Chương 1: MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Tôm càng xanh (Macrobrachium rosenergii) là loài sống chủ yếu ở nước ngọt,
có giá trị kinh tế cao bởi kích thước lớn, thịt thơm ngon và rất có giá trị xuất khẩu.
Với diện tích nguồn nước mặt rộng lớn ở nước ta, khả năng nuôi trồng các loài
thuỷ sản rất có triển vọng, đặc biệt là nuôi tôm. Việt Nam đã thực sự trở thành nước có
khả năng xuất khẩu tôm mạnh trong khu vực và trên thế giới (Nguyễn Việt Thắng,
2003).
Trên thế giới, việc sản xuất giống tôm càng xanh đã được thử nghiệm và đưa vào
sản xuất bởi nhiều tác giả: Ling (1969), Liao (1980), Adisukressno (1980), Aquacop
(1977 – 1980, 1983, 1984), Malecha (1982 – 1983),… (trích bởi Nguyễn Việt Thắng,
1993). Ở nước ta các nghiên cứu về sản xuất giống tôm càng xanh nhân tạo cũng được
triển khai sớm. Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thuỷ Sản II – Trung Tâm Nghiên Cứu
Sản Xuất Tôm Vũng Tàu đã cho tôm càng xanh sản xuất nhân tạo vào năm 1982 (Trần
Thanh Phục và ctv, 2001).
Một nghiên cứu khá đầy đủ của Nguyễn Việt Thắng (1993) đã khảo nghiệm các
đặc điểm sinh học, phân bố của tôm càng xanh ở Nam Bộ và một số qui trinh sản xuất
giống tôm càng xanh đạt kết quả khả quan.
Hiện nay, ở nước ta có 2 qui trình sản xuất giống được đưa vào sản xuất rộng rãi,
qui trình nước trong - hở, qui trình nước xanh - hở.
Trong khi đó qui trình nước trong tuần hoàn tỏ ra khá hiệu quả trong khống chế
các yếu tố môi trường đặc biệt là ammonia và nitrite. Tuy nhiên sự hoạt động của hệ
thống chưa ổn định, càng về cuối chu kỳ ương hệ lọc chưa giải quyết triệt để NH
3
-N và
NO
2
-N (Nguyễn Việt Thắng, 1993) và hệ lọc hoạt động dưới mức yêu cầu trong khi đã
theo các qui trình quản lý tốt (van Rijn và ctv, 2005).
-1-
Với lý do kể trên, được sự chấp thuận của Bộ Môn Công Nghệ Sinh Học -
Trường Đại Học Nông Lâm và Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thuỷ Sản II, chúng tôi
thực hiện đề tài: “Đánh giá hiệu quả hệ thống lọc tuần hoàn trong sản xuất giống
tôm càng xanh (Macrobrachium rosenergii) toàn đực”.
1.2. Mục tiêu đề tài
Đánh giá hiệu quả của hệ lọc tuần hoàn trong qui trình sản xuất giống tôm càng
xanh (Macrobrachium rosenbergii) toàn đực nhằm đề xuất các giải pháp kỹ thuật để ổn
định và nâng cao tỷ lệ sống của ấu trùng tôm càng xanh.
1.3. Nội dung nghiên cứu
Khảo sát sự biến động của các yếu tố môi trường nước nuôi ấu trùng như:
nhiệt độ, pH, ammonia (NH
3
-N), nitrite (NO
2
-N) và Vibrio tổng số.
Kiểm tra các giai đoạn biến thái của ấu trùng để đánh giá sự phát triển của ấu
trùng dưới sự quản lý chất lượng nước của hệ lọc sinh học tuần hoàn.
Đánh giá yếu tố môi trường và tỷ lệ sống của hậu ấu trùng ở các mật độ ương
khác nhau.
Qua đó đánh giá hiệu quả của hệ lọc sinh học thông qua việc xử lý và ổn định
của các yếu tố môi trường trong ương nuôi ấu trùng tôm càng xanh.
Đưa ra một số kiến nghị cải tiến đối với hệ thống ương tuần hoàn nằm ổn
định và nâng cao tỷ lệ sống của hậu ấu trùng.
