sử dụng theo
nghĩa ngược lại: số lượng đơn vị ngoại tệ cần thiết để mua một
đồng USD hoặc đồng bảng Anh; ví dụ: ở Mỹ 0,8 xu/USD.
Các nhà kinh tế thường đề cập đến hai loại tỷ gia hối đoái:
- Tỷ giá hối đoái danh nghĩa (e
n
): đây là tỷ giá hôí đoái
được biết đến nhiều nhất do ngân hàng nhà nước công bố trên các
phương tiện thông tin đại chúng hàng ngày.
- Tỷ giá hối đoái thực tế (e
r
) được xác định e
r
= e
n
* P
n
/P
f

Pn: chỉ số giá trong nước
Pf: chỉ số giá nước ngoài
Tỷ giá hối đoái thực tế loại trừ được sự ảnh hưởng của
chênh lệch lạm phát giữa các nước và phản ánh đúng swsc mua và
sức cạnh tranh của một nước.
2. Sự hình thành tỷ giá hối đoái
a- Cầu về tiền trên thị trường ngoại hối
Có cầu về tiền của nước A trên thị trường ngoại hối khi dân

cư từ các nước khác mua hàng hoá và dịc vụ được sản xuất ra tại

4

nước A. Một nước xuất khẩu càng nhiều thì cầu đối với đồng tiền
nước đó càng lớn trên thị trường ngoịa hối.
Đường cầu về một loại tiền là hàm của tỷ giá hối đoái của
nó xuống dố phía bên phải, điều này cho thấy nếu tỷ giá hối đoái
càng cao thì hàng hoá của nước ấy càng trở lên đắt hơn đối với
những người n\ớc ngoài và ít hàng hoá xuất khẩu hơn
b- Cung về tiền trên thị trường ngoại hối
Để nhân dân nước A mua được các sản phẩm sản xuất ra ở
nước B họ phải mua một lượng tiền đủ lớn của nước B, bằng việc
dùng tiền nước A để trả. Lượng tiền này của nước A khi ấy bước
vào thị trường quốc tế.
Đường cung về tiền là một hàm của tỷ giá hối đoái của nó,
dốc lên trên về phía phải. Tỷ giá hối đoái càng cao thì hàng hoá
nước ngoài càng rẻ và hàng hoá ngoại được nhập khẩu ngày càng
nhiều.
Các tỷ giá hối đoái được xác định chủ yếu thông qua các lực
lượng thị trường của cung và cầu. Bất kỳ cái gì làm tăng cầu về
một đồng tiền hoặc làm giảm cung của nó đều có xu hướng làm
cho tỷ giá hối đoái tăng lên. Bất kỳ cái gì làm giảm cầu về một
đồng tiền hoặc làm tăng cung đồng tiền ấy trên các thị trường
ngoại hối sẽ hướng tới làm cho giá trị trao đổi của nó giảm xuống
ở hình vẽ dưới, ta thấy được tỷ gía hối đoái cân bằng L
o
của đồng
Việt Nam và đồng USD Mỹ thông qua giao điểm S và D.



L USD
Đ
S


Lo




5

D

Qo Q(đ)

2. Phân loại tỷ giá hối đoái
Trong thực tế tuỳ từng nơi từng lúc khi quan tâm đến một
khía cạnh nào đó của tỷ gía hối đoái người ta thường gọi đến tên
đến loại tỷ giá đó. Do vậy cần thiết phải phân loại tỷ giá hối đoái.
Dựa vào những căn cứ khác nhau người ta chia ra nhiều loại
tỷ giá khác nhau:
a- Căn cứ vào phương tiện chuyển ngoại hối, tỷ giá được
chia ra làm hai loại
-Tỷ giá điện hối mà tỷ gía mua bán ngoại hối mà ngân hàng
có trách nhiệm chuyển ngoại hối bằng điện( telegraphic transfer -
T/T)
-Tỷ giá thư hối: là tỷ giá mua bán ngoại hối mà ngân hàng
có trách nhiệm chuyển ngoại hối bằng thư ( mail transfen M/T)


