Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Giáo trình phân tích một số thực trạng tiêu thụ sản phẩm ở các doanh nghiệp công nghiệp ở nước ta p4 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (299.73 KB, 10 trang )

31

trường, cơ cấu đầu tư còn nhiều bất hợp lý. Tình trạng bảo hộ và
bao cấp còn nặng, đầu tư của nhà nước còn thất thoát và lãng phí,
đầu tư nước ngoài trong những năm gần đây giảm mạnh chưa có
dấu hiệu phục hồi.
Chưa có chuyển biến đáng kể trongviệc đổi mới và phát
triển doanh nghiệp nhà nước, việc thực hiện luật ở nhiêu nơi và
nhiều doanh nghiệp còn mang tính hình thức và kém hiệu quả, cơ
chế và chính sách phân phối chưa hợp lý chưa thúc đẩy tiết kiệm và
tăng năng xuất, kích thíc đầu tư phát triển chêng lệch giầu nghèo
tăng nhanh.
Hệ thống tài chính – ngân hàng còn nhiêu hạn chế trong
hoạt động và trong kế hoach đổi mới. chưa tạo điều kiên và hỗ chợ
cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh, chưa hoàn
thành nhiệm vụ của mình là kiểm soát và điêù phối lượng tiền tệ
lưu thông trên thị trường.
Khoa học công nghệ chưa thục sự trở thành động lực phát
triển kinh tế xã hội. Trình độ năng lực của người lao động còn
nhiều hạn chế, lao động vẫn chủ iếu là lao động thủ công, đội ngũ
cán bộ khoa học chưa thực sự phát huy hết năng lực của mình
Tình hình kinh tế - xã hội ỏ trên tác động lớn tới hoạt động
của các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp công nghiệp
nói riêng. Sự biến động của thị trường một mặt tác động tích cực
tới việc kích thích nhu cầu của người dân tạo cho các doanh nghiệp
nhiều cơ hội kinh doanh, một mặt gây cản trở không nhỏ tới các
doanh nghiệp thậm chỉ còn loại nhiều doanh nghiệp ra khỏi thị
trường do không thích ứng được với nhu cầu thị trường. Tuy vậy
các doanh nghiệp công nghiệp cũng đạt được nhiều kết quả tốt đẹp
góp phần tăng trưởng kinh tế của đất nước và ổn định xã hội
2: Thực trạng tiêu thụ sản phẩm ở các doanh nghiệp công


nghiệp hiện nay:
Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta có bước phát
triển đáng kể, mặc dù trong nước và quốc tế có nhiều biến động
như sự sụp đổ của Liên Xô làm cho thị trường xuất khẩu bị thu hẹp
và gần đây là cuộc khủng khoảng kinh tế, tài chính tiền tệ ở Đông á
và Đông nam á. Các doanh nghiệp công nghiệp đã đóng góp đáng
kể vào bước phát triển mới của nền kinh tế, góp phần quyết định
32

vào tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế chung cho
toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Sản xuất liên tục tăng trưởng ở mức cao, bình quân ngành
năm (1996- 2000) tăng 13,5% năm. Những xản phẩm quan trọng
chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp, so với
năm 95 năm 2000 các sản phẩm sản xuất tăng cao: Dầu thô khai
thác gấp 2,2 lần tăng 16,4% năm, thép cán tăng gấp 3,6 lần, động
cơ Điêzen gấp 3,6 lần, tăng28,9% năm, xi măng gấp 2,3 lần,
tăng18,2% năm,Giầy da tăng 2,0 lần tăng14,9% năm, Giầy vải gấp
1,8 lần tăng 12,5% năm, Quần áo may sẵn tăng 1,9 lần tăng 14,2
năm
Do không ngừng tăng lên trong sản xuất, các doanh nghiệp
công nghiệp góp phần cải thiện đáng kể nhu cầu tiêu dùng ngày
càng cao và đa dạng của toàn xã hội, tăng khối lượng và chủng loại
xản phẩm xuất khẩu, đã một số có mặt hàng canh tranh với hàng
ngoại nhập, có nhiều sản phẩm mới có chất lượng cao được cấp
chứng chỉ ISO bổ xung và thay thế hàng ngoại nhập như, ôtô, xe
máy, tủ lạnh, máy giặt, máy văn phòng, mạch in điện tử, thiết bị
chuyền thông, những sản phẩm ngành tin học Nhiều sản phẩm
xuất khẩu có chất lượng giá trị lớn như: Dầu thô, thuỷ hải sản chế
biến, giầy dép, quần áo may sẵn.

