Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Giáo trình phân tích tính chất pháp lý của thị trường chứng khoán chính thức và phi chính thức p2 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (370.77 KB, 11 trang )


12

cụ thể của một hàng hoá cụ thể đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng
tối thiểu, theo một thời hạn được ấn định trước. Hợp đồng tương lai
còn được chuyển giao theo giá thị trường tức là bất kỳ món lợi nào
cũng được giao nhận hàng ngày. Cụ thể là nếu giá của hàng hoá cơ
sở biến động khác với giá đã thoả thuận (giá thực hiện hợp đồng) thì
bên bị thiệt hại do sự thay đổi giá này phải trả tiền cho bên được lợi
từ sự thay đổi giá đó. Việc thanh toán như thế được tiến hành hàng
ngày.

13


CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN VIỆT NAM HIỆN NAY.

I. MÔ HÌNH THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT
NAM.
1. Về cơ quan quản lý thị trường chứng khoán.
Đối với Việt Nam, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước đã được
thành lập để quản lý và giám sát thúc đẩy cho thị trường phát triển
theo định hướng XHCN và bảo vệ quyền lợi cho các nhà đâu tư.
Đây là bước đi đúng phù hợp với điều kiện của Việt Nam và xu
hướng quốc tế.
2. Về trung tâm giao dịch chứng khoán.
Trung tâm giao dịch chứng khoán tại thành phố Hồ Chí Minh
đã được thành lập. Còn trung tâm giao dịch chứng khoán tại Hà Nội
đang được xem xét thành lập. Hệ thống giao dịch của trung tâm tự
động hoá với trạm làm việc có công suất nhỏ.


3. Về sở giao dịch chứng khoán.
a. Hình thức sở hữu.
Đối với Việt Nam, Sở giao dịch chứng khoán sẽ do Nhà nước
sử hữu, để đảm bảo an toàn, công bằng theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Việc thành lập, đình chỉ hoạt động hoặc giải thể Sở giao dịch
chứng khoán do Thủ tướng chính phủ quyết định theo đề nghị của
Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. Sở giao dịch chứng khoán Việt
Nam là một tổ chức hoạt động không vì lợi nhuận đặt dưới sự quản
lý trực tiếp của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước.
b. Số lượng Sở giao dịch chứng khoán.

14

Để tránh những bất lợi của việc tồn tại nhiều Sở giao dịch
chứng khoán mà các nước đang gặp phải, chúng ta cũng chỉ nên xây
dựng một Sở giao dichj chứng khoán thống nhất với các sàn giao
dịch tại một, hai thành phố được nối mạng với nhau.
c. Địa điểm thiết lập Sở giao dịch chứng khoán.
Sở giao dịch chứng khoán được đặt ở thành phố Hồ Chí Minh
vì hiện nay thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm thương mại tài
chính lớn nhất trong nước và để cho Sở giao dịch phát triển. Với hệ
thống giao dịch điện tử, các công ty môi giới tại Hà Nội vẫn có thể
dễ dàng sẽ được tiếp cận thị trường.
d. Giao dịch ngoài Sở.
Đối với Việt Nam, để công khai hoá tất cả các hoạt động giao
dịch, Nhà nước đang xem xét thành lập Sở giao dịch chứng khoán
tập trung cho tất cả các chứng khoán (kể cả công ty và và nhỏ) có
đủ điều kiện niêm yết, hay không đủ điều kiện niêm yết được mua
bán tại Sở giao dịch chứng khoán. Tuy nhiên, việc giao dịch những