b- Căn cứ vào chế độ quản lý ngoại hối, tỷ giá hối đoái chia
ra các loại
- Tỷ giá chính thức: là tỷ giá do nhà Nước công bố được
hình thành trên cơ sở ngang giá vàng.
-Tỷ giá tự do là tỷ giá hình thành tự phát trên thị trường do
quan hệ cung cầu qui định .
- Tỷ giá thả nổi là tỷ giá hình thành tự phát trên thị trường
và nhà nước không can thiệp vào sự hình thành và quản lý tỷ giá
này.
- Tỷ giá cố định là tỷ giá không biến động trong phạm vi
thời gian nào đó.

c- Căn cứ vào phương tiện thanh toán quốc tế, tỷ giá được
chia ra các loại:
- Tỷ giá séc là tỷ giá mua bán các loại séc ngoại tệ.

6

- Tỷ giá hối phiếu trả tiền ngay là tỷ giá mua bán các loại
hối phiếu có kỳ hạn bằng ngoại tệ.
- Tỷ giá chuyển khoản là tỷ giá mua bán ngoại hối trong đó
việc chuyển khoản ngoại hối không phải bằng tiền mặt, bằng cách
chuyển khoản qua ngân hàng.
- Tỷ giá tiền mặt là tỷ giá mua bán ngoại hối mà việc chuyển
trả ngoại hối bằng tiền mặt.

d- Căn cứ vào thời điểm mua bán ngoại hối:
- Tỷ giá mở cửa: là tỷ giá vào đầu giờ giao dịch hay tỷ giá
mau bán ngoại hối của chuyến giao dịch đầu tiên trong ngày.

- Tỷ giá đóng cửa: là tỷ giá vào cuối giờ giao dịch hay tỷ giá
mua bán ngoại hối của chuyến giao dịch cuối cùng trong ngày.
- Tỷ giá giao nhận ngay: là tỷ giá mua bán ngoại hối mà việc
giao nhận ngoại hối sẽ được thực hiện chậm nhất trong 2 ngày
làm việc.
- Tỷ giá giao nhận có kỳ hạn: là tỷ giá mua bán ngoại hối
mà việc giao nhận ngoại hối sẽ được thực hiện theo thời hạn nhất
định ghi trong hợp đồng(có thể là 1,2,3 tháng sau).
e- căn cứ vào nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối của ngân hàng
tỷ giá chia ra làm hai loại:
- Tỷ giá mua: là tỷ giá mà ngân hàng mua ngoại hối vào.
- Tỷg ía bán: là tỷ giá mà ngân hàng bán ngoại hối ra.
II- Những nhân tố ảnh hưởng tới tỷ giá hối đoái:
1- Cán cân thương mại: trong các điều kiện khác không đổi
nếu nhập khẩu của một nước tăng thì đường cung về tiền của
nước ấy sẽ dịch chuyển về phía bên phải, tỷ giá hối đoái giảm
xuống; nếu xuất khẩu tăng thì đường cầu về tiền của nước ấy sẽ
dịch chuyển sang trái tỷ giá hối đoái tăng lên.

7

2- Tỷ giá lạm phát tương đối: nếu tỷ lệ lạm phát của một
nước cao hơn tỷ lệ lạm phát của một nước khác thì nước đó sẽ cần
nhiêù tiền hơn để mua một lượng tiền nhất định của nước kia.
Điều này làm cho cung tiền dịch chuyển sang phải và tỷ giá hối
đoái giảm xuống.
3- Sự vận động của vốn: khi người nước ngoài mua tài sản
tài chính, lãi suất có ảnh hưởng mạnh. Khi lãi suất của một nước
tăng lên một cách tương đối so với nước khác thì các tài sản của
nó tạo ra tỷ lệ tiền lời cao hơn và có nhiều người dân nước ngoài