-2-
Chương 2: TỔNG QUAN VỀ TÔM CÀNG XANH
2.1. Phân bố
2.1.1.Trên thế giới
Các loài tôm càng xanh thuộc giống Macrobrachium, phân bố khắp các vùng
nhiệt đới và Á nhiệt đới trên thế giới. Nhưng vùng chủ yếu là Nam và Đông Nam châu
Á, một phần của Đại Tây Dương và một vài bán đảo ở Thái Bình Dương. Hiện nay
được biết có trên 100 loài, hơn ¼ trong số này có ở châu Mỹ (Nguyễn Thị Thanh Thuỷ,
2002). Chúng hầu như có mặt ở tất cả các vùng nước ngọt nội địa, hồ, đầm lầy, kênh
dẫn nước, mương, ao và ở các lưu vực sông (Nguyễn Việt Thắng, 1993; Nguyễn Thị
Thanh Thuỷ, 2002).
Hầu hết các giống này đều cần có nước lợ cho các giai đoạn phát triển đầu tiên
của chu kỳ sống (và do đó đã gặp chúng ở các vùng nước có liên hệ giữa nước ngọt và
nước mặn). Một số mước trong tự nhiên không có tôm càng xanh như: Mỹ, Trung Quốc,
Đài Loan, Israel,… nay cũng đã nuôi được tôm càng xanh trong điều kiện nhân tạo
(Phạm Văn Tình, 2004a).
2.1.2. Ở Việt Nam
Ở nước ta, tôm càng xanh phân bố từ Nha Trang trở vào (Phạm Văn Tình,
2004b) nhưng phát triển thuận lợi nhất ở các tỉnh Nam Bộ (Nguyễn Việt Thắng, 1993),
đặc biệt là Đồng Bằng Sông Cửu Long (Trần Thanh Phục và ctv, 2001).
Là nước có sản lượng tôm càng xanh tự nhiên nhiều hơn cả. Ví dụ, trong năm
1980, Việt Nam khai thác ngoài tự nhiên khoảng 6000 tấn/năm, Campuchia 100 – 200
tấn/năm, Malaysia 120 tấn/năm, Thái Lan 400 – 500 tấn/năm (FAO 1979 được trích bởi
Phạm Văn Tình 2004b).
-3-
2.2. Phân loại
Vị trí phân loại của tôm càng xanh theo Hothius (1950) trích bởi Nguyễn Việt
Thắng (1993) như sau:
Nghành tiết túc: Athropoda
Lớp giáp xác: Crustacea
Lớp phụ giáp xác bậc cao: Malacostraca
Bộ mười chân: Decapoda
Bộ phụ chân bơi: Nantatia
Phân bộ: Caridea
Họ: Palamonidae
Họ phụ: Palamoninae
Giống: Macrobrachium
Loài: Macrobrachium rosenbergii de Man 1879.
2.3. Hình thái tôm càng xanh
Các đặc điểm của tôm càng xanh được New và Shingolka (1985) miêu tả khá chi
tiết. Theo New và Shingolka (1985) thì tôm càng xanh là loài có kích cỡ lớn nhất trong
các loài thuộc giống Macrobrachium.
Tôm càng xanh con đã lớn và cỡ trưởng thành, thường có màu xanh dễ nhận
(chúng không có màu đỏ trừ khi bị nấu chín). Trong số năm đôi chân bò, đôi chân thứ
hai rất to, so với các chân khác và tận cùng là một kẹp lớn. Cả hai chân này đều dài
bằng nhau (không như một số loài khác thuộc giống Macrobrachium).
Tôm càng xanh đực thành thục, to hơn con cái một cách rõ rệt và đôi chân bò thứ
hai cũng lớn và dày hơn. Tỷ lệ phần ngực (đầu) của tôm đực thì lớn hơn và phần bụng
thì nhỏ hơn tôm cái. Các lỗ sinh dục nằm giữa gốc của đôi chân bò thứ năm.