Tăng trưởng liên tục ở mức cao của các doanh nghiệp công
nghiệp góp phần tác động đến chuyển dịch cơ cấu chung của nền
kinh tế, các cơ sở vật chất kỹ thuật cho sản xuất được tăng cường,
nhiêu công nghệ mới đuợc áp dụng mang lại hiệu quả kinh doanh
cao cao cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên cũng có một số các
doanh nghiệp chưa đổi mới công nghệ vẫn sử dung những công
nghệ của những năm 60, công suất sử dung thấp vốn đầu tư trong
các doanh nghiệp tăng nhanh, tuy nhiên chỉ có các doanh nghiệp
công nghiệp lớn là đảm bảo được mức vốn cần thiết. Hầu hết các
doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ mức vốn còn quá thấp,
không đủ tiền năng để phát triển nhanh .
Có thể nói sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp công
nghiệp trong những năm gần đây đã đạt hiêu quả cao cả về mặt
kinh tế và xã hội, góp phần thúc đẩy lưu thông, thông suốt hàng
hoá từ thành thị đến nông thôn, tư miền xuôi đến miền ngược, đảm
33

bảo quy luật cơ bản của kinh tế thị trường là ở đâu có cầu là ở đó
có cung. Điêu này được thể hiện rõ ở nhiêù doanh nghiệp công
nghiệp trên thị trường trong nước và xuất khẩu.
Trong nước các doanh nghiệp đã dần khắc phục tình trạng
nhập khẩu sản phẩm công nghiệp từ nước ngoài, các sản phẩm đã
có sức canh tranh trên thị trường, một số sản phẩm có thể đánh bại
hàng ngoại trên thị trường trong nước tạo được uy tín với khách
hàng.
Được cấp giấy phép đầu tư 9/ 1990 xí nghiệp liên doanh Sài
Gòn vewong là đơn vị được hình thành trên liên doanh giữa công
ty lương thực TP.HCM và tập đòan vewong ( Đài Loan) sản phẩm
đầu tiên công ty tung ra thị trường là mỳ ăn liền cao cấp mang nhãn
hiệu A-ONE Lúc đầu do sản phẩm chưa được người tiêu dùng biết

đến, chi phí cao nên sản lượng tiêu thụ thấp.Công ty cho nghiên
cứ thị trường và biết rằng muốn chinh phục được khách hàng thì
sản phẩm sản xuất ra phải có chất lương cao, giá cả hợp lý, nhận
thức được diều này công ty đã thực hiện một số những thay đổi về
chiến lược sản xuất kinh doanh của mình là quảng cáo tiếp thị để
A- ONE được người tiêu dùng biết đến, nâng cao chất lượng sản
phẩm. Với những thay đổi đó công ty đã đạt được những thành
công lớn sản phẩm được người tiêu dùng biết đến với chất lượng
cao, giá cả hợp lý và được bình chọn là hàng việt nam chất lượng
cao năm 2000.
Cùng với sự tăng lên của thu nhập nhu cầu về may mặc có su
hướng tăng nhanh, đây là cơ hội lớn cho các doanh nghiệp, công ty
may mặc trong nước có nhiều doanh nghiệp đã nắm bắt được cơ
hội này và tổ chúc kinh doanh có hiệu quả trong đó có Phước
Thệnh, công ty dã tung ra thị trường sản phẩm với chất lượng ngoại
nhập, giá nội và đã nhanh chóng chiếm lĩnh được vị trên thị trường
nội địa, sản phẩm của công ty được tiêu thụ mạnh tại Đà Nẵng ,
Cần Thơ và các tỉnh thành trong cả nước. Nhờ đó mà đời sống của
công nhân viên được cải thiện mức thu nhập bình quân 1trđ/ người/
tháng
Thời báo thương mại số 4/ 98 công ty Thiên Long thành lập
năm 81 đã trải qua những thăng chầm của nền kinh tế của thập kỷ
80, hơn ai hết công ty hiểu rằng để tồn tại và phát triển trong nền
34