muốn mua tài sản ấy. Điều này làm cho đường cầu về tiền của
nước đó dịch chuyển sang phải và làm tăng tỷ giá hối đoái của nó.
Đây là một trong những ảnh hưởng quan trọng nhất tới tỷ giá ở
các nước phát triển cao.
4- Dự trữ, phương tiện thanh toán, đầu cơ: tất cả đều có thể
làm dịch chuyển đường cung và cầu tiền tệ. Đầu cơ có thể gây ra
những thay đổi lớn về tiền, đặc biệt trong điều kiện thông tin liên
lạc hiện đại và công nghệ máy tính hiện đại có thể trao ddổi hàng
tỷ USD giá trị tiền tệ mỗi ngày.
Trên đây là 4 nguyên nhân cơ bản gây lên sự dịch chuyển
đường cung và cầu trên thị trường ngoại hối. Sự dịch chuyển này
đến lượt nó sẽ gây ra những dao động của tỷ giá hối đoái, và như
vậy phản ứng dây chuyền, những biến động của tỷ giá hối đoái lại
tác động đến nền kinh tế trong nước.
III- Tác động của tỷ giá hối đoái đến nền kinh tế
1-Thực trạng tác động của tỷ giá đối với các lĩnh vực tài
chính, ngân sách thời gian qua.
1.1-Thực trạng quan hệ giữa tỷ giá với ngân sách:
Mọi sự biến động của các loại tỷ giá đều tác động trực tiếp
tới thu chi ngân sách. Trước năm 1990 nhà nước thực hiện chính
sách tỷ giá kết toán nội bộ, mức tỷ giá nhà nước công bố thường
cố định trong thời gian tương đối dài. ở thời điểm công bố mức tỷ
giá thấp hơn nhiều so với mức giá trên thị trường và tình hình sức
mua của đồng tiền tính chung thời kỳ 1985-1988, 1rúp mua trên

8

dưới 1.500VND hàng xuất khẩu, 1USD trên dưới 3.000VND,
trong khi đó tỷ giá kết toán nội bộ thanh toán trong quan hệ xuất
nhập khẩu giữu mức 150VND/Rúp và 225VND/USD. Nhìn

chung 1Rúp hàng xuất khẩu phải bù lỗ 1.350VND và 1USD phải
bù 2.775VND. Kim ngạch xuất khẩu của năm 1987là 650 triệu R-
USD trong đó khu vực đồng Rúp 500 triệu và khu vực đồng USD
150 triệu, Ngân sách nhà nước đã phải bù lỗ 900 tỷ. Đối với các
ngành, các địa phương càng giao nhiều hàng xuất khẩu để thực
hiện nghĩa vụ với bạn, thì ngân sách nhà nước càng phải bù lỗ
nhiều. Ngân sách nàh nước không bù lỗ đủ hoặc chậm trễ trong
việc thanh toán thì công nợ giữa các doanh nghiệp và các ngành
càng tăng và càng thiếu vốn để tiếp tục kinh doanh. Đối với hàng
nhập, thì khi vật tư nguyên liệu thiết bị về nước nhà nước đứng ra
phân phối cho các ngành trong nền kinh tế quốc dân với mức giá
thấp (phù hợp với mức tỷ giá 150 VNĐ/Rúp và 225VND/USD
nêu trên). Như vậy, các ngành, các địa phương được phân phối
các loại vật tư,nguyên liệu đó thì được hưởng phần giá thấp còn
ngân sách nhà nước lại không thu được chênh lệch giá. Việc thực
hiện cơ chế tỷ giá kết toán nội bộ trong thanh toán xuất - nhập
khẩu và bù lỗ hàng xuất khẩu đó là:
- Nếu thực hiện nghiêm trọng nghĩa vụ giao hàng xuất khẩu
cho bạn để có thể đưa hàng nhập về đáp ứng nhu cầu của nền kinh
tế quốc dân, thì mức lỗ của ngân sách cho hàng xuất khẩu lớn gây
trở ngại cho việc điều hành ngân sách - Nếu trì hoãn cho việc thực
hiện nghĩa vụ giao hàng xuất khẩu nhưng trong khi đó vẫn yêu
cầu bạn giao hàng nhập cho ta theo tiến độ, thì việc bù lỗ hàng
xuất khẩu được giảm ở mức độ nhất định, nhưng nghĩa vụ nợ của
ta với bạn lại tăng lên đáng kể.
Tỷ giá qui định thấp nên các tổ chức kinh tế và cá nhân có
ngoại tệ không bán ngoại tệ cho ngân hàng, vì làm như vậy sẽ bị
mất lãi. Các tổ chức đại diện nước ngoài hoặc cá nhân nước ngoài
cũng không chuyển tiền tài khoản ở ngân hàng ở chi tiêu mà
thường đưa hàng từ nước ngoài vào hoặc sử dụng ngoại tệ tiền