Đầu của tôm cái thành thục và đôi chân bò thứ hai của nó thì nhỏ hơn rất nhiều
so với tôm đực. Lỗ sinh dục của con cái, nằm ở gốc của đôi chân bò thứ ba, các tấm vỏ
bụng thì dài hơn và phần bụng cũng rộng hơn. Các tấm vỏ bụng tạo thành một buồng
-4-
rộng và trứng được chứa ở đó trong khoảng thời gian từ lúc đẻ cho đến lúc trứng nở.
Tôm cái thành thục hay mang trứng có thể nhận biết dễ dàng do buồng trứng là một
khối to màu da cam chiếm một khoảng lớn ở mặt lưng và phía hai bên của phần đầu
ngực.
-5-
2.4. Tập tính sinh sản và vòng đời của tôm càng xanh
Vòng đời của tôm càng xanh có 4 giai đoạn bao gồm trứng, ấu trùng, hậu ấu
trùng và tôm trưởng thành (Nguyễn Thị Thanh Thuỷ, 2002) và được mô tả như hình 2.2
Hình 2.2. Vòng đời của tôm Caridea. Hình vẽ của Foster và Wickins (1972).
Nguồn lấy tại website:
Tôm càng xanh sống chủ yếu ở nước ngọt nhưng ấu trùng lại phát triển trong
nước lợ (Trần Thị Thanh Hiền và ctv, 2003). Khi thành thục, tôm bắt cặp, đẻ trứng và
trứng dính vào các chân bụng của tôm mẹ. Tôm mang trứng di chuyển sang vùng cửa
sông nước lợ (7 – 18‰). Ấu trùng nở ra sống phù du và trãi qua 11 lần biến thái để trở
thành hậu ấu trùng. Thời gian để hoàn tất giai đoạn ấu trùng có thể dài hay ngắn tuỳ
theo điều kiện dinh dưỡng và môi trường, khoảng thời gian nhanh nhất là 16 ngày và
chậm nhất là 40 ngày (Phạm Văn Tình, 2004b).
Tôm có xu hướng tiến vào vùng nước ngọt như sông, rạch, ruộng, ao, hồ,…ở đó
chúng sinh sống và lớn lên. Tôm có thể di cư rất xa, trong phạm vi hơn 200 km từ bờ
biển vào vùng nội địa. Khi trưởng thành chúng lại di cư ra vùng có độ mặn thích hợp để
sinh sản và vòng đời lại tiếp tục (Phạm Văn Tình, 2004b).
Tôm càng xanh có đặc điểm mắn đẻ, gặp điều kiện thuận lợi, thức ăn đầy đủ,
tôm có thể cho đẻ 4 – 6 lần trong năm. Khi tôm đang mang trứng, buồng trứng vẫn phát
-6-
triển, phóng thích ấu trùng xong, sau 2 – 5 ngày lột xác, giao vỹ và đẻ tiếp. (Phạm Văn
Tình, 2004b).
Trứng thường nở vào ban đêm, sau 1 – 2 đêm mới nở xong (New và Shingolka,
1985), ấu trùng phải sống trong điều kiện nước lợ ở độ mặn từ 7 – 18‰, nếu được nở ở
nước ngọt thì ấu trùng phải di chuyển sang môi trường nước lợ để sống và phát triển.
Nếu không ấu trùng sẽ chết sau vài ngày (New và Shingolka, 1985; Phạm Văn Tình,
2004b).
2.5. Tập tính bắt mồi và tăng trưởng
Tôm càng xanh là loài ăn tạp thiên về động vật. Mức độ lựa chọn thức ăn không
cao. Thành phần thức ăn hầu như không thay đổi theo giới tính. Tôm càng xanh có hàm
răng nghiền khoẻ, ruột có cấu tạo ngắn nên khả năng tiêu hoá nhanh. Chúng ăn hầu hết
các loài động vật nhỏ, các mảnh vụn hữu cơ. Chúng thường thích bắt mồi vào ban đêm
hơn ban ngày (Phạm Văn Tình, 2004a).
