Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Luận văn : Đánh giá hiệu quả hệ thống tuần hoàn hở nuôi tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) hậu bị trên bể composite cho sản xuất đàn toàn đực part 2 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (351.37 KB, 18 trang )



19
Chƣơng 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Chúng tôi thực hiện các thí nghiệm đánh giá hệ thống tuần hoàn nuôi tôm càng
xanh hậu bị bằng cách khảo sát các yếu tố môi trường trong các hệ thống nuôi sau đây:
- Khảo sát môi trường của ao lắng.
- Khảo sát môi trường trong từng bể nuôi của mỗi nghiệm thức thí nghiệm.
- Khảo sát môi trường từng nghiệm thức thí nghiệm.
4.1. Ao lắng
4.1.1. Nhiệt độ


Trong suốt thời gian nuôi, nước được cấp vào ao lắng và từ đây nước được bơm
trực tiếp lên bể nuôi. Sự biến động nhiệt độ của ao lắng cũng ảnh hưởng trực tiếp đến
sức khỏe của tôm nuôi, biến động nhiệt độ buổi sáng từ 28 33
o
C và biến động nhiệt độ
buổi chiều từ 29 36
o
C. Hầu hết các ngày nhiệt độ buổi chiều biến động từ 33
o
C trở lên
(đồ thị 4.1), nhìn trên đồ thị ta thấy thời gian đầu nhiệt độ nước rất cao vì thí nghiệm
được tiến hành vào giữa mùa nắng.
4.1.2. Độ pH



Đồ thị 4.1. Biến động nhiệt độ nƣớc ao lắng
Đồ thi 4.2. Biến động độ pH trong nƣớc ao lắng




20

Trong suốt quá trình nuôi nước ao lắng có độ pH buổi sáng biến động từ (7 8,3)
và pH buổi chiều biến động từ (7,3 9,6) (đồ thị 4.2), trong thời gian đầu pH cao có
ngày pH đạt mức 9,6 vì thời gian bố trí thí nghiệm vào tháng 3 ở mùa nắng nên khí hậu
nóng và tảo ở ao lắng mau tàn và khi tảo tàn làm cho độ pH tăng.
4.1.3. Một số yếu tố khác
Bảng 4.1. Chỉ tiêu thủy hoá trong nƣớc ao lắng
pH
sáng (7 8,3) ; chiều (7,3 9,6)
Nhiệt độ
sáng (28 33
o
C) ; chiều (29 36
o
C)
NH
4
-N
0,201 mg/l
NO
2
-N
0,128 mg/l
H
2
S
0,01 mg/l

CaCO
3

33,33 mg/l

Các yếu tố môi trường trong ao lắng (nguồn cung cấp nước cho hệ thống nuôi)
có nhiệt độ và pH cao quá ngưỡng vào một số thời điểm. Những bất lợi này ảnh hưởng
đến sức khỏe, tăng trưởng và thành thục của tôm. Nguồn nước cho vào trong hệ thống
nuôi cần phải đạt các giới hạn về yêu cầu môi trường sống của tôm càng xanh. Trong
điều kiện Trại Thực Nghiệm Thủ Đức cần chọn thời điểm hợp lý khi lấy nước từ sông
Rạch Chiếc. Nước nuôi lấy vào ao lắng nhiều lần trong tháng, nên cần có hệ thống xử
lý, lắng lọc trước khi cho vào hệ thống tuần hoàn.
4.2. Môi trƣờng của từng bể nuôi trong 3 nghiệm thức thí nghiệm
Để đánh giá hệ thống tuần hoàn nuôi tôm càng xanh hậu bị, chúng tôi phân tích
và so sánh các chỉ tiêu môi trường giữa 3 nguồn nước đó là nước đầu vào, nước trong
bể và nước đầu ra ở 3 nghiệm thức: bể đáy cát, bể đáy san hô có lưới và bể đáy không.
4.2.1. Yếu tố nhiệt độ và pH
i) Nghiệm thức 1 (bể đáy cát B2, B3, C4)
Nhiệt độ:
Nhiệt độ buổi sáng và buổi chiều giữa nước đầu vào, nước trong bể, nước đầu ra
của bể B2, B3, C4 là khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Nhiệt độ trung
bình buổi sáng đo được trong bể B2, B3, C4 lần lượt là 29,84
o
C; 29,84
o
C; 29,82
o
C:



21
nhiệt độ này thích hợp cho tôm. Nhiệt độ trung bình buổi chiều là 31,38
o
C; 31,33
o
C;
31,35
o
C. Do đó ở cả 3 bể đều có nhiệt độ trung bình buổi chiều cao hơn ngưỡng thích
hợp của tôm, trong đó bể B2 có nhiệt độ cao hơn bể B3 và C4.
Độ pH:
Độ pH buổi sáng của nước đầu vào, nước trong bể, nước đầu ra của bể B2, B3,
C4 là khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Độ pH buổi chiều giữa (nước đầu
vào; nước đầu ra) của bể B2, B3 là khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Riêng ở bể
B2 có pH (nước trong bể; nước đầu vào) là khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).
Độ pH trung bình buổi sáng đo được của B2, B3, C4 là 7,39; 7,34; 7,37 và pH trung
bình buổi chiều đo được trong bể B2, B3, C4 lần lượt là 7,82; 7,81; 8,03 đều nằm trong
khoảng thích hợp của tôm, theo M.B.New và S.Singholka (1985) pH thích hợp cho tôm
từ 7 8,5 (bảng 4.2, 4.3, 4.5, 4.6, 4.8, 4.9 phần phụ lục).
ii) Nghiệm thức 2 (bể đáy san hô có lưới B5, B7, C3)
Nhiệt độ:
Nhiệt độ buổi sáng và buổi chiều giữa nước đầu vào, nước đầu ra, nước trong
bể ở B5, B7, C3 là khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Nhiệt độ trung bình
buổi sáng đo được trong bể B5, B7, C3 là 29,85
o
C; 30,04
o
C; 29,84
o
C, nhiệt độ này