mặt trực tiếp trên thị trường. Do đó cơ chế tỷ giá của thời kỳ này
đã trở thành một yếu tố tạo cho ngoại tệ bị thả nổi, mua bán trên
thị trường trong nước. Thực tế này vừa gây thiệt hại về kinh tế

9

cho Nhà nước vừa làm phát sinh thêm những tiêu cực trong đời
sống xã hội. Đồng thời nó tác động trở lại tỷ giá kết toán nội bộ
và làm cho tỷ giá giữa đồng nội tệ giữa các đồng ngoại tệ diễn
biến phức tạp thêm. Từ tình hình trên cho thấy, trước năm 1989 tỷ
giá hối đoái giữa đồng Việt Nam và ngoại tệ do nhà nước qui định
không tính đến biến động giá trên thị trường đang bị trượt ngã
nghiêm trọng, nên đã làm cho mức bù lỗ hàng xuất khẩu trong
ngân sách quá lớn, gây khó khăn trong việc điều hành và quản lý
ngân sách và thực hiện nghĩa vụ giao hàng mà ta đã cam kết với
nước ngoài, ngoại tệ bị rối loạn, Nhà nước không điều hành và
quản lý được.
Tỷ giá hối đoái bị bóp méo so với thực tế đã khiến cho thu
chi ngân sách Nhà nước không phản ánh đúng nguồn thu từ nước
ngoài và các khoản cấp phát của ngân sách Nhà nước cho nền
kinh tế quốc dân và cho các hoạt động khác có sử dụng ngoại tệ.
Việc tạo ra một tỷ giá chính thức tưởng là giữ giá trị đồng
Việt Nam so với ngoại tệ để kế hoạch hoá và ổn định kinh tế,
nhưng thực chất là đẩy xuất khẩu Việt Nam vào ngõ cụt, không
khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu và đẩy mạnh hàng xuất
khẩu, hệ quả là cán cân thương mại bị nhập siêu nghiêm trọng,
ngân sách Nhà nước phải gánh chịu thêm các thua thiệt.
Khi buộc phải thả nổi và phá giá mạnh đã làm cho chi phí
của các doanh nghiệp tăng lên đáng kể và lợi nhuận bị giảm, do
đó mức thu từ thuế lợi tức của các tổ chức kinh tế cho ngân sách

Nhà nước cũng bị ảnh hưởng. Mặt khác, các khoản chi tiêu cho
các cơ quan và tổ chức được Nhà nước cấp cũng được tăng lên
tương ứng với mức mất giá của đồng nội tệ. Tình hình đó đã tác
động đến yếu tố làm tăng bội chi ngân.
Từ năm 1989, cùng với các cải cách kinh tế, tài chính, tiền
tệ, Nhà nước đã bỏ chế độ tỷ giá trước đây (tỷ giá kết toán nội bộ)
, giảm căn bản bù lỗ cho hoạt động xuất - nhập khẩu và thực hiện
chính sách giá sát với tỷ giá thị trường. Ngân hàng nhà nước công
bố tỷ giá chính thức của VNĐ với các ngoại tệ mạnh, nhất là với
USD trên cơ sở đó các ngân hàng thương mại xây dựng và công