kinh tế thị trường không thể dựa vào ai khác mà phải bằng chính nỗ
lực của toàn thể công nhân viên trong công ty. Hiên nay công ty
đang củng cố và phát triển chất lượng sản phẩm, uy tín của mình,
công ty đã tung ra thị trường 12 lọai sản phẩm bút bi và mực viết
các loại như: Bút dạ, bút kim, dạ đỏi màu, but dạ quang, mực viết

và đã chiếm lĩnh thị trường với mạng lưới phân phối rộng khắp.
Nhìn chung qua những năm đổi mới hoạt động tiêu thụ của
các doanh nghiẹp ở trong nước đã có nhiêu thay đổi tích cực. Từ
chỗ mọi sản phẩm sản xuất ra được tiêu thụ theo hình thức cấp phát
theo chỉ tiêu của nhà nước, đến nay các doanh nghiệp được chao
quyền tự chủ trong mọi hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp đã tự
chủ trong sản xuất và tiêu thụ dsản phẩm, đưa hàng hoá tới tận nơi
tiêu dùng. Tạo được hệ thống phân phối thông suốt đáp ứng kịp
thời nhu cầu của người dân, dần thay thế hàng ngoại hạn chế nhập
khẩu.Tuy nhiên trong thời gian tới, để vững bước trong hội nhập và
giữ được thị trường trong nước các doanh nghiệp phải đặc biệt chú
trọng đến việc nâng cao khả năng cạnh tranh với hàng ngoại nhập.
Thông qua việc nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã,
kiểu dáng, hạ giá thành, đổi mới công nghệ.
Trong những năm gần đây, với nỗ lực trong sản xuất và tiêu
thụ các doanh nghiệp không ngừng chiếm lĩnh thị trường trong
nước mà còn vươn tới những thị trường lớn như EU, Bắc Mỹ và
kết quả là tổng kim ngạch xuất khẩu liên tục gia tăng với tốc độ gia
tăng xuất khẩu 26% năm( thời kỳ 91-95 ) năm 96 tổng kim ngạch
xuất khẩu đạt 18,4 tỷ USD chiếm 46,4% tổng kim ngạch xuất khẩu
của 5 năm 91-95 ( 39,24 tỷ USD ). Tuy nhiên đến cuối năm 97 đầu
năm 98 do ảnh hưởng của cuộc khủng hỏang tài chính tièn tệ ở khu
vực, kim ngạch xuất khẩu có xu hướng giảm do thị trường ở một số
nước chịu ảnh hưởng bị thu hẹp. Sản phẩm công nghiệp xuất khẩu
chủ yếu là hàng tiêu dùng như hàng dệt may, giầy dép, bánh kẹo
và một phần lớn hàng qua sơ chế hoặc xuất nguyên liệu thô như
dầu mỏ, than, cao su, quặng các loại Tuy nhiên sản phẩm xuất
khẩu còn hạn chế như chất lượng chưa cao, không có lợi thế canh
tranh với hàng của các nước khác Để hiểu rõ về tình hình xuất
khẩu của các doanh nghiệp công nghiệp trong những năm gần đây