thích hợp cho tôm và nhiệt độ trung bình buổi chiều đo được trong bể B5, B7, C3 lần
lượt là 31,37
o
C; 31,62
o
C; 31,35
o
C. Như vậy nhiệt độ buổi chiều đều bị quá ngưỡng đối
với tôm, mặt dù trong bể B7 nhiệt độ cao hơn bể B5 và C3 phần nào cho thấy ảnh
hưởng đến sức khỏe của tôm, đồng thời làm giảm tỷ lệ sống và khả năng thành thục
của tôm.
Độ pH:
Độ pH buổi sáng của nước đầu vào, nước trong bể, nước đầu ra của bể B5, B7,
C3 là khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Độ pH buổi chiều (nước đầu vào;
nước đầu ra) của bể B5, C3 là khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Trong đó pH
trung bình buổi sáng của bể B5, B7, C3 là 7,36; 7,37; 7,4 và pH trung bình buổi chiều
tương ứng là 7,85; 7,88; 8,0 đều thích hợp đôi với tôm (bảng 4.11, 4.12, 4.14, 4.15,
4.17, 4.18 phần phụ lục).



22
iii) Nghiệm thức 3 (bể đáy không B9, B10, C2)
Nhiệt độ:
Nhiệt độ buổi sáng, chiều giữa nước đầu vào, nước trong bể, nước đầu ra là khác
biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Nhiệt độ trung bình buổi sáng trong bể B9,
B10, C2 lần lượt là 29,86
o
C; 29,77
o

C; 29,86
o
C nằm trong ngưỡng thích hợp và nhiệt độ
trung bình buổi chiều là 31,36
o
C; 31,29
o
C, 31,34
o
C.
Trong đó bể B9 có nhiệt độ cao hơn bể B10 và C3 với nhiệt độ cao này phần
nào ảnh hưởng đến sức khỏe của tôm.
Độ pH:
Độ pH buổi sáng, chiều giữa nước đầu vào, nước trong bể, nước đầu ra là khác
biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Độ pH trung bình buổi sáng trong bể B9,
B10, C2 lần lượt là 7,37; 7,34; 7,4 và pH trung bình buổi chiều là 7,85; 7,81;7,99 đều
thích hợp cho tôm (bảng 4.20, 4.21, 4.23, 4.24, 4.26, 4.27 phần phụ lục).
4.2.2. Yếu tố nitrite và amonia
i) Nghiệm thức 1 (bể đáy cát B2, B3,C4)
Nitrite: qua các chỉ số nitrite đo được của từng bể trong nghiệm thức này ta
thấy:
Ở bể B2 và C4: chỉ số nitrite giữa nước đầu vào, nước trong bể, nước đầu ra là
khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Bể B3 chỉ số nitrite so sánh cặp (nước
đầu vào; nước trong bể) và (nước đầu vào; nước đầu ra) là khác biệt có ý nghĩa thống
kê (p < 0,05). Sự khác biệt này giúp ta đánh giá hiệu quả của việc xử lý lượng nitrite
trong phần sau.
Lượng nitrite trung bình đo được ở các bể B2, B3, C4 lần lượt là 0,15 mg/l; 0,17
mg/l; 0,16 mg/l. Qua xử lý, so sánh chỉ số nitrite của nước trong bể và nước đầu ra thì
lượng nitrite lưu lại trong bể B2, B3, C4 lần lượt là 0,02 mg/l; 0,03 mg/l và 0,02 mg/l.
Do đó hiệu quả xử lý lượng nitrite trong bể không thải được hoàn toàn ra ngoài, ở bể

B3 lượng nitrite lưu lại cao hơn bể B2, C4 và lượng nitrite trong bể B3 cao do đó nó
ảnh hưởng đến tôm.


23
Amonia:
Bể B2, B3: so sánh cặp chỉ số amonia (nước đầu vào; nước trong bể) và (nước
đầu vào; nước đầu ra) là khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05); bể C4: so sánh cặp ở
cả 3 nguồn nước đều có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).
Lượng amonia trung bình đo được trong bể B2, B3, C4 tương ứng là 0,35 mg/l;
0,37 mg/l và 0,34 mg/l, trong đó lưu lượng amonia trong bể B2, B3,C4 lần lượt là 0,05
mg/l; 0,03 mg/l và 0,04 mg/l. Do đó hiệu quả thải lượng amonia của nước trong bể ra
ngoài là không hoàn toàn , cụ thể là ở bể B2 chỉ số amonia lưu lại trong bể cao hơn bể
B3 và C4. Vì vậy sự ô nhiễm trong bể B2 cao sẽ gây bất lợi trực tiếp đến tôm (bảng
4.4, 4.6, 4.10 phần phụ lục).
ii) Nghiệm thức 2 (bể đáy san hô có lưới B5, B7, C3)
Nitrite :
Bể B7, C3: so sánh cặp chỉ số nitrite của (nước đầu vào; nước đầu ra), (nước đầu
vào; nước trong bể) và (nước trong bể; nước đầu ra) là khác biệt không có ý nghĩa
thống kê (p > 0,05). Riêng ở bể B5 chỉ số nitrite so sánh cặp (nước đầu vào; nước đầu
ra) và (nước đầu vào; nước trong bể) là khác biệt có ý nghĩa thống kê (P < 0,05).
Lượng nitrite trung bình đo được ở các bể B5, B7, C3 lần lượt là 0,16 mg/l; 0,15
mg/l; 0,16 mg/l, trong đó lượng nitrite lưu lại trong bể B5, B7, C3 lần lượt là 0,02 mg/l;
0,01 mg/l và 0,01mg/l. Vì vậy lương nitrite lưu lại ở các bể trong nghiệm thức này
không có sự khác biệt lớn do đó lượng nitrite thải ra ngoài hiệu quả hơn ở các bể đáy
cát.
Amonia:
Bể B7, C3 chỉ số amonia so sánh từ các cặp (nước đầu vào; nước đầu ra), (nước
đầu vào; nước trong bể) và (nước trong bể; nước đầu ra) là khác biệt có ý nghĩa thống
kê (p < 0,05). Riêng ở bể B5 chỉ số amonia so sánh cặp (nước đầu vào; nước đầu ra) và

