Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Giáo trình phân tích các đặc điểm cơ bản của nguồn vốn quyết định sự tồn tại phát triển của mỗi doanh nghiệp p2 pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (397.39 KB, 10 trang )

§Ò ¸n m«n häc

- 11 -


3.1.quan điểm về sử dụng vốn
Để đánh giá trình độ quản trị điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh
của một doanh nghiệp, người ta sử dụng thước đo là hiệu quả sản xuất
kinh doanh. Hiệu quả xản xuất kinh doanh được đánh giá trên hai góc
độ : hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội.Trong phạm vi quản trị doanh
nghiệp, người ta chủ yếu quan tâm đến hiệu quả kinh tế. Đây là một
phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực của doanh
nghiệp để đạt được kết quả cao nhất với chi phí hợp lý nhất. Do đó các
nguồn lực kinh tế đặc biệt là nguồn vốn của doanh nghiệp có tác động
rất lớn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì thế việc
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là yêu cầu mang tính thường xuyên và
bắt buộc đối với mỗi doanh nghiệp. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn là
yêu cầu mang tính thường xuyên và bắt buộc đối với mỗi doanh
nghiệp. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp ta thấy được hiệu quả
của hoạt động kinh doanh nói chung và quản trị sử dụng vốn nói riêng.
Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế phản
ánh trình độ khai thác, sử dụng và quản trị vốn làm cho đồng vốn sinh
lời tối đa nhằm mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp là tối đa hoá giá
trị tài sản của chủ sở hữu.
Hiệu quả sử dụng vốn được lượng hoá thông qua hệ thống các chỉ tiêu
về khả năng hoạt động, khả năng sinh lời, tốc độ luân chuyển vốn….
Nó phản ánh quan hệ giữa đầu ra và đầu vào của quá trình sản xuất
kinh doanh thông qua thước đo tiền tệ hay cụ thể là mối tương quan
§Ò ¸n m«n häc

- 12 -




giữa kết quả thu được với chí phí bỏ ra để thực hiện sản xuất kinh
doanh. Kết quả thu được càng cao so với chi phí bỏ ra thì hiệu quả sử
dụng vốn càng cao. Do đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là điều kiện
quan trọng để doanh nghiệp phát triển vững mạnh. Nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn của doanh nghiệp phải đảm bảo các điều kiện sau:
- Phải khai thác nguồn vốn một cách triệt để nghĩa là không để vốn
nhàn rỗi mà không sử dụng, không sinh lời.
- Phải sử dụng vốn một cách hợp lý và tiết kiệm
- Phải quản trị vốn một cách chặt chẽ nghĩa là không để vốn bị sử dụng
sai mục đích, không để vốn thất thoát do buông lỏng quản trị.
Ngoài ra doanh nghiệp phải thường xuyên phân tích đánh giá hiệu quả
sử dụng vốn để nhanh chóng có biện pháp khắc phục những mặt hạn
chế và phát huy những ưu điểm của doanh nghiệp trong quản trị và sử
dụng vốn.

3.2. các chỉ tiêu cơ bản đánh giá hiệu quả sử dụng vốn
3.2.1.Các chỉ tiêu đánh giá tổnh hợp
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp một cách chung
nhất người ta thường dùng một số chỉ tiêu tổng quát như: hiệu quả sử
dụng toàn bộ vốn, doanh lợi vốn, doanh lợi vốn chủ sở hữu. Trong đó:


Hiệu quả sử dụng toàn bộ vốn =
Doanh thu

Tổng số vốn sử dụng bình quân
trongkỳ
§Ò ¸n m«n häc


- 13 -





Chỉ tiêu này còn được gọi là vòng quay của toàn bộ vốn, nó cho biết
một đồng vốn đem lại bao nhiêu đồng doanh thu, vì vậy nó càng lớn
càng tốt.



Doanh lợi vốn =


Chỉ tiêu này còn được gọi là tỷ suất lợi nhuận trên vốn. Nó phản ánh
khả năng sinh lợi của một đồng vốn đầu tư. Nó cho biết một đồng vốn
đầu tư đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận.


Doanh lợi vốn chủ sở hữu =

Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu, trình độ sử
dụng vốn của người quản trị doanh nghiệp. Chỉ tiêu này càng lớn càng
tốt. Tuy nhiên chỉ tiêu này có hạn chế là nó phản ánh một cách phiến
diện. Do mẫu số chỉ đề cập đến vốn chủ sở hữu bình quân trong kỳ,
Lợi nhuận