chứng khoán của công ty lớn (đủ điều kiện niêm yết) tách biệt với
khu vực giao dịch những chứng khoán của những công ty vừa và
nhỏ không đủ điều kiện niêm yết.
e. Hệ thống giao dịch.
Việt Nam áp dụng hệ thống ghép lệnh. Hệ thống này đơn giản
cho phép có được giá cả, cạnh tranh tốt nhất nên đang được nhiều
nước mới nổi áp dụng. ở Việt Nam trong thời gian đầu khi thị
trường chưa phát triển, khối lượng giao dịch còn nhỏ, nên áp dụng
phương thức ghép lệnh từng đợt để giảm bớt sự biến động của giá
cả.
g. Mức độ tự động hoá.
Trong điều kiện chi phí cho hệ thống tự động hoá ngày càng có
xu hướng giảm thì Việt Nam cần thiết và sử dụng chương trình tự
động hoá ngay từ đầu. Nếu bắt đầu bằng giao dịch thủ công, sau đó
lại thay thế bằng hệ thống tự động thì sẽ tốn kém. Để tiết kiệm chi

15

phí cho thời gian đầu ở Việt Nam chỉ lắp đặt thiết bị với công suất
xử lý thấp. Các thiết bị lắp đặt ở trạng thái mở để khi khối lượng
giao dịch tăng lên có thể lắp đặt thêm nhằm mổ rộng công suất xử lý
của hệ thống.
4. Về lĩnh vực đăng ký, thanh toán - bù trừ và lưu giữ
chứng khoán.
Hệ thống đăng ký, thanh toán - bù trừ và lưu giữ chứng khoán.
Các chức năng đăng ký, thanh toán, bù trù và lưu giữ được kết hợp
vào một trung tâm duy nhất trong cả nước. Các công ty chứng
khoán và các ngân hàng được cho phép trở thành công ty lưu ký.
5. Về các tổ chức trung gian.
Ở Việt Nam, các ngân hàng chỉ được phép kinh doanh chứng

khoán dưới hình thức thành lập các công ty độc lập, hoạt động tách
rời với kinh doanh tiền tệ. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cho phép cả
các công ty chứng khoán độc lập hình thành từ các công ty tài
chính, các tổng công ty lớn.
Ở Việt Nam các công ty chứng khoán được phép thực hiện tất
cả các hình thức như : bảo lãnh phát hành chứng khoán, môi giới
chứng khoán, tư doanh chứng khoán, tư vấn chứng khoán và quản
lý quỹ đầu tư. Riêng hình thức quản lý quỹ đầu tư, yêu cầu phải
hoạt động tách rời dưới hình thức một công ty độc lập nhằm bảo vệ
lợi ích của những cổ đông của quỹ.
Ngoài ra hiện nay, Nhà nước còn cho phép hai loại doanh
nghiệp tham gia kinh doanh chứng khoán là công ty cổ phần và
doanh nghiệp liên doanh.
Trên thế giới có hai loại quỹ đầu tư chứng khoán chủ yếu là quỹ
đóng, vaf quỹ mở. Trong thời gian đầu Việt Nam dự kiến áp dụng
hình thức quỹ đầu tư chứng khoán dạng quỹ đóng (quỹ không mua
lại cổ phần của cổ đông muốn rút vốn) để đảm bảo an toàn trong
điều kiện khả năng thanh toán của thị trường còn thấp.
6. Về sự tham gia của bên nước ngoài.

16

Việt Nam cho phép bên nước ngoài được sở hữu một tỷ lệ phần
trăm nhất định và cho phép công ty chứng khoán nước ngoài được
liên doanh với công ty chứng khoán trong nước theo một tỷ lệ liên
doanh nhất định.
II. MỘT SỐ HẠN CHẾ CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN VIỆT NAM HIỆN NAY.
Thị trường chứng khoán Việt Nam mới ra đời cho nên không
tránh khỏi có những hạn chế. Thị trường chứng khoán có tầm quan