chúng ta xem xét mọt số doanh nghiệp cụ thể.
35

Công ty chế tạo động cơ vinappro thường đạt kim ngạch xuất
khẩu từ 60- 70% doanh thu hàng năm, sản phẩm mang nhãn hiệu
độc quyền của vinappro chất lượng mẫu mã tốt, kiểu dáng đẹp đã
có mặt ở gần 10 nước trong khu vực và trên thế giới. Đạt được
thành công này là do công ty luôn chú trọng mở rộng thị trường
xuất khẩu, cải tiến sản phẩm truyền thống nhiên cứu chế tạo sản
phẩm mới phù hợp với nhu cầu của khách hàng. Công ty chế tạo
hàng loạt với giá thành hạ, tăng khả năng cạnh tranh với hàng cùng
loại của các nước trong khu vực và trên thế giới. Hiện tại sản phẩm
của công ty đa dạng hơn nhiều so với trước bao gồm các loại động
cơ Điêzel DS60, DS230, TF120, TF160, DS105, DS130, gần 10
loại máy bơm nước Nói chung các sản phẩm của công ty đều
được sản xuất trên dây truyền công nghệ hiện đại theo mẫu mới có
khả năng tiêu thụ cao ở các thị trường nhập khẩu của công ty.
Công ty xuất nhập khẩu Đồng Nai ( donimex) với hai mặt
hàng xuất khẩu chính là cao su và cà phê. Trong những năm gần
đây mỗi năm công ty xuất khẩu khoảng 10 nghìn tấn cao su chủ
yếu sang thị trường Trung Quốc. Từ cuối năm 96 đến nay việc xuất
khẩu cao su gặp nhiều kho khăn do giá cao su phía Trung Quốc
mua với giá thấp hơn so với giá tổng công ty cao suViệt Nam bán
cho các doanh nghiệp. Nguyên nhân chủ yếu là do thị trường xuất
khẩu cao su của ta hạn chế dẫn đến việc bị ép giá mà vẫn phải chịu,
đây là trường hợp phổ biến của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu
của Việt Nam trong thời gian qua, điều đó thể hiện sự hạn chế về
thị trường, sức mạnh của sản phẩm của các doanh nghiệp trên thị
trường quốc tế. Điều này cần tập chung giải quyết trong thời gian
tới.

Công ty xúât khẩu Tân Châu trực thuộc tổng công ty dệt may
Việt Nam, tuy mới thành lập năm 1992 nhưng đã nhanh chóng đạt
được kết quả tốt trong sản xuất kinh doanh. Kim ngạch xuất khẩu
tăng từ 368.000 USD năm 1992 lên 8,1 triệu USD năm 98, năm
1999, công ty đạt doanh thu trên 25 tỷ đồng trong đó sản xuất hàng
FOB là 3,2 tỷ đồng. Để đạt được thành tích nay là do công ty có
nguồn hàng tương đối ổn định, năng lực sản xuất Quota xuất khẩu
tương đối ổn định, thuận lợi , trình độ tay nghề của công nhân cao
đảm bảo cho chất lượng hàng xuất khẩu.
36

Công ty công nghiệp – thương mại xuất nhập khẩu Tân Phú
Cường năm 98 đạt kim ngạch xuất khẩu mặt hàng FOB 7 triệu
USD, thị trường xuất khẩu chủ yếu của công ty là Nhật Bản với
dản phẩm chủ yếu là áo jac ket và áo len. Hàn Quốc với sản phẩm
chủ yếu là Polo Shirk, áolen, áo jac ket. Hông Công với áo jac ket

Như vậy trong những năm qua sản phẩm của các doanh
nghiệp công nghiệp nước ta đã phần nào đáp ứng được nhu cầu của
cả thị trường trong nước cũng như thị trường xuất khẩu và dần
được mở rộng nhất là sau hiệp định thương mại Việt – Mỹ được ký
kết một thị trường mới cho các doanh nghiệp công nghiệp được mở
ra tạo nhiều cơ hội lớn cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên các doanh
nghiệp còn cần phải khắc phục nhiều hạn chế trong quá trình thâm
nhập thị trường mới đảm bảo được thăng lợi, cơ bản nhất là phải
bảo đảm về số lượng, chất lượng và chủng loại của sản phẩm xuất
khẩu các doanh nghiệp phải nghiên cứu kỹ thị trường về luật pháp
để tránh tình trạnh vi phạm pháp luật mà không biết.
II: Đánh giá chung về hoạt động tiêu thụ ở các doanh
nghiệp công nghiệp.

Qua 15 năm đổi mới , nền kinh tế Việt Nam nói chung và lĩnh
vực công nghiệp nói riêng đã có nhiều thành tựu đáng kể góp phần
làm ổn định đời sống nhân dân, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, đồng thời còn có nhiều những tồn tại cần khắc phục trong giai
đoạn tới.
1. Những thành tựu đạt được.
Các sản phẩm công nghiệp đã phần nào đáp ứng được nhu
cầu của khách hàng trong nướcvà dần dần thay thế hàng nhập khẩu,
các doanh nghiệp chú trọng phát triển những sản phẩm có chất
lượng cao, giá thành hạ. Sản phảm của nhiều doanh nghiệp đã được
bình chọn là hàng Việt Nam chất lượng cao như sản phẩm giầy dép
Bitis, rượu vang Thăng Long, bút bi, mực viết Thiên Long
Nhiều doanh nghiệp được cấp chướng chỉ ISO 9000. ở một số
lĩnh vực hàng Việt Nam chiếm ưu thế hơn hẳn so với hàng ngoại
nhập như chế biến đồ hộp, bánh kẹo, nước giải khát
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế cơ sở vật chất, kỹ thuật
hạ tầng được nâng cao dúp cho mạng lưới lưu thông hàng hóa được
37