Tôm tìm thức ăn bằng cơ quan xúc giác, dùng râu quét ngang dọc phía trước
đường đi của nó, đôi chân ngực thứ nhất như một cái kẹp để giữ và đưa thức ăn vào
miệng (Nguyễn Thị Thanh Thuỷ, 2002). Trong quá trình lớn lên, tôm trãi qua nhiều lần
lột xác. Chu kỳ lột xác của tôm phụ thuộc vào nhiều yếu tố như kích cỡ của tôm, nhiệt
độ, thức ăn, giới tính và điều kiện sinh lý của chúng (Nguyễn Thanh Phương, 2003).
2.6. Sinh học ương nuôi ấu trùng tôm càng xanh
2.7.1. Biến thái của ấu trùng tôm càng xanh
Sau đây là một khoá đơn giản để phân biệt các giai đoạn phát triển của ấu trùng
tôm càng xanh theo miêu tả của Uno và Soo, 1969 (trích bởi New và Shingolka, 1985).
Giai đoạn I: mắt chưa có cuống
Giai đoạn II: mắt có cuống
Giai đoạn III: chân đuôi xuất hiện
Giai đoạn IV: chuỷ có 2 răng ở cạnh trên
Giai đoạn V: đốt đuôi hẹp lại và kéo dài
Giai đoạn VI: mầm chân bụng xuất hiện
Giai đoạn VII: chân bụng có 2 nhánh và chưa có lông tơ
Giai đoạn VIII: chân bụng có lông tơ
-7-
Giai đoạn IX: nhánh trong của chân bụng có nhánh phụ trong
Giai đoạn X: chuỷ có 3 hay 4 răng ở đầu cạnh trên
Giai đoạn XI: chuỷ có răng ở nửa cạnh trên
Giai đoạn XII: chuỷ có răng ở nửa cạnh dưới
Giai đoạn I Giai đoạn II Giai đoạn III
Giai đoạn IV Giai đoạn V Giai đoạn VI
Giai đoạn VII Giai đoạn VIII Giai đoạn IX
Giai đoạn X Giai đoạn XI Giai đoạn XII (PL)
Hình 2.3. Khoá phân biệt các giai đoạn ấu trùng tôm càng xanh theo hình chụp
của Fujimura.
Nguồn lấy tại website
-8-
2.7.2. Môi trường sống của ấu trùng
2.7.2.1. Độ mặn
Có nhiều ý kiến khác nhau về ngưỡng nồng độ muối ương ấu trùng tôm càng
xanh, nhưng thường dao động từ 10 – 15‰ (New và Valenti, 2000). Nguyễn Việt
Thắng (1993); Nguyễn Thị Thu Thuỷ (2002) đã chọn độ mặn là 12‰ trong suốt quá
trình ương nuôi của mình. Nguyễn Thị Thu Thuỷ (2002) còn nhận thấy rằng một số ấu
trùng ngẫu nhiên còn sống sót trong bể nuôi tôm bố mẹ có độ mặn thấp (4 – 6‰) vẫn
biến thái thành hậu ấu trùng. Điều này cho thấy ấu trùng tôm càng xanh có khả năng
chịu nồng độ mặn dao động lớn.
New và Shingolka (1985) đề xuất nên giữ nồng độ mặn trong bể ương ấu trùng là
12‰ trong suốt từ giai đoạn I đến khi chuyển thành hậu ấu trùng hoàn toàn. Tác giả
cũng cho rằng ấu trùng tôm càng xanh có khả năng chịu mặn tốt, trong điều kiện nuôi
giống thì độ mặn có thể chênh lệch 12±2‰ không ảnh hưởng đến sự phát triển của ấu
trùng.
2.7.2.2. Độ pH
Độ pH nước trong bể chịu ảnh hưởng bởi một số quá trình xảy ra trong nước
bao gồm các hợp chất chứa nitơ, sự hoạt động hô hấp của ấu trùng, Artemia và các vi
sinh vật hiếu khí khác (New và Valenti, 2000).