trọng vốn có của nó cho nền thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ
được quan tâm một cách đáng kể để phát triển một cách hoàn thiện.
Thị trường chứng khoán Việt Nam đang có ít chứng khoán
được giao dịch cả về số lượng và giá trị. Hiện có năm cổ phiếu của
SAM, REE, TMS, HAP và LAFOOCO và trái phiếu của Ngân hàng
đầu tư phát triển cùng với trái phiếu chính phủ đang được giao dịch.
Việc có ít loại chứng khoán được giao dịch là do có ít doanh nghiệp
có đủ điều kiện để niêm yết trên thị trường chứng khoán làm cho
trên thị trường luôn xuất hiện tình trạng cầu lớn hơn cung, giá cả
vượt quá giá trị thực của chứng khoán. Hơn nữa, các lý do còn là
các doanh nghiệp không có nhu cầu vốn để mở rộng sản xuất kinh
doanh hay nếu phát hành cổ phiếu mới thì tỉ lệ nắm giữ cổ phiếu sẽ
giảm và giảm vị trí trong Hội đồng quản trị hay do việc định giá gặp
phải khó khăn vì do tổ định giá của Bộ tài chính tiến hành hay do
Ban lãnh đạo thích vay ngân hàng hơn. Đó còn là do quá trình cổ
phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước chậm hay chưa cổ phần hoá
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Hiện nay các công ty chứng khoán đang bị thua lỗ vì có quá ít
chứng khoán giao dịch cả về số lượng và giá trị. Đó là vì khuôn khổ
pháp lý chưa được nới rộng để các nhà đầu tư nước ngoài có thể
tham gia mua bán chứng khoán. Thông tư của Uỷ ban chứng khoán
Nhà nước từ 29/11/2000 qui định phí dịch vụ môi giới mua, bán
chứng khoán nhỏ hơn hoặc bằng 0,5% giá trị giáo dịch cổ phiếu làm
cho việc hoạt động của các công ty chứng khoán càng khó khăn hơn
do phí giảm đi trong khi có ít chứng khoán được giao dịch trên thị

17

trường. Lãi suất của trái phiếu chính phủ chưa hấp dẫn so với lãi
suất tiền gửi tiết kiệm là nguyên nhân làm cho trái phiếu ít được

giao dịch (lãi suất của trái phiếu chính phủ là 6,5%/năm của đợt
phát hành thứ nhất và 6,6%/năm của đợt phát hành thứ hai).
Thị trường chứng khoán phi chính thức là nơi giao dịch các
chứng khoán của các công ty cổ phần vưà và nhỏ không đủ điều
kiện niêm yết trên thị trường chứng thức. Thị trường chứng khoán
phi chính thức sẽ tạo điều kiện để phát triển thị trường chứng khoán
chính thức. Thế nhưng ở Việt Nam vẫn chưa có thị trường chứng
khoán phi chính thức để các công ty vừa và nhỏ tham gia.
Ở Việt Nam do thị trường chứng khoán nước ta ra đời cho nên
còn thiếu nhiều đội ngũ có kiến thức sâu về thị trường chứng khoán
để công tác tốt trong việc quản lý Nhà nước, trong công tác kinh
doanh chứng khoán, tư vấn kinh doanh chứng khoán và sẵn sàng
chấp nhận rủi ro tham gia thị trường.
Để thị trường chứng khoán hoạt động lành mạnh lâu dài thì cần
thiết phải có các qui định pháp luật đúng đắn về lĩnh vực chứng
khoán. Nhưng ở Việt Nam, hệ thống pháp luật về thị trườngchứng
khoán chưa được hoàn thiện vì chưa có sự góp ý của các công ty
phát hành và các công ty chứng khoán để ban hành ra hành lang
pháp lý trên lĩnh vực chứng khoán.
Với các hạn chế chủ yếu trên, trong những năm tới, thị trường
chứng khoán Việt Nam cần được thay đổi để trở thành một thị
trường chứng khoán lớn và sôi động.

18

CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM HIỆN NAY.

I. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM.