mở rộng và thông suốttới từng ngõ ngách của thị trường những
vùng nông thôn, vùng sâu, vùng sa, ngày càng tràn ngập hàng hóa
phục vụ tốt nhu cầu mua sắm của người dân, gó phần làm kingh tế
phát triển, nâng cao trìng độ dân chí đời sống vật chất tinh thần cho
người dân.
Với thị trường trong nưôccs thể nói đây là nơi tiêu thụ, đại đa
số các sản phẩm của các doanh nghiệp dệt may, ngánh sứ, thủy
tinh, thuốc lá, tạp phẩm, nhựa,chế biến thực phẩm, chế biến gỗ,chất
tẩy rửa. Đây là các loại sản phẩm đã được sự giao lưu luân chuyển
trong nước, có dung lượng tiêu thụ trong nước lớn. Tuy nhiên
những mặt hàng này nhiều khi bị hàng ngoại theo nhiều hướng

nhập vào cạnh tranh gay gắt đặc biệt là sản phẩm dệt,hàng dân
dụng, thuốc lá, song do biết lựa chon chiến lược sản xuất kinh
daonh đúng đắn, tiêu thụ phù hợp, cộng vớicác yếu tốvề chất
lượng, giá cả mà các doanh nghiệp sản xuất hàng công nghiệp
tiêu dùng vừa và nhỏ vẫn đang đứng vững và có triển vọng đi lên,
điển hìng là các doanh nghiệp làm giấy, thực phẩm Ví dụ, nhà
máy giấy Hoàng Văn Thụ đã phối hợp liên doanh với các doanh
nghiệp trong tổng công ty giấy Việt Nam nghiên cứu thành công và
đưa vào sản xuất mặt hàng giấy Kraft làm vách ngoài của carton
làn sóng. So sánh với nặt hàng cùng loại của các nhà máy giấy
trong nước, giấy của Hoàng Văt Thụ là tốt nhấtnó có độ bền và độ
chặt cao hơn hẳn, độ chống ẩm tốt, sử dụng cho cả bao bì thủy hải
sản đông lạnh, chính vì vậy sau khi đưa vào sản xuất đại chà, nhà
máy đã có nhiều khách hàng ổn định từ mọi miền của đất nước từ
Hà Nội, Hải Phòng, TPHCM, ngoài ra nhà máy còn sản xuất được
500 tấn giấy chất lượng cao thay thế được một số giấy bao bì trước
đây nhập ngoại đó là giấy gói thuốc sát trùng. Thành công trong
việc lựa chọn sản phẩm, kẽ hở của thị trường này, cùng với các mặt
hàng truyền thống lâu đời như giấy gói kiện diêm Đã tạo cơ sở
cho nhà máycó quy mô vừa và nhỏ Hoàng Văn Thụ đứng vững
trong cơ chế thị trường.
Một điều dễ nhận thấy trong năm vừa qua đó là sự cạnh
tranhmạnh mẽ của các công ty bánh kẹo trong và ngoài nước bằng
các hình thức như là đầu tư vào việc nâng cao công nghệ sản xuất
nhằm đưa ra những sản phẩm có chất lượng cao, in bao bì với
38

nhiều kiểu dáng và mẫu mã đẹp, sử dụng các hình thức khuyến
mại, giá cả hợp lý ví dụ như công ty Hải Hà đã giảm giá từ 28000đ
đến 10000đ / 1gói, bánh của công ty Kinh Đô tất cả đều phù hợp