Theo New và Valenti (2000) thì mức pH tối ưu cho phát triển của ấu trùng tôm
càng xanh nằm trong khoảng (7,0 – 8,5). Mặt khác, để có nước ương ấu trùng thì người
ta phải dùng nước biển được vận chuyển đến trại giống và pha với nguồn nước hiện có
ở địa điểm sản xuất. Theo New và Shingolka (1985) nguồn nước biển thường có pH dao
động từ 7,8 – 8,3 và pH của nước giếng ở các vùng ven biển thường dao động từ 7,1 –
7,5. Do vậy hai loại nước này nếu được pha vào nhau sẽ cho pH thích hợp.
-9-
2.7.2.3. Nhiệt độ
Nhiệt độ nước là một thông số rất quan trọng ảnh hưởng đến tỷ lệ sống và sự
phát triển của ấu trùng tôm càng xanh, vì vậy nó quyết định chiều dài giai đoạn phát
triển ấu trùng (New và Valenti, 2000).
Theo Nguyễn Việt Thắng (1993), ngưỡng nhiệt độ dưới của ấu trùng tôm càng
xanh là 21
0
C. Khi nhiệt độ tăng dần lên thì thời gian phát triển của ấu trùng càng rút
ngắn. Theo nhiều tác giả; New (1982), Fujimura (1966, 1977), Adisurkressno (1977,
1980) xác định ngưỡng nhiệt độ trên là 33 – 34
0
C. Các tác giả này đều thống nhất cho
rằng nhiệt độ tối ưu cho ấu trùng tôm càng xanh là từ 26 – 31
0
C. Dưới 24 – 26
0
C thì ấu
trùng phát triển không tốt (Nguyễn Việt Thắng, 1993). Trong khi đó Aquacop (1984) thì
cho rằng nhiệt độ trên 30
0
C thì ấu trùng có tỷ lệ sống thấp (Trần Thanh Phục và ctv,
2001).
2.7.2.4. Oxy hoà tan
Theo nhiều tác giả Ling (1969), Fujimura (1974), New (1982), Aquacop (1977,
1984) đều thống nhất lượng oxy hoà tan trong bể là 6 – 9 mg/l (trích bởi Nguyễn Thị
Thanh Thuỷ, 2002). Trong điều kiện sản xuất giống và nếu đảm bảo sục khí đầy đủ thì
không cần phải kiểm tra hàm lượng oxy hoà tan trong bể (New và Shingolka, 1985).
2.7.2.5. Ánh sáng
Ánh sáng mặt trời trực tiếp dường như có hại cho ấu trùng, đặc biệt là trong hệ
thống nước trong (New và Shingolka, 1985), nhưng cũng không thể thiếu ánh sáng cho
ấu trùng phát triển. Theo như tác giả đề xuất nên che 90% bề mặt bể để giảm tác hại của
ánh sáng trực tiếp.
Ấu trùng tôm càng xanh cũng như ấu trùng của các loài giáp xác khác đều có tính
hướng sáng tốt, nếu trong bể cường độ ánh sáng lớn sẽ vô tình tạo điều kiện cho ấu
trùng tập trung, bám nhau, cạnh tranh về thức ăn trong một không gian hẹp (Nguyễn Thị
Thu Thuỷ, 2002). Điều này không tốt bởi vì tập tính của tôm càng xanh là ăn tạp và ăn
thịt lẫn nhau (New và Valenti, 2000), con vừa lột xác còn yếu sẽ dễ làm mồi cho những
con khác trong đàn.
-10-
Tác động của ánh sáng đến ấu trùng còn liên quan đến màu sắc của bể ương bởi
vì màu sắc bể phản chiếu ánh sáng truyền vào. Theo Phạm Văn Tình (2004a) nếu sơn bể
màu trắng, ánh sáng chiếu vào bể sẽ bị phản chiếu trở lại làm cho ấu trùng bị lầm dẫn đế
rối loạn sinh lý. Một nghiên cứu mới đây của Tidwell và ctv (2005) cho thấy dùng bể
màu đỏ và màu xanh lá cây thì tỷ lệ sống của ấu trùng là 84% và 78% so với bể sơn màu
trắng và màu xanh dương là 56% và 44%, bể sơn màu vàng và màu đen đều bằng 71%.