Nhà nước giữ vai trò quyết định trong việc xây dựng, quản lý,
khuyến khích và tạo điều kiện cho thị trường phát triển theo đúng
đường lối và định hướng của Đảng và chính phủ.
Uỷ ban chứng khoán Nhà nước là cơ quan nhà nước quản lý
thống nhất, nhằm tạo điều kiện cho thị trường hoạt động thông suốt,
hiệu quả và an toàn.
Việt Nam sẽ xây dựng một thị trường chứng khoán có tổ chức,
hoạt động công bằng, hiệu quả an toàn, bảo vệ lợi ích của nhà đầu
tư, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của đất nước, từng
bước hội nhập với thị trường chứng khoán của các nước trong khu
vực và thế giới.
Việt Nam sẽ xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán từ
qui mô nhỏ đến qui mô lớn, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện phù
hợp với điều kiện và tình hình cụ thể của đất nước.
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM.
Thị trường chứng khoán là phong vũ biểu của nền kinh tế, các
mối quan hệ về huy động và luân chuyển vốn trên thị trường chứng
khoán được hình thành và biến đổi trên cơ sở phản ánh của các điều
kiện kinh tế vĩ mô. Chính vì vậy, các chính sách nhằm đảm bảo tính
vững chắc và ổn định của nền kinh tế có tầm quan trọng rất lớn đối
với sự phát triển của thị trường chứng khoán.
Sự ổn định kinh tế vĩ mô và sự nhất quán trong chiến lược phát
triển, vai trò của hệ thống quản lý có tính chất quyết định đối với sự
thành bại của một thị trường. Vì vậy, chúng ta cần sớm xem xét các
văn bản pháp quy hiện hành để điều chỉnh một cách đồng bộ, phù

19

hợp các mâu thuẫn trong các văn bản pháp qui đó. Điều thực sự cần

thiết khi soạn ra các văn bản pháp qui là các cơ quan quản lý nên
tham khảo ý kiến của các công ty phát hành, các công ty chứng
khoán hay của các chuyên gia trên lĩnh vực chứng khoán.
Sự phát triển thị trường chứng khoán và chương trình cổ phần
hoá có mối quan hệ mật thiết với nhau. Do đó, cần đẩy nhanh tốc độ
cổ phần hoá để lựa chọn một số doanh nghiệp có thể phát hành cổ
phiếu và trái phiếu. Để đẩy nhanh tốc độ cổ phần hoá thì chúng ta
cần phải có các văn bản pháp lý đủ mạnh để làm căn cứ buộc các
doanh nghiệp phải cổ phần hoá. Ngoài ra, Nhà nước còn phải tạo ra
môi trường kinh doanh thuận lợi, “bình đẳng”, có hcính sách ưu đãi
thuế cho các công ty cổ phần để các công ty này có thể phát triển
được. Hơn nữa, Nhà nước phỉa có thêm các giải pháp như giúp đỡ
người lao động vay vốn để mua cổ phần, xoá bỏ qui định hạn chế
mua cổ phần, tăng cường kiểm tra tiến độ cổ phần hoá và tăng
cường tuyên truyền ưu điểm của cổ phần hoá. Chúng ta không chỉ
cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước mà còn nên xúc tiến việc
cổ phần hoá các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán đều là các thị
trường được sử dụng để thực hiện việc huy động và luân chuyển các
nguồn vốn, hai thị trường này mang tính chất cạnh tranh và bổ sung
lẫn nhau. Chính vì vậy, muốn xây dựng thị trường chứng khoán lớn
mạnh thì phải có các chính sách tác động đến thị trường tiền tệ và
tận dụng các cơ sở sẵn có của thị trường tiền tệ để phát triển thị
trường chứng khoán theo một số hướng điều chỉnh linh hoạt lãi suất
huy động và cho vay trên thị trường tiền tệ để tạo điều kiện thuận
lợi cho việc huy động vốn thông qua những công cụ chứng khoán,
khuyến khích các tổ chức hoạt động trên thị trường tiền tệ, tham gia
vào thị trường chứng khoán trên cơ sở có sự quản lý chặt chẽ của
Nhà nước và việc phân định rõ chức năng và phạm vi hoạt động.
Bất kỳ một thị trường nào muốn hoạt động được thì cần phải có

cung và cầu đối với hàng hoá trên thị trường. Do đó trong thời kỳ
đầu mới ra đời thị trường chứng khoán, chúng ta cần tập trung đẩy