với túi tiền của người tiêu dùng có thể thấy bánh kẹo trong nước đã
đần chiếm được thị trường trước các loại bánh kẹo củaTrung Quốc
mấy năm gần đây tiêu thụ rất chậmmặc dù giá rẽ hơn hàng Việt
Nam từ 5000 – 1000đ điều này thể hiện quẩn lượng tiêu thụ của
các doanh nghiệp qua hai mùa trung thu vừa qua năm 2000 và
năm2001.
Thị trường ngoài nước, năm 2001 mở đầu thực hiện nghị
quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, thực hiện kế hoạch 5
năm 2001-2005 và chiến luợc 10 năm phát triển kinh tế xã hội, xây
dựng nền tảng kinh tế đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp, năm 2001 cũng là năm thực hiện chiến lược xuất
nhập khẩu đã được chính phủ phê duyệt năm 2000 với chủ trương
đó tính đến cuối tháng 8 năm 2001, kim ngạch xuất khẩu của cả
nước ước tính đạt1,45 tỷ USD tăng 12% cùng kỳ năm 2000trong
đó xuất khẩu hàng tiêu dùng tăng 13% còn xuất khẩu dịch vụ tăng
15,2%. Cụ thể hàng thủy hải sản ước tính đạt 360 tr USD tăng
5,5% gạo xuất kẩu hai tháng đầu năm đạt 439tr tấn trị giá 73 triệu
tăng 16% về lượng, cao su quý một ước tính xuất khẩu70000 tấn
đạt 49tr USD tăng 15%, mặt hàng lạc nhân những tháng đầu năm
2001 xuất khẩu đã khởi sắc do khôi phục và mở rộng thị trường ở
vung miền đông Liên bang nga. Dự báo nếu xúc tiến thương mại
tốt và giải quyết tốt những khó khăn trong khâu thanh toán với Nga
mặt hàng này có khả năng tang trưởng mạnh.
Một số mặt hàng chủ chốt có tốc độ tang kim ngạch xuất hẩu
thấp hơn mức tăng chung nhưng cao hơn cùng kỳ năm 2000 gồm
có hạt điều, chè, hàng điện tử, và linh kiện máy, hàng thủ công mỹ
nghệ .
Từ những số liệu kể trên có thể khẳng định rằng do nhận thức
đúng tình hình các doanh nghiệp công nghiệp đã đạt được những
kết quả nổi bật, đặc biệt không thẻ không kể đến các doanh nghiệp

trong ngành may và da giày đã đóng góp không nhỏ vào vao việc
nângcao tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm của nước ta.
2. Những tồn tại và nguyên nhân.
39

Bên cạnh những thành côngcủa nhiều doanh nghiệp cũng
không ít các doanh nghiệp chưa đáp ứng được nhu cầu của thị
trường và mắc phải những sai lầm nghiêm trọng dẫn đến những
khó khăn trong cạnh tranh
2.1. Những tồn tại cần khắc phục.
Khả năng cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp trên trị
trường trong nước và nước ngoài thấp chỉ có một số doanh nghiệp
cạnh tranh được với hàng ngoại nhập còn lại hầu hết các mặt hàng
công nghiệp chưa đủ sức cạnhtranh với hàng ngoại nhập nhất là các
doanhnghiệp vừa và nhỏ sản xuất ra do không sử dụng công nghệ
hiện đại, kỹ thuật cao, chủ yếu cung cấp cho các đối tượng bình
dân ở địa phương, tiêu thụ ở các địa phương khác không đáng kể.
Các sản phẩm cạnh tranh với hàng nước ngoài khá hiếm chủ yếu
tập chung vào ngành may, giầy dép, gia công, xuất khẩu gốm, sứ,
mỹ nghệ.
Các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ và đặc biệt là các
doanh nghiệp công nghiệp ngoài quốc doanhrất thiếu thông tin về
thị trương công nghệ, nguyên vật liệu, tiêu thụ sản phẩm, xu hướng
phát triển ngành khoa học kỹ thuậtvà mặt hàng do thiếu hệ thống
cung cấp chuyên môn. Một kết quả điêu tra cho thấy một tỉnh 90%
doanh nghiệp vừa và nhỏ không biết về các đối thủ cạnh tranh,
không nắm được những thay đổi, đỏi mới về công nghệ trong và
ngoài nước ngay trong lĩnh vực mình hoạt động. Quan hệ qua lại
vêf mặt cung cấp thông tin cho sản xuất kinh doanh và phát triển
giữa các doanh nghiệp quy mô lớn có tiền năng nghiên cứu phát