Các báo cáo về nuôi ấu trùng tôm càng xanh thành công thì cường độ ánh sáng trong
khoảng 250 – 6500 lux (New và Valenti, 2000).
2.7.2.6. Hợp chất có chứa nitơ
Các hợp chất nitơ hoà tan trong nước như: ammonia (NH
3
-N), nitrite (NO
2
-N),
nitrate (NO
3
-N) là các thông số đánh giá chất lượng nước rất quan trọng trong hệ thống
tuần hoàn. Điều khiển các hợp chất này cho biết điều kiện của lọc sinh học và hiệu quả
của hệ thống (New và Valenti, 2000). Chất lượng nước trong bể ương rất dễ bị biến đổi
chính do sản phẩm bài tiết của ấu trùng, Artermia và do sự phân huỹ của thức ăn thừa.
Một vài biến đổi có thể rất có hại cho ấu trùng. Nguy hiểm nhất là sự tăng ammonia
chưa ion hoá (NH
3
), chất này làm tăng pH và nitrite (New và Shingolka, 1985).
Aquacop (1977, 1983), Griessinger (1986), Liao và Mayo (1972) đã xác định
ngưỡng sinh lý của một số hợp chất nitơ đối với ấu trùng tôm càng xanh trong môi
trường ương: NH
4
+
là 0,005 – 1,000 mg/l; NO
2
-
là 0,002 – 0,350 mg/l; NO
3
-
là 0,5 – 3,5
mg/l (Trích bởi Nguyễn Thị Thu Thuỷ, 2002).
New và Shingolka (1985) cho rằng không nên lấy nước có hàm lượng nitrite
(NO
2
-N) và nitrate (NO
3
-N) cao hơn 0,1 ppm và 20 ppm.
Trong hệ thống ương tuần hoàn kín, hệ lọc sinh học có tác dụng làm giảm nồng
độ các hợp chất độc này (van Rijn và ctv, 2005). Thông qua các vật liệu lọc sinh học
nhằm gia tăng lượng vi sinh vật tham gia thực hiện quá trình khoáng hoá và nitrate hóa
để chuyển đổi các dạng độc chất ammonia và nitrite thành dạng nitrate vô hại (Nguyễn
Việt Thắng, 1996).
-11-
Bảng 2.1. Một số chỉ tiêu môi trường đòi hỏi với nguồn nước sử dụng trong nuôi
ấu trùng tôm càng xanh
Chỉ tiêu (ppm) Nước ngọt Nước biển Nước lợ
Rắn tổng số (như CaCO
3
) <120 ~ 2325 – 2715
Ca 12 – 24 390 – 450 175 – 195
Na 28 – 100 5950 – 10500 3500 – 4000
K 2 – 24 400 – 525 157 – 220
Mg 10 – 27 1250 – 1345 460 – 540
SiO
2
41 – 53 3 – 14 5 – 30
Fe <0,2 0,05 – 0,15 <0,03
Zn 0,2 – 0,4 0,03 – 4,6 <3
Cr <0,01 <0,005 <0,01
Pb <0,02 <0,03 <0,03
Cl 40 – 225 19000 – 19600 6600 – 7900
SO
4
3 – 8 ~ ~
PO
4
<0,2 ~ ~
Chất rắn hòa tan tổng số 217 ~ ~
Oxy hòa tan >4 >5 >5
NH
3
-N ~ ~ <0.1
NO
2
-N ~ ~ <0.1
NO
3
-N ~ ~ <20
pH 6,5 – 8,5 7,0 – 8,5 7,0 – 8,5
Nhiệt độ ~ ~ 28 – 31
0
C
Ghi chú: “~”: không biết hay không cần thiết. Nguồn: New (2002)
-12-
2.8. Vấn đề chăm sóc, quản lý
Hầu hết các vấn đề phát sinh trong nhà giống đều do nguyên nhân quản lý kém
(New và Shigolka, 2000).