20

mạnh các nguồn cung về chứng khoán theo hướng khuyến khích các
doanh nghiệp có đủ điều kiện phát hành chứng khoán ra công chúng
(cả về phát hành lần đầu và phát hành thêm cổ phiếu mới). Chúng ta
cần thực hiện các biện pháp hỗ trợ, ưu đãi, cho các doanh nghiệp
huy động vốn thông qua phát hành chứng khoán. Để đẩy mạnh cầu
chứng khoán, chúng ta cần khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham
gia mua chứng khoán trên cơ sở các biện pháp phát triển kinh tế
nhanh, bền vững, kiểm soát lạm phát, nâng cao đời sống nhân dân
nhằm tăng trưởng mức tiết kiệm trong dân cư. Thực hiện chính sách
dần dần mở cửa thị trường một cách thích hợp để khuyến khích đầu
tư nước ngoài, việc phát triển hệ thống trung gian tài chính hoạt
động trên thị trường chứng khoán, hệ thống giám sát có hiệu quả,
tăng cường phổ biến, phổ cập kiến thức về thị trường chứng khoán.
Thêm vào đó, cần phải xúc tiến nhanh việc thành lập thị trường phi
chính thức và thị trường chứng khoán tại Hà nội hay các trái phiếu
cần có lãi suất hẫp dẫn hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm.
Các cơ quan chức năng Nhà nước phải quản lý chặt chẽ các tiêu
chuẩn phát hành, đảm bảo chứng khoán phát hành phải là chứng
khoán có chất lượng, ban hành chế độ kế toán, kiểm toán thống nhất
để nâng cao chất lượng của các thông tin về thị trường chứng khoán
trên thị trường, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư có thể hiểu được
các thông tin đó và ra quyết định đầu tư chính xác. Thực hiện chế
độ công bố thông tin bắt buộc, xử lý nghiêm minh các vi phạm
trong phát hành và giao dịch chứng khoán.
Nhà nước cần có chính sách tạo nguồn nhân lực cho thị trường

chứng khoán qua việc mở cáclớp đào tạo tại các trường, trên truyền
hình, đài, báo về các kiến thức từ cơ bản đến chuyên sâu về chứng
khoán và thị trường chứng khoán. Trong hoạt động đó, chúng ta có
thể lựa chọn những người có tài thực sự để tạo điều kiện phát triển
thị trường chứng khoán.

21

KẾT LUẬN

Thị trường chứng khoán Việt Nam đang chập chững bước đi
những bước đầu tiên. Với vai trò, tầm quan trọng vốn có của nó đối
với nền kinh tế đất nước, thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ góp
phần đưa nền kinh tế Việt Nam tiến đến các tầm cao mới. Cho dù
hiện nay thị trường chứng khoán Việt Nam còn nhiều khuyết tật,
chúng ta vẫn hy vọng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà
nước sẽ giúp thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển hiệu quả.
Thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển sẽ góp phần đảm bảo
nền kinh tế Việt Nam phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

22

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tập bài giảng về thị trường chứng khoán của Trường Đại học
KTQD.
2. Tập tài liệu về chứng khoán và thị trường chứng khoán của
Trung tâm nghiên cứu và bồi dưỡng nghiệp vụ chứng khoán.
3. Tạp chí Tài chính.
4. Tạp chí Kinh tế Sài Gòn.

5. Tạp chí Đầu tư chứng khoán.


×