Tổng số vốn sử dụng bình quân trong kỳ


Lợi nhuận

V

n ch

s

h

u bình quân trong k


§Ò ¸n m«n häc

- 14 -


trong khi hầu hết các doanh nghiệp nguồn vốn huy động từ bên ngoài
chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong tổng nguồn vốn. Do đó nếu chỉ nhìn
vào chỉ tiêu này nhiều khi đánh giá thiếu chính xác.
Ba chỉ tiêu trên cho ta một cái nhìn tổng quát về hiệu quả sử dụng vốn
của doanh nghiệp. Ngoài ra người ta còn sử dụng một số chỉ tiêu khác
như tỷ suất thanh toán ngắn hạn, số vòng quay các khoản phải thu….
Tuy nhiên như ta đã biết nguồn vốn của doanh nghiệp được phân làm
hai loại là vốn cố định(VCĐ) và vốn lưu động(VLĐ). Do đó, các nhà
phân tích không chỉ quan tâm đến việc đo lường hiệu quả sử dụng vốn
của tổng nguồn vốn mà còn chú trọng đến hiệu quả sử dụng của từng
bộ phận cấu thành nguốn vốn của doanh nghiệp đó là VCĐ và VLĐ.


3.2.2.Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định
Để đánh giá hiệu quả sử dụng VCĐ người ta sử dụng những chỉ tiêu
sau:


Hiệu suất sử dụng VCĐ =
Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn cố định tạo ra được bao nhiêu đồng
doanh thu thuần trong một năm.


Sức sinh lợi của vốn cố định =

Doanh thu thuần

Vốn cố định sử dụng bình quân trong
k



Lợi nhuận

Vốn cố định sử dụng bình quân trong kỳ
§Ò ¸n m«n häc

- 15 -





Chỉ tiêu này cho biết trung bình một đồng VCĐ tạo ra bao nhiêu đồng
lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng lớn càng chứng tỏ việc sử dụng VCĐ là có
hiệu quả.
Ngoài hai chỉ tiêu trên người ta còn sử dụng nhiều chỉ tiêu khác để
đánh giá hiệu quả sử dụng VCĐ như : hệ số đổi mới tài sản cố định, hệ
số loại bỏ tài sản cố định….


3.2.3.Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Khi phân tích đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ người ta thường dùng
các chỉ tiêu sau:

Hiệu suất sử dụng VLĐ =


Chỉ tiêu này cho biết một đồng VLĐ Sử dụng bình quân trong kỳ tạo ra
được bao nhiêu đồng doanh thu thuần.


Sức sinh lợi của VLĐ =

Doanh thu thuần


VLĐ s
ử dụng b
ình quân trong k


Lợi nhuận


VLĐ sử dụng bình quân trong kỳ
§Ò ¸n m«n häc

- 16 -



Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng VLĐ tham gia vào hoạt động sản
xuất kinh doanh trong kỳ thì tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận, Chỉ
tiêu này càng lớn càng tốt.
Đồng thời, để đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ người ta cũng đặc biệt
quan tâm đến tốc độ luân chuyển VLĐ, vì trong quá trình sản xuất kinh
doanh,VLĐ không ngừng vận động qua các hình thái khác nhau. Do đó
đẩy nhanh tốc độ luân chuyển VLĐ sẽ góp phần giải quyết về nhu cầu
vốn cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Để
xác định tốc độ luân chuyển VLĐ người ta sử dụng các chỉ tiêu sau:

Số vòng quay của VLĐ =



Chỉ tiêu này còn được gọi là hệ số luân chuyển VLĐ, nó cho biết VLĐ
được quay mấy vòng trong kỳ. Nếu số vòng quay tăng thì chứng tỏ
hiệu quả sử dụng VLĐ tăng và ngược lại.


Thời gian của một vòng luân chuyển=




Doanh thu thuần

VLĐ sử dụng bình quân trong kỳ

Thời gian của một kỳ phân tích


Số vòng quay của VLĐ trong kỳ
§Ò ¸n m«n häc

- 17 -



Chỉ tiêu này thể hiện số ngày cần thiết cho VLĐ quay được một vòng,
thời gian của một vòng luân chuyển càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển
của VLĐ càng lớn và làm rút ngắn chu kỳ kinh doanh, vốn quay vòng
hiệu quả hơn.

3.3. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của DNNN
trong cơ chế thị trường.
Các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh thường đặt ra
nhiều mục tiêu và tuỳ thuộc vaò giai đoạn hay điều kiện cụ thể mà có
những mục tiêu được ưu tiên thực hiện, nhưng tất cả đều nhằm mục
đích cuối cùng là tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu, đạt được mục
tiêu đó doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển được.
Một doanh nghiệp muốn thực hiện tốt mục tiêu của mình thì phải hoạt
động kinh doanh có hiệu quả. Trong khi đó yếu tố tác động có tính
quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh chính là hiệu quả sử dụng

vốn của doanh nghiệp. Do vậy doanh nghiệp cần phải có những biện
pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, đặc biệt trong điều kiện
hiện nay.
Trước đây trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, DNNN coi nguồn
vốn cấp phát từ ngân sách nhà nước đồng nghĩa với “cho không”, nên
khi sử dụng nhiều doanh nghiệp không cần quan tâm đến hiệu quả,
kinh doanh thua lỗ đã có Nhà nước bù đắp. Điều đó gây ra tình trạng vô
§Ò ¸n m«n häc