10

bố tỷ giá hàng ngày với biên độ chênh lệch cho phép (khoảng 5%)
so với tỷ giá chính thức.
Về mặt ngân sách Nhà nước, chính sách một tỷ giá hối đoái
sát với thị trường khiến cho việc tính toán thu chi Ngân sách Nhà
nước phản ánh trung thực và chính xác hơn, không bị bóp méo.
Tỷ giá đó góp phần làm cho công tác kế hoạch hoá vay nợ và trả
nợ nước ngoài từ ngân sách Nhà nước thuận lợi hơn và có cơ sở
vững chắc hơn.
* Mặc dù có những thành công rất đáng kể trong lĩnh vực tỷ
giá và quản lý ngoại tệ, nhưng vẫn còn một số hạn chế đã làm ảnh
hưởng không tốt đến quản lý, điều hành ngân sách, đó là
- Nguồn ngoại tệ không được quản lý chặt chẽ, còn bị buông
lỏng đã khiến cho lực lượng ngoại tệ của Nhà nước tăng chậm và
chưa tương xứng với mức độ tăng của cán cân thương mại, một
cơ sở của sự ổn định thu chi ngân sách Nhà nước là quĩ ngoại tệ
chưa được tăng cường.
- Vì tỷ giá hối đoái chính thức theo sát tỷ giá thị trường nếu

không ổn định thì không những ngân sách bị động mà việc tính
toán thu chi Ngân sách bằng ngoại tệ theo không kịp thời dẫn tới
không sát với thực tế thị trường, điều hành Ngân sách Nhà nước
không tránh khỏi lúng túng, nhất là trường hợp bị thiếu hụt khi trả
nợ đến hạn đòi phải giải quyết.
1.2: Thực trạng quan hệ tỷ giá và nợ nước ngoài
Tỷ giá có mối quan hệ hữu cơ với nợ nước ngoài và công
tác quản lý nợ. Trước năm 1979, Việt Nam có sử dụng 20tỷ Yên
Nhật tương đương 92 triệu USD (tỷ giá 216 Yên = 1USD). Ngày
6/11/1992 chính phủ Nhật mở lại tín dụng với Việt Nam và cho
Việt Nam vay 20 tỷ Yên, tương đương 159 triệu USD (tỷ giá 126
Yên= 1USD). Ngoài ra, vào thời điểm 1987 trở về trước còn có
các khoản vay các công ty của Nhật 20 tỷ Yên, tương đương 125
triệu USD ( tỷ giá 160 Yên= 1USD). Đầu năm 1995, đồng Yên
lên giá, 1USD chỉ còn 90 Yên là như vậy, xét về góc độ tỷ giá thì
trong thời gian qua sự tăng giá của đồng Yên Nhật, đã làm tăng

11

thêm gánh nặng nợ gốc qui ra USD, làm thiệt thòi cho người đi
vay.
Tương tự như tình hình trên, việc sử dụng vốn vay của các
doanh nghiệp ở nước ta liên quan đến nhiều yếu tố, trong đó tỷ
giá có tác động mạnh đến khả năng thanh toán của các doanh
nghiệp. Trong các năm 1989-1990 có 81 doanh nghiệp vay nợ
nước ngoài theo phương thức tự vay tự trả với doanh số vay là
5722 triệu Yên là 10,9 triệu USD, tỷ giá lúc này là 130
Yên=1USD, do đó tổng vay nợ bằng đồng Yên quy ra USD là 44
triệu USD. Đến năm 1995, do chưa trả được nợ mà đồng yên lại
tăng giá, nên nợ gốc vay tăng từ 44 triệu USD lên 58 triệu USD