(nước trong bể; nước đầu ra) là khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).
Lượng amonia trung bình trung đo được trong bể B5, B7,C3 tương ứng là 0,37
mg/l; 0,35 mg/l và 0,34 mg/l, trong đó lượng amonia lưu lại trong bể B5, B7, C3 lần
lượt là 0,05mg/l, 0,02mg/l và 0,03 mg/l. Do đó hiệu quả đưa lượng amonia ra ngoài ở
bể B5, B7, C3 là không hiệu quả là dò dòng chảy không đủ mạnh để đưa các chất cặn


24
và thức ăn thừa ra ngoài. Chính vì thế lượng amonia lưu lại trong bể B5 cao sẽ gây ảnh
hưởng đến sức khỏe của tôm và đồng thời gây chết tôm (bảng 4.13, 4.16, 4.19 phần
phụ lục).
iii) Nghiệm thức 3 (bể đáy không B9, B10, C2)
Nitrite:
Ở bể B9, B10, C2: so sánh các cặp chỉ số nitrite của (nước đầu vào; nước trong
bể) và (nước đầu vào; nước đầu ra) là khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Tuy
nhiên lượng nitrite trung bình đo được trong bể B9, B10, C2 tương ứng là 0,17 mg/l;
0,17 mg/l và 0,15 mg/l, trong khi đó lượng nitrite lưu lại trong bể B9, B10, C2 lần lượt
là 0,02 mg/l; 0,01 mg/l và 0,01 mg/l giống như lưu lượng nitrite trong bể cát. Cho nên
lượng ô nhiễm trong bể B9 cao hơn bể B10, C2 được thể hiện cụ thể qua chỉ số nitrite
trong bể và chỉ số nitrite lưu lại trong bể, do đó sẽ gây bất lợi cho tôm.
Amonia:
Bể B9, B10, C2: so sánh cặp chỉ số amonia của (nước đầu vào; nước trong bể)
và (nước đầu vào; nước đầu ra) là khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).
Lượng amonia trung bình đo được trong bể B9, B10, C2 tương ứng là 0,39 mg/l,
0,33 mg/l, 0,3 mg/l, qua so sánh chỉ số amonia giữa nước trong bể và nước đầu ra thì
lượng amonia lưu lại trong bể B9, B10, C2 lần lượt là 0,03mg/l, 0,03mg/l, 0,02mg/l.
Tuy nhiên ở bể B9 lượng amonia trong bể cao hơn lượng amonia trong các bể đáy cát
và đáy san hô, cho nên sự ô nhiễm trong bể này cao ảnh hưởng đến sức khỏe của tôm.
Mặc dù lượng amonia lưu lại trong bể B9 so với các bể ở đáy cát và đáy san hô là thấp
hơn, do đó phần nào làm giảm bớt ảnh hưởng đến tôm (bảng 4.22, 4.25,4.28 phần phụ

lục).
4.3. Các yếu tố khác
Chỉ số DO và độ trong được phân tích ở phần 4.4 của từng nghiệm thức thí
nghiệm.


25
4.4. Môi trƣờng của từng nghiệm thức thí nghiệm
4.4.1. Yếu tố nhiệt độ và pH
i) Nghiệm thức 1 (bể đáy cát)
Dưới đây là bảng số liệu rút gọn được xử lý từ các số liệu ghi nhận hàng ngày
trong suốt quá trình làm thí nghiệm từ 3 nguồn nước của bể nuôi.
Bảng 4.29. Bể đáy cát: giá trị p của trắc nghiệm t giữa nhiệt độ trung bình
buổi sáng (trên đƣờng chéo) và pH trung bình buổi sáng (dƣới đƣờng chéo)

Nước đầu vào (1)
Nước đầu ra (2)
Nước trong bể (3)
Nước đầu vào (1)

0,0012
(30,61
(1)
1,043;
29,74
(2)
1,146)
0,0019
(30,61
(1)

1,043;
29,79
(3)
1,92)
Nước đầu ra (2)
0,7154
(7,32
(1)
0,084;
7,30
(2)
0,045)

0,1402
(29,74
(2)
1,146;
29,79
(3)
1,92)
Nước trong bể (3)
0,2900
(7,32
(1)
0,084;
7,36
(3)
0,063)
0,0240
(7,30

(2)
0,045;
7,36
(3)
0,063)

Ghi chú: (1) trung bình nước vào, (2) trung bình nước ra, (3) trung bình nước trong bể.
Với số liệu từ bảng 4.29 ở mục nhiệt độ buổi sáng chúng tôi ghi nhận được:
Nhiệt độ trung bình của hệ thống bể cát giữa (nước đầu vào; nước đầu ra) có p
= 0,0012 và (nước đầu vào; nước trong bể) có p = 0,0019 điều cho sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê vì (p < 0,05).
Nhìn chung vào buổi sáng nhiệt độ của 3 nguồn nước có sự chênh lệch, tuy
nhiên nhiệt độ trung bình trong hệ thống bể cát là 29,79
o
C với nhiệt độ này nằm trong
ngưỡng thích hợp của tôm. Trong khi đó nhiệt độ trung bình đầu ra là 29,74
o
C thấp hơn
nhiệt độ trong bể là do nước đầu ra ở đáy bể.
Cũng từ bảng 4.29 ở mục pH buổi sáng chúng tôi ghi nhận được:
Độ pH trung bình của nước (nước trong bể; nước đầu ra) là khác biệt có ý nghĩa
thống kê (P < 0,05). Tuy nhiên độ pH trung bình trong bể 7,36, với pH này thích hợp
cho tôm. Độ pH nước đầu vào 7,3 đây là pH của nước ao lắng được bơm trực tiếp lên
bể.