- 18 -


chủ trong quản trị và sử dụng vốn dẫn đến lãng phí vốn và hiệu quả
kinh doanh thấp. Theo số liệu thống kê cho thấy việc sử dụng tài sản cố
định chỉ đạt 50%- 60% công suất thiết kế, phổ biến chỉ hoạt động 1 ca
trên ngày, vì vậy hệ số sinh lời của đồng vốn thấp.
Khi nước ta chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường có sự điều tiết của
nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các doanh nghiệp buộc
phải chuyển mình theo cơ chế mới, mới có thể tồn tại và phát triển.
Cạnh tranh giữa các DNNN với các thành phần kinh tế khác trở lên gay
gắt. Bởi vậy, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn có vị trí quan trọng hàng
dầu của doanh nghiệp.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ đảm bảo an toàn tài chính cho doanh
nghiệp. Goạt động trong cơ chế thị trường đòi hỏi mỗi doanh nghiệp
phải luôn đề cao tính an toàn, đặc biệt là an toàn tài chính. Đây là vấn
đề có ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Việc sử dụng vốn có hiệu quả giúp doanh nghệp nâng cao khả năng
huy động vốn, khả năng thanh toán của doanh nghiệp được bảo đảm….

Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao sức

cạnh tranh. Để đáp ứng yêu cầu cải tiến công nghệ, nâng cao chất
lượng sản phẩm, đa dạng hoá mẫu mã sản phẩm… doanh nghiệp phải
có vốn, trong khi đó vốn của doanh nghiệp chỉ có hạn, vì vậy nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn là cần thiết.
§Ò ¸n m«n häc

- 19 -


Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp doanh nghiệp đạt được mục
tiêu tăng giá trị tài sản chủ sở hữu và các mục tiêu khác của doanh
nghiệp như nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thị trường , nâng cao
đời sống của người lao động. Vì khi hoạt động kinh doanh có hiệu quả
thì doanh nghiệp có thể mở rộng quy mô sản xuất, tạo thêm công ăn
việc làm cho người lao động và mức sống của người lao động cũng
ngày càng được cải thiện. Đồng thời nó cũng làm tăng các khoản đóng
góp cho ngân sách Nhà nước.
Như vậy, việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp không
những đem lại hiệu quả thiết thực cho doanh nghiệp và người lao động
mà nó còn ảnh hưởng đến sự phát triển của cả nền kinh tế và toàn xã
hội. Do đó, các doanh nghiệp phải luôn tìm ra các biện pháp phù hợp
để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.




HÁI QUÁT THỰC TRẠNG TẠO VỐN VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
TRONG CÁC DNNN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

1.Vai trò của DNNN trong nền kinh tế thị trường.

Trong đường lối cải cách và phát triển của nước ta hiện nay, Đảng và
Nhà nước đã khẳng định nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành
§Ò ¸n m«n häc

- 20 -


phần trong đó khu vực kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, và do đó
các DNNN là lực lượng kinh tế chủ lực, là xương sống cho nền kinh tế
quốc dân. Trong nền kinh tế thị trường Nhà nước có thể điều tiết và
thúc đẩy gián tiếp vào nền kinh tế thông qua các chính sách vĩ mô hay
tác động trực tiếp thông qua các DNNN đầu tư vào các ngành để sản
xuất ra của cải vật chất thoả mãn nhu cầu của xã hội.
DNNN là bộ phận quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, đóng góp
nguồn lực tài chính cho Nhà nước. Hiệu quả hoạt động của DNNNcó ý
nghĩa quyết định trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiên đại hoá đất
nước, trong quá trình hội nhập thương mại với các nước khu vực, với
Châu á và thế giới.
DNNN có vai trò chủ đạo nhằm đảm bảo sự cân đối, ổn định và bền
vững trong phát triển kinh tế, đảm bảo hài hoà giữa phát triển kinh tế
và phát triển xã hội, có trách nhiệm khắc phục và hạn chế những khuyết
tật của kinh tế thị trường. Điều đó có ý nghĩa là DNNN có vai trò chiến
lược giữ vững sự cân đối và ổn định trong phát triển kinh tế nhiều
thành phần. Vai trò đó được thể hiện qua những điểm sau:
Thứ nhất, các DNNN phải giữ được vai trò chủ đạo trong thực tế, nắm
giữ các ngành, các lĩnh vực kinh tế có liên quan đến an ninh quốc
phòng, các ngành then chốt của nền kinh tế.
Thứ hai, các DNNN phải là đòn bẩy, là công cụ mà Nhà nước sử dụng
để huy động vốn tập trung vào những ngành mang tính chiến lược của
nền kinh tế, tập trung vào những hoạt động chuyển giao công nghệ, kỹ

×