triển năm bắt thị trường cơ hội đầu tư với các doanh nghiệp sản
xuất công nghiệp vừa và nhỏ chưa có nề nếp, thiếu gắn bó và nhiều
khi thiếu bình đẳng,chưa trên cơ sỏ gắn bó lợi ích với nhau và nặg
về “dúp đỡ”, “ nhờ vả”, “lệ thuộc”.
Lao động trong các doanh nghiệp công nghiệp thường là các
lao động có tay nghề kém trình độ quản lý thấp, năng suất chưa
cao. Ngoại trừ các doanh nghiệp công nghiệp quốc doanh và trung
ương còn lại các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ở địa
phương người lao động chưa được đào tạo cơ bản. Rất ít các lao
động được qua các trường dạy nghề chuyên ngành mà chủ yếu là
vừa học, vừa làm ngay tại cơ sở sản xuất.
40

Nhiều doanh nghiệp công nghiệp hoàn toàn thụ động trong
việc tiếp cận thị trường và định hướng khách hàng. Hiện nay nhiều
doanh nghiệp vẫn sản xuất các sản phẩm với giá trị gia tăng thấp
trong khi nhu cầu thị trường thế giới đã có sự chuyển đổi. Từ đó
hiệu quả hoạt đông thấp, lại chịu ảnh hưởng của các nhà sản xuất,
tập đoàn quốc tế hùng mạnh
Vị thế cạnh tranh của các doanh nghiệp công nghiệp trên thị
trường khu vực và trên thế giới chưa được khẳng định phần nhiều
các doanh phải dựa vào đối tác nước ngoài về biểu trưng, thiết kế
sản phẩm, quy trình công nghệ, tiếp thị và phân phối sản phẩm. Có
thể nói thách thức lớn nhất đối với các doanh nghiệp trong lúc này
là: làm sao tạo được biểu trưng, nhãn hiệu rêng cho sản phẩm của
mình, giao dịch trực tiếp với khách hàng và kiểm soát được kênh
phân phối. Chẳng hạn như kẹo dừa Bến Tre – sở dĩ thắng được
kiện về quyền sở hữu công nghiệp, tìm lại và mở rộng được thị
trường của mình ở Trung Quốc, Ma Cao, Hồng Công, chính là nhờ
khẳng định được uy tín về chất lượng và giá cả hợp lý.

Sự phối hợp của nhà nước và các doanh nghiệp chưa đạt hiệu
quả cao. Trong vai chò là người hỗ trợ cho các doanh nghiệp, nhà
nước chưa có chính sách, cơ chế hợp lý thúc đẩy hoạt động tiêu thụ
cho các doanh nghiệp nhất là hoạt động xuất khẩu. Đề xuất của các
doanh nghiệp thường phải trải qua một hên thống các quy tắc hành
chính rất phức tạp đôi khi làm lỡ mất các cơ hội kinh doanh của
doanh nghiệp. Nhiều cơ quan nhà nước can thiệp quá sâu vào hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp, nhưng khi mắc phải sai lầm
thường không phải chịu trách nhiệm vật chất
Một số những tồn tại nhưng không thể phủ nhận là tiềm năng
của các doanh nghiệp công nghiệp là rất lớn mà lại thiếu các biện
pháp đồng bộ, đủ mạnh để khai thác tầm vĩ mô lẫn vi mô. Minh
chứng cho nhận định này có thể lấy miền núi, trung du làm ví dụ,
đây là vùng có lợi thế về tài nguyên thiên nhiên của rừng và trong
lòng đất, là vung nguyên liệu lý tưởng, nhưng lại chậm phát triển
và nhiều mảng thị trường còn bỏ trống và luôn được coi là hưởng
ưu đãi trong đầu tư, nhưng cụ thể sự ưu đãi đó ra sao thì chúng ta
chưa làm được cho nên công nghiệp hàng tiêu dùng ở đây vẫn cón
èo ọt, chủ yếu là các cơ sở cũ để lại.

×