26
Tương tự như trên chúng tôi cũng ghi nhận được nhiệt độ và pH vào buổi chiều.
Bảng 4.30. Bể đáy cát: giá trị p của trắc nghiệm t giữa nhiệt độ trung

bình buổi chiều (trên đƣờng chéo) và pH trung bình buổi chiều (dƣới
đƣờng chéo).
Nước đầu vào (1)
Nước đầu ra (2)
Nước trong bể (3)
Nước đầu vào (1)

0,00002
(32,18
(1)
1,287;
31,25
(2)
1,302)
0,0011
(32,18
(1)
1,287;
31,35
(3)
1,395)
Nước đầu ra (2)
0,0925
(7,94
(1)
0,326;
7,76
(2)
0,195)


0,2216
(31,35
(3)
1,395;
31,25
(2)
1,302)
Nước trong bể (3)
0,4236
(7,94
(1)
0,326;
7,88
(3)
0,207)
0,0046
(7,88
(3)
0,207;
7,76
(2)
0,195)

Ghi chú: (1) trung bình nước vào, (2) trung bình nước ra, (3) trung bình nước trong bể
Theo bảng 4.30 số liệu chúng tôi ghi nhận ở phần mục nhiệt độ buổi chiều như
sau:
Nhiệt độ trung bình của (nước đầu vào; nước đầu ra) và (nước đầu vào; nước
trong bể) là khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Trong khi đó nhiệt độ trung bình
của nước trong bể là 31,35
o

C với nhiệt độ này cao hơn ngưỡng nhiệt độ thích hợp của
tôm, theo M.B.New (2002) tôm thành thục được nuôi trong bể ở nhiệt độ tốt nhất từ
27 31
o
C nhưng theo Su-Mei Chen và Jiann-Chu Chen (2002) nhiệt độ tốt nhất cho
sinh trưởng của tôm từ 29 31
o
C.
Cũng từ bảng 4.30 trên ở mục pH buổi chiều chúng tôi ghi nhận được như sau:
Độ pH nước trung bình buổi chiều giữa (nước trong bể; nước đầu ra) là khác
biệt có ý nghĩa thống kê (P < 0,05). Độ pH nước trung bình buổi chiều trong bể 7,88,
độ pH này nằm trong ngưỡng thích hợp cho tôm, theo một số tác giả như M.B.New và
S.Singholka (1985); M.B.New (2002) pH thích hợp cho tôm từ 7 8,5.
Độ pH trung bình nước đầu ra buổi sáng và buổi chiều thấp hơn so với pH trung
bình của nước trong bể là do sự phân hủy thức ăn thừa và chất cặn ở đáy bể.



27
ii) Nghiệm thức 2 (bể đáy san hô có lớp lưới)
Cũng tương tự như ở bể đáy cát chúng tôi cũng ghi nhận số liệu hàng ngày và
được xử lý thu gọn ở bảng dưới đây:
Bảng 4.31. Bể đáy san hô: giá trị p của trắc nghiệm t giữa nhiệt độ trung
bình buổi sáng (trên đƣờng chéo) và pH trung bình buổi sáng (dƣới
đƣờng chéo)

Nước đầu vào (1)
Nước đầu ra (2)
Nước trong bể (3)
Nước đầu vào (1)


0,0008
(30,62
(1)
1,050;
29,76
(2)
1,151)
0,0031
(30,62
(1)
1,050;
29,83
(3)
1,208)
Nước đầu ra (2)
0,7542
(7,32
(1)
0,089;
7,33
(2)
0,055)

0,1817
(29,83
(3)
1,208;
29,76
(2)

1,151)
Nước trong bể (3)
0,0997
(7,32
(1)
0,089;
7,37
(3 )
0,055)
0,1767
(7,37
(3)
0,055;
7,33
(2)
0,055)

Ghi chú: (1) trung bình nước vào, (2) trung bình nước ra, (3) trung bình nước trong bể.
Theo bảng 4.31ở mục nhiệt độ buổi sáng chúng tôi đã ghi nhận được như sau:
Nhiệt độ trung bình buổi sáng (nước đầu vào; nước đầu ra) và (nước đầu vào;
nước trong bể) là khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Tuy nhiên nhiệt độ trung
bình buổi sáng trong bể 29,83
o
C nằm trong ngưỡng thích hợp cho tôm.
Theo bảng 4.31 ở mục pH buổi sáng chúng tôi cũng ghi nhận được:
Độ pH trung bình của nước đầu vào, nước trong bể, nước đầu ra là khác biệt
không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Độ pH trung bình trong bể 7,37 nằm trong
ngưỡng thích hợp cho tôm tăng trưởng.
Tương tự như trên chúng tôi cũng ghi nhận được nhiệt độ và pH buổi chiều.










28
Bảng 4.32. Bể đáy san hô: giá trị p của trắc nghiệm t giữa nhiệt độ
trung bình buổi chiều (trên đƣờng chéo) và pH trung bình buổi chiều
(dƣới đƣờng chéo)

Nước đầu vào (1)
Nước đầu ra (2)
Nước trong bể (3)
Nước đầu vào (1)

0,00003
(32,17
(1)
1,293;
31,26
(2)
1,321)
0,0027
(32,17
(1)
1,293;
31,37

(3)
1,423)
Nước đầu ra (2)
0,0805
(7,95
(1)
0,322;
7,74
(2)
0,195)

0,1977
(31,37
(3)
1,423;
31,26
(2)
1,321)
Nước trong bể (3)
0,2690
(7,95
(1)
0,322;
7,88
(3)
0,239)
0,0182
(7,88
(3)
0,239;

7,74
(2)
0,195)

Ghi chú: (1) trung bình nước vào, (2) trung bình nước ra, (3) trung bình nước trong bể.
Theo bảng 4.32 ở mục nhiệt độ buổi chiều chúng tôi ghi nhận như sau:
Nhiệt độ trung bình giữa (nước đầu vào; nước đầu ra) và (nước đầu vào; nước
trong bể) là khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Nhiệt đô trung bình trong bể
31,37
o
C cao hơn ngưỡng thích hợp của tôm. Đối chiếu chỉ tiêu nhiệt độ ở nghiệm thức
này với hai nghiệm thức còn lại thì có thể thấy nghiệm thức san hô có lượng nhiệt cao
hơn.
Theo bảng 4.32 ở mục pH buổi chiều chúng tôi ghi nhận được:
Độ pH trung bình của nước trong bể và nước đầu ra là khác biệt có ý nghĩa
thống kê (p < 0,05). Trong khi đó độ pH trung bình của nước trong bể 7,88 nằm trong
ngưỡng của tôm.
iii) Nghiệm thức 3 (bể đáy không)
Tương tự như trên đây là bảng số liệu đã được xử lý từ số liệu ghi nhận hàng
ngày trong hệ thống bể đáy không trong suốt quá trình thí nghiệm.