(chưa tính đến yếu tố lãi suất tiền vay và tỷ giá giữa đồng Việt
nam và USD). Do tổng hợp nhiều yếu tố, rong đó có yếu tố về tỷ
giá, nên đại bộ phận trong số 81 doanh nghiệp vay vốn theo
phương thức này đều bị sức ép của cả hai loại tỷ giá.
- Tỷ giá giữa Yên và USD (đại bộ phận doanh số vay của
các doanh nghiệp kể trên là vay đồng Yên cuả các công ty Nhật
trong khi đó đồng Yên tăng giá).
- Tỷ giá giữa đồng Việt nam và USD (trong khi đó đồng
Việt nam bị giảm giá).
Sự biến động của tỷ giá cùng các với yếu tố ngoại hối,
nhưng nó có ý nghĩa đặc biệt riêng của nó đối với việc huy động
vốn, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thu chi ngân sách
nhà nước, ổn định kinh tế và xã hội. Ngược lại, vực nợ nước
ngoài nếu không quản lý tốt và không sử dụng có hiệu quả sẽ trở
thành gánh năngk đối với nền kinh tế hiện tại và tương lai, có khi
còn ảnh hưởng đến nền độc lập và chủ quyền quốc gia.
Về vay nợ chính phủ phải có quy chế chặt chẽ quy định
được vay về trách nhệm,nghĩa vụ và quyền hạn của các pháp nhân
kinh tế và pháp nhân công quyền trước các khỏan vay và khỏan
trả nợ. Hiện nay chúng ta có qui định Nhà nước vay Nhà nước trả,
doanh nghiệp vay doanh nghiệp trả, Nhà nước không gánh hộ nợ
doanh nghiệp.

12

Thiếu vốn phải vay, nhưng không phải ai cho vay với điều
kiện nào cũng chấp nhận cả. Phải thấy rằng, nếu tỷ giá hối đoái
đồng Việt Nam hạ, đồng ngoại tệ tăng, thì khoản trả nợ của Ngân
sách Nhà nước của doanh nghiệp sẽ phải tăng , nhưng xuất khẩu
hàng hoá, dịch vụ lại có lợi, đó là một bài toán khó, phải tính xem

lợi ích do xuất khẩu mang lại cho phát triển kinh tế có bù lại được
thiệt hại của số tiền Ngân sách Nhà nước và doanh nghiệp phải trả
nợ cao hơn không?
Vì lẽ đó, chúng ta phải tỉnh táo đàm phán với các chủ nợ khi
vay, không thể chấp nhận bất cứ điều kiện nào và không thể
không nghĩ đến việc trả giá, đặc biệt phải chú trọng đến các vấn
đề chính trị của các khoản vay. Phải thấy được rằng các chủ nợ
cho vay là để lấy lãi chứ không phải làm việc nghĩa. Vấn đề là ơe
chỗ làm thế nào để giải quyết hài hoà giữa lợi ích của bên cho vay
và bên vay. Việc quảnlý nợ khônghcỉ quy định trách nhệm mà
còn phải luôn chú ý tới hiệu quả sử dụng khoản vay. Vì vậy quản
lý đầu tư sử dụng các khoản vay cho các công trình, mục tiêu là
một việc có tầm quan trọng đặc biệt. Các cơ quan tài chính và
ngân hàng phải đặc biệt chú ý tới vấn đề này-vay cho mục tiêu
nào được quản lý theo mục tiêu đó.
Về viện trợ: viện trợ không hoàn lại không nhiều, nhưng
cũng phải được quản lý chặt chẽ. Những khoản viện trợ cuả nước
ngoài cho chính phủ và các cấp chính quyền phải được đưa vào
ngân sách nhà nước để cân đối và sử dụng, không hình thành quỹ
riêng. Tuy các khoản này ngân sách không phải trả lại nhưng là
một nguồn khá quan trọng góp phần giải quyết các vấn đè của đất
nước.
Những khoản tài trợ của các tổ chức quốc tế và cá nhân cho
các dự án ngoài ngân sách và các tổ chức xã hội cũng phải được
chuyển vào ngân sách để quản lý và chỉ cấp phát bằng tiền Việt
nam theo tỷ giá chính thức ở thời điểm sử dụng, không cấp phát
bằng ngoại tệ.
Để đáp ứng yêu cầu trên, chính phủ cần thành lập một tổ
chức trực tiếp quản lý nợ, viện trợ. Cơ quan này không những
nắm các khoản nợ, viện trợ, tài trợ của chính phủ, các cấp chính

×