29
Bảng 4.33. Bể đáy không: giá trị p của trắc nghiệm t giữa nhiệt độ trung

bình buổi sáng (trên đƣờng chéo) và pH trung bình buổi sáng (dƣới
đƣờng chéo)

Nước đầu vào (1)
Nước đầu ra (2)
Nước trong bể (3)
Nước đầu vào (1)

0,0008
(30,61
(1)
1,054;
29,73
(2)
1,140)
0,0019
(30,61
(1)
1,054;
29,79
(3)
1,186)
Nước đầu ra (2)
0,6714
(7,31
(1)
0,089;
7,30
(2)
0,063)


0,1942
(29,79
(3)
1,186;
29,73
(2)
1,140)
Nước trong bể (3)
0,1041
(7,31
(1)
0,089;
7,36
(3)
0,077)
0,0222
(7,36
(3)
0,077;
7,30
(2)
0,063)

Ghi chú: (1) trung bình nước vào, (2) trung bình nước ra, (3) trung bình nước trong bể.
Theo bảng 4.33 ở mục nhiệt độ buổi sáng chúng tôi đã ghi nhận được:
Nhiệt độ trung bình của (nước đầu vào; nước đầu ra) và (nước đầu vào; nước
trong bể) là khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Tuy nhiên nhiệt độ trung bình của
nước trong bể 29,79
o

C nằm trong ngưỡng thích hợp của tôm.
Từ bảng 4.33 ở phần pH buổi sáng được thể hiện cụ thể như sau:
Độ pH nước trung bình của nước trong bể và nước đầu ra là khác biệt có ý
nghĩa thống kê (p < 0,05). Độ pH nước trung bình trong bể 7,36 nằm trong ngưỡng của
tôm.
Tương tự như trên số liệu về nhiệt và pH buổi chiều được ghi nhận dưới bảng
sau:
Bảng 4.34. Bể đáy không: giá trị p của trắc nghiệm t giữa nhiệt độ trung
bình buổi chiều (trên đƣờng chéo) và pH trung bình buổi chiều (dƣới
đƣờng chéo)

Nước đầu vào (1)
Nước đầu ra (2)
Nước trong bể (3)
Nước đầu vào (1)

0,0001
(32,19
(1)
1,315;
31,24
(2)
1,303)
0,0005
(32,19
(1)
1,315;
31,34
(3)
1,387)

Nước đầu ra (2)
0,0255
(7,94
(1)
0,327;
7,75
(2)
0,212)

0,21512
(31,34
(3)
1,387;
31,24
(2)
1,303)
Nước trong bể (3)
0,2799
(7,94
(1)
0,327;
7,88
(3)
0,232)
0,0071
(7,88
(3)
0,232;
7,75
(2)

0,212)



30
Ghi chú: (1) trung bình nước vào, (2) trung bình nước ra, (3) trung bình nước trong bể.
Kết quả thể hiện ở bảng 4.34 ở mục nhiệt độ buổi chiều như sau:
Nhiệt độ trung bình giữa (nước đầu vào; nước đầu ra) và (nước đầu vào; nước
trong bể) là khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Tuy nhiên nhiệt độ trung bình
của nước trong bể 31,34
o
C cao hơn nhiệt độ thích hợp của tôm.
Theo bảng 4.34 thì độ pH nước trung bình (nước đầu vào; nước đầu ra) và
(nước trong bể; nước đầu ra) là khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Độ pH nước
trung bình trong bể 7,88 nằm trong ngưỡng thích hợp đối với tôm.
4.4.2 Số ngày có nhiệt độ, pH quá ngƣỡng trong các nghiệm thức
Bảng 4.35. Giá trị p của trắc nghiệm t giữa số ngày trung bình có pH quá
ngƣỡng (trên đƣờng chéo) và số ngày trung bình có nhiệt độ quá ngƣỡng
(dƣới đƣờng chéo)

Bể đáy cát (1)
Bể đáy san hô (2)
Bể đáy không (3)
Bể đáy cát (1)

0,7277
(2,09
(1)
; 2,13
(2)

)
0,5728
(2,09
(1)
; 2,50
(3)
)
Bể đáy san hô (2)
0,2532
(5,00
(1)
; 5,33
(2)
)

0,6096
(2,50
(3)
; 2,13
(2)
)
Bể đáy không (3)
1
(5,00
(1)
; 5,00
(3)
)
0,2532
(5,33

(2)
; 5,00
(3)
)

Ghi chú: (1) Số ngày trung bình bể cát, (2) số ngày trung bình bể san hô, (3) số ngày trung bình bể đáy không
Trong quá trình thí nghiệm nhiệt độ có ngày đạt mức 36
o
C cho nên phần nào
cũng ảnh hưởng đến sức khỏe của tôm. Nhưng theo M.B.New và W.C.Valenti (2000)
tôm trưởng thành có khả năng chịu được nhiệt độ rộng từ 18 34
o
C.
Số ngày trung bình quá ngưỡng nhiệt độ và pH của hệ thống bể cát, bể san hô có
lớp lưới, bể đáy không là khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
Trong hệ thống bể cát và không lót đáy có số ngày trung bìnnh nhiệt độ quá
ngưỡng là 5 ngày, trong hệ thống bể san hô có lớp lưới số ngày trung bình 5,33 ngày
cao hơn bể không lót đáy và bể cát, do đó số lần sốc nhiệt của tôm trong hệ thống bể
san hô có lớp lưới cao cho nên tôm thường bị stress và ảnh hưởng đến sức khỏe của
tôm.
Tuy nhiên nhiệt độ trong hai buổi sáng và chiều thì thấy rằng loại đáy bố trí ở
trong bể không gây ảnh hưởng nhiều đến nhiệt độ trong bể. Lý do đây là hệ thống tuần


31
hoàn, nước ra vào liên tục, nhiệt độ trong bể phụ thuộc chủ yếu vào nhiệt độ của ao
lắng.
Ngoài ra còn do hệ thống ống dẫn nước đầu vào quá nhỏ, bị đốt nóng thành ống
khi trời nắng làm cho nhiệt độ nước trong ống tăng khi được cấp vào bể nuôi.
Độ pH quá ngưỡng biến động từ 8,6 9,4, với pH cao sẽ gây bất lợi cho tôm, khi

pH tăng thì làm cho lượng amonia tăng có thể gây độc cho tôm.
4.4.3 Lƣợng oxy hòa tan (DO) trong các nghiệm thức
Ghi chú: (1) DO trung bình bể đáy cát, (2) DO trung bình bể đáy san hô, (3) DO trung bình bể đáy không.
Nhìn chung lượng DO trung bình sáng và chiều trong hệ thống bể cát từ
4,75 5,29 mg/l, trong hệ thống bể san hô từ 4,7 5,17 mg/l, trong hệ thống bể không lót
đáy từ 4,81 5,27 mg/l thích hợp cho tôm, theo M.B.New và W.C.Valenti (2000) DO
thích hợp cho tôm từ 3 7 mg/l.
Hàm lượng DO trong hệ thống bể cát và bể san hô, bể san hô và bể không lót
đáy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Tuy nhiên lượng DO cao thích hợp
cho nhu cầu oxy của tôm không ảnh hưởng lớn đối với sự sinh trưởng của tôm.
4.4.4 Độ trong của các nghiệm thức thí nghiệm
Bảng 4.37. Gía trị p của trắc nghiệm t so sánh độ trong của bể đáy
cát, bể đáy san hô, bể đáy không

Bể đáy san hô (2)
Bể đáy không (3)

Bể đáy cát (1)
8,05.10
-13

(24,77
(1)
± 2,979;
28,12
(2)
± 3,542)
0,000663
(24,77
(1)

± 2,979;
25,97
(3)
± 3,696)

Bể đáy san hô (2)

4,74.10
-8


Bảng 4.36. Gía trị p của trắc nghiệm t DO trung bình buổi chiều (trên
đƣờng chéo) và DO trung bình buổi sáng (dƣới đƣờng chéo)

Bể đáy cát (1)
Bể đáy san hô (2)
Bể đáy không (3)
Bể đáy cát (1)

0,0021
(5,29
(1)
± 0,274;
5,17
(2)
± 0,219)
0,5714
(5,29
(1)
± 0,274;

5,27
(3)
± 0,210)
Bể đáy san hô (2)
0,1354
(4,75
(1)
± 0,351;
4,70
(2)
± 0,373)

0,0004
(5,27
(3)
± 0,210;
5,17
(2)
± 0,219)
Bể đáy không (3)
0,1115
(4,75
(1)
± 0,351;
4,81
(3)
± 0,361)
0,0052
(4,81
(3)

± 0,361;
4,70
(2)
± 0,373)



32
(28,12
(2)
± 3,542;
25,97
(3)
± 3,696)
Ghi chú: (1) độ trong trung bình bể đáy cát, (2) độ trong trung bình bể đáy san hô, (3) độ trong trung bình
bể đáy không.
Độ trong trung bình trong hệ thống bể cát, san hô, bể không lót đáy có sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Độ trong trung bình của hệ thống bể cát 24,8 cm,
bể san hô có lưới 28,9 cm, bể không lót đáy 26,24 cm. Nhận thấy độ trong ở bể cát thấp
nhất trong 3 nghiệm thức đáy bể, chúng tôi có nhận định sơ bộ như sau:
Có thể do lượng cát quá ít không đủ để lắng đọng hay giử lại những chất cặn
hữu cơ lơ lửng.
Có thể là do các chất bùn cặn lơ lửng trong ao lắng được bơm liên tục lên bể qua
lượng nước đầu vào.
Độ sâu của nước trong bể thấp và bể thí nghiệm tương đối nhỏ.
Đây là hệ thống tuần hoàn nên nước trong bể bị xáo trộn liên tục.
Trong hệ thống bể san hô có độ trong cao vì nền đáy san hô có khả năng lắng
các chất bùn cặn và các chất thải dưới khe hở của lớp san hô dưới lớp lưới.
Độ trong trong 3 nghiệm thức thí nghiệm khác nhau, tuy nhiên không ảnh
hưởng lớn đến hoạt động bắt mồi của tôm.

4.4.5 Khảo sát lƣợng amonia và nitrite trong các nghiệm thức
Với việc đánh giá hiệu quả của 3 nền đáy trong cùng môt hệ thống tuần hoàn thì
chúng tôi chú trọng đến chỉ tiêu nitrite và amonia do chúng ảnh hưởng trực tiếp đến sức
khỏe, tỷ lệ sống và thành thục sinh dục của tôm.
Do đó việc ghi nhận số liệu và theo dõi được xử lý hàng ngày để kịp thời hạn
chế những nguy cơ gây hại cho tôm có thể xảy ra. Dưới đây là các bảng kết quả đã
được xử lý thu gọn theo thứ tự: bể đáy cát, bể đáy san hô có lưới và bể đáy không.
Bảng 4.38. Bể đáy cát: giá trị p của trắc nghiệm t giữa NO
2
-N trung bình
(trên đƣờng chéo) và NH
4
-N trung bình (dƣới đƣờng chéo)

Nước đầu vào (1)
Nước đầu ra (2)
Nước trong bể (3)
Nước đầu vào (1)

0,000352
(0,11
(1)
0,026;
0,14
(2)
0,026)
1,49.10
-7

(0,11

(1)
0,026;
0,16
(3)
0,030)


33
Nước đầu ra (2)
0,0288
(0,22
(1)
0,045;
0,31
(2)
0,063)

4,7.10
-6

(0,16
(3)
0,030;
0,14
(2)
0,026)
Nước trong bể (3)
0,0244
(0,22
(1)

0,045;
0,34
(3)
0,089)
0,0977
(0,34
(3)
0,089;
0,31
(2)
0,063)

Ghi chú: ( 1) trung bình nước vào, (2) trung bình nước ra, (3) trung bình nước trong bể .
Bảng 4.39. Bể đáy san hô: giá trị p của trắc nghiệm t giữa NO
2
-N trung bình
(trên đƣờng chéo) và NH
4
-N trung bình (dƣới đƣờng chéo)

Nước đầu vào (1)
Nước đầu ra (2)
Nước trong bể (3)
Nước đầu vào
(1)

8,71.10
-5
(0,11
(1)

± 0,032;
0,15
(2)
± 0,035)
1,75.10
-7

(0,11
(1)
0,032;
0,16
(3)
0,035)
Nước đầu ra (2)
0,0047
(0,22
(1)
0,037;
0,35
(2)
0,017)

0,0005
(0,16
(3)
0,035;
0,15
(2)
0,035)
Nước trong bể

(3)
0,0059
(0,22
(1)
0,037;
0,37
(3)
0,064)
0,5887
(0,37
(3)
0,064;
0,35
(2)
0,017)

Ghi chú: ( 1) trung bình nước vào, (2) trung bình nước ra, (3) trung bình nước trong bể.
Bảng 4.40. Bể đáy không: giá trị p của trắc nghiệm t giữa NO
2
-N

trung bình
(trên đƣờng chéo) và NH
4
-N

trung bình (dƣới đƣờng chéo)

Nước đầu vào (1)
Nước đầu ra (2)

Nước trong bể (3)
Nước đầu vào (1)

5,33.10
-5

(0,11
(1)
0,026;
0,15
(2)
0,033)
8,51.10
-7

(0,11
(1)
0,026;
0,16
(3)
0,036)
Nước đầu ra (2)
0,0095
(0,21
(1)
0,046;
0,31
(2)
0,064)


2,53.10
-5

(0,16
(3)
0,036;
0,15
(2)
0,033)
Nước trong bể (3)
0,0115
(0,21
(1)
0,046;
0,33
(3)
0,070)
0,1413
(0,33
(3)
0,070;
0,31
(2)
0,064)

Ghi chú: ( 1) trung bình nước vào, (2) trung bình nước ra, (3) trung bình nước trong bể .
Theo số liệu từ 3 bảng 4.38, 4.39, 4.40 ở mục hàm lượng nitrite chúng tôi ghi
nhận được:
Chỉ tiêu nitrite:
Lượng nitrite trung bình của (nước đầu vào; nước đầu ra), (nước đầu vào; nước

trong bể) và (nước trong bể, nước đầu ra) là khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).


34
Hiệu quả xử lý chất thải hữu cơ lơ lửng trong nước được đánh giá thông qua khả
năng thải amonia, nitrite trong bể ra ngoài, nghĩa là lượng nitrite nguồn nước trong bể
và nước đầu ra có chỉ số đo là như nhau. Qua số liệu xử lý thống kê, chỉ số nitrite trung
bình của nước trong bể đáy cát, bể đáy san hô, bể đáy không đều là 0,16 mg/l. Tuy
nhiên với lượng nitrite này thì cao hơn ngưỡng thích hợp của tôm, theo M.B.New và
W.C.Valenti (2000) lượng nitrite phải dưới 0,1 mg/l. Trong khi đó lượng nitrite nước
đầu ra của bể đáy san hô và bể đáy không đều 0,15 mg/l. Riêng bể đáy cát là 0,14 mg/l
thấp hơn bể đáy cát và bể đáy không. Vì vậy, qua số liệu xử lý lượng lưu lại ở bể đáy
san đáy cát, bể đáy không và bể đáy san hô lần lượt là 0,02 mg/l; 0,01 mg/l; 0,01 mg/l.
Chỉ số nitrite lưu lại trong bể đáy cát gấp 2 lần (0,02/0,01) bể đáy san hô và đáy
không.
Dựa vào kết quả dư lượng nitrite còn lại ở nguồn nước trong bể, ta có thể thấy
phần nào hệ thống bể đáy san hô và bể đáy không là có hiệu quả hơn, mặc dù hiệu quả
là không cao.
Chỉ tiêu amonia:
Kết quả số liệu ở 3 bảng 4.38, 4.39 và 4.40 về lượng amonia từ 3 nghiệm thức
(bể đáy cát, bể đáy san hô, bể đáy không) chúng tôi có kết luận sau:
Lượng amonia trung bình của (nước đầu vào; nước đầu ra) và (nước đầu vào;
nước trong bể) là khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Tuy nhiên lượng amonia
trung bình trong bể đáy cát, bể đáy san hô, bể đáy không lần lượt là 0,34 mg/l; 0,37
mg/l và 0,33 mg/l, cả 3 chỉ số amonia này đều cao hơn ngưỡng thích hợp của tôm, theo
New (1990) lượng amonia thấp hơn 0,1 mg/l. Tuy nhiên cả 3 chỉ số amonia này là
amonia tổng số, gây độc cho tôm khi pH tăng, theo M.B.New và W.C.Valenti (2000)
khi pH 8,5 9,0 thì amonia tổng số cao hơn 1 mg/l. Điều này cũng tạo ra những kết quả
không mong muốn từ quá trình thử nghiệm 3 nghiệm thức. Trong quá trình nuôi tác
động của hệ đáy lọc không đủ xử lý, làm giảm lượng amonia nên chúng tôi cố gắng

hạn chế một số ảnh hưởng gây độc trực tiếp đến tôm của amonia bằng kiểm soát pH,
nước vào và ra phải liên tục Cũng tương tự như so sánh chỉ số dư lượng amonia lưu
lại trong bể ở hệ thống bể đáy cát, bể đáy san hô, bể đáy không tương ứng là 0,03 mg/l;
0,02 mg/l và 0,02 mg/l thì có thể nhìn nhận sơ bộ là khả năng xử lý amonia ở bể đáy


35
cát thấp nhất. Mặc dù vậy nhưng chỉ số amonia trung bình trong nghiệm thức bể đáy
cát và đáy không là thấp hơn so với bể đáy san hô, nghĩa là lượng ô nhiễm trong 2
nghiệm thức (bể đáy cát và đáy không) thấp hơn lượng ô nhiễm trong nghiệm thức đáy
san hô và đó có thể là lý do chính dẫn đến tỷ lệ sống và thành thục trong bể san hô là
thấp nhất.
Tuy nhiên trong quá trình thí nghiệm, các chỉ số đo lượng nitrite và amonia từ
nguồn nước đầu vào (ao lắng) thường lớn hơn ngưỡng cho phép, có thể là nguồn nước
bị ô nhiễm từ sông, đây là một trong những hạn chế của đề tài. Do điều kiện không cho
phép nên chúng tôi không xử lý nước ao lắng trước khi cho chạy vào hệ thống tuần
hoàn nên số liệu đo lường các chỉ số nitrite cũng như amonia ngay từ ban đầu là đã khá
cao so với cho phép. Chúng tôi nhận định vấn đề này và hy vọng sẽ có những phương
pháp xử lý hay bố trí lại cho phù hợp với yêu cầu nghiên cứu hơn.
4.4.6 Số ngày có hàm lƣợng amonia và nitrite quá ngƣỡng
Bảng 4.4.1. Giá trị p của trắc nghiệm t giữa số ngày trung bình có NO
2
-N
quá ngƣỡng trên (đƣờng chéo) và số ngày trung bình có NH
4
-N quá
ngƣỡng (dƣới đƣờng chéo)

Bể đáy cát (1)
Bể đáy san hô (2)

Bể đáy không (3)
Bể đáy cát (1)

0,7952
(6,84
(1)
; 6,34
(2)
)
0,5892
(6,84
(1)
; 5,83
(3)
)
Bể đáy san hô (2)
0,1346
(2,92
(1)
; 2,17
(2)
)

0,2010
(6,34
(2)
; 5,83
(3)
)
Bể đáy không (3)

0,6376
(2,92
(1)
; 2,67
(3)
)
0,4744
(2,17
(2)
; 2,67
(3)
)

Ghi chú:(1) Số ngày trung bình bể cát, (2) số ngày trung bình bể san hô, (3) số ngày trung bình bể đáy không.
Số ngày trung bình có hàm lượng nitrite và amonia quá ngưỡng trong hệ thống
bể đáy cát, bể đáy san hô có lưới và bể đáy không là khác biệt không có ý nghĩa thống
kê (p > 0,05).
Chất nitrite và amonia là chất độc khi hàm lượng cao hơn ngưỡng thích hợp của
tôm, trong quá trình nuôi hàm lượng nitrite có ngày đạt 0,2 mg/l, mức cho phép là dưới
0,1 mg/l với hàm lượng nitrite cao làm cho tôm bị chết, trong hệ thống bể đáy cát trung
bình có 6,84 ngày lượng nitrite đạt mức 0,2 mg/l, bể san đáy hô có lưới là 6,34 ngày,
bể không lót đáy là 5,83 ngày.


36
Hàm lượng amonia cao trong bể có ngày đạt từ 0,5 mg/l trở lên, với hàm lượng
này có thể gây độc cho tôm theo Nguyễn Thanh Phương và ctv (2003) và Nguyễn Việt
Thắng (1995) hàm lượng amonia dưới 0,1 mg/l, trong hệ thống bể đáy cát có số ngày
trung bình có hàm lượng amonia cao là 2,92 ngày, bể đáy san hô có lưới là 2,17 ngày
và bể đáy không 2,67 ngày.


4.4.7 Đánh giá tỷ lệ sống và tăng trƣởng của tôm trong các nghiệm thức
4.5.1. Tỷ lệ sống
Ghi chú: (1) trung bình bể đáy cát, (2) trung bình bể đáy san hô, (3) trung bình bể đáy không.
Kết quả số liệu trong bảng 4.42 ở mục tỷ lệ sống chúng tôi ghi nhận được:
Số liệu so sánh tỷ lệ sống của (bể đáy cát; bể đáy san hô) và (bể đáy san hô; bể
đáy không) là khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Trên thực tế chúng tôi
ghi nhận tỷ lệ sống của hệ thống bể đáy cát đạt 94 , bể đáy san hô 83 , bể đáy không
89 . Ở bể đáy san hô có tỷ lệ sống thấp là vì bị ô nhiễm dưới lớp lưới, các chất cặn,
thức ăn thừa lắng đọng dưới lớp lưới phân hủy tạo chất độc đối với tôm, làm cho tôm
bị chết, được thể hiện cụ thể qua chỉ số amonia cao trong bể và việc xử lý nitrite ra
ngoài không hoàn toàn của bể đáy san hô và đồng thời lượng nitrite lưu lại trong bể
cao. Ngoài ra lớp lưới ở bể đáy san hô lâu ngày bị đóng rong làm tắt nghẽn lỗ thoát
dòng chảy không đưa được chất cặn ra ngoài do đó nó ảnh hưởng đến tỷ lệ sống.
Bảng 4.42. Gía trị p của trắc nghiệm t về tỷ lệ sống trung bình ( trên
đƣờng chéo) và tăng trọng trung bình ( dƣới đƣờng chéo)

Bể đáy cát (1)
Bể đáy san hô (2)
Bể đáy không (3)
Bể đáy cát (1)

0,0503
(0,94
(1)
± 0,055;
0,83
(2)
± 0,182)
0,0836

(0,94
(1)
± 0,055;
0,89
(3)
± 0,110)
Bể đáy san hô (2)
0,7726
(0,15
(1)
± 0,095;
0,14
(2)
± 0,063)

0,3536
(0,83
(2)
± 0,182;
0,89
(3)
± 0,110)
Bể đáy không (3)
0,3979
(0,15
(1)
± 0,095;
0,11
(3)
± 0,063)

0,3902
(0,14
(2)
± 0,063;
0,11
(3)
± 0,063)

×