2.8.1. Cho ăn
Một khía cạnh không kém phần quan trọng trong sản xuất giống tôm càng xanh
đó là kỹ thuật cho ăn (New và Valenti, 2000) bởi vì thức ăn đóng vai trò quan trọng
quyết định đến tỷ lệ sống, biến thái cũng như môi trường nước ương (Trần Thị Thanh
Hiền và ctv, 2003). Có 2 loại thức ăn được dùng, đó là nauplius Artemia và thức ăn chế
biến (New và Shingolka, 1985).
Thức ăn chế biến có nhiều công thức phối chế rất khác nhau, nhưng chủ yếu gồm
các loại nguyên liệu sau: thịt tôm, thị mực, trứng cá, dầu cá, các vitamine và khoáng
chất (New và Shingolka, 1985). Việc cho ăn nên đảm bảo đầy đủ để tránh ấu trùng đói,
chúng sẽ ăn thịt lẫn nhau. Tuy nhiên nếu thừa nhiều thức ăn (nhất là thức ăn chế biến) sẽ
làm nước bể ương bị dơ, làm cơ sở cho mầm bệnh tấn công (New và Shingolka, 1985).
2.8.2. Vệ sinh
Đảm bảo bệ sinh tốt sẽ góp phần ngăn ngừa dịch bệnh (New và Valenti, 2000).
Nước thay được xử lý kém hay vệ sinh kém là nguyên nhân xuất hiện nấm
(Zoothanium), ký sinh (Epistylis), hydroid (thuỷ tức) có ảnh hưởng bất lợi tới ấu trùng.
(New và Valenti, 2000).
Theo như đề xuất của New và Shingolka (1985) thì mỗi bể nên có dụng cụ vệ
sinh riêng. Các bể nên được vệ sinh, khử trùng giữa hai chu kỳ ương theo quy trình. Cọ
rữa bể, xử lý bằng 1,5 ppm chrorine. Phun 250 ppm formaline, phơi dưới ánh nắng mặt
trời rồi rữa lại. Nếu không thực hiện tốt việc vệ sinh sẽ làm phát triển rộ các vi sinh vật
trên.
-13-
2.9. Tạo đàn tôm toàn đực bằng kỹ thuật vi phẩu
2.9.1. Ưu thế của việc sản xuất đàn toàn đực
Một trở ngại lớn trong nuôi tôm càng xanh thương phẩm là sự phân đàn khi nuôi
chung tôm đực và tôm cái. Tôm đực thường lớn nhanh hơn tôm cái trong một quần đàn
(Ra’anna và Sagi, 1986). Trở ngại này làm ảnh hưởng đáng kể đến kích cỡ và sản lượng
tôm thương phẩm (Smith và ctv, 1978; Brody và ctv, 1980; Cohen và ctv, 1981; Sagi và
ctv, 1986; Nguyễn Vệt Thắng, 1993) trích dẫn bởi Nguyễn Văn Hảo và ctv, 2004.
Với sự cố gắng bước đầu trong sản xuất đàn tôm càng xanh toàn đực của Sagi,
Ra’anan, Cohen và Wax (1986) trên quy mô nuôi nhỏ đã cho thấy khả năng sản xuất cao
của đàn toàn đực sau 150 ngày nuôi. Năng suất đạt 473 g/m
2
của đàn toàn đực so với
248 – 260 g/m
2
của đàn tôm bình thường có hỗn hợp đực cái. Việc sản xuất đàn toàn
đực cho năng suất cao và đạt kích cỡ thương mại nhanh hơn (Sagi và Aflalo, 2005).
Sau đó Cohen, Sagi, Ra’anan và Zohar (1988) thực hiện việc thử nghiệm nuôi
đàn toàn đực tập trung trong ao đất (Sagi và Aflalo, 2005) và cho thấy đàn toàn đực cho
năng suất thương mại cao, gia tăng trọng lượng trung bình, lợi nhuận thu được cũng
tăng 18% ở Israel.
2.9.2. Vai trò của tuyến đực trong xác định giới tính ở tôm càng xanh
Không giống như các loài động vật có xương sống, ở giáp xác đực chức năng nội
tiết và sinh giao tử phân biệt thành 2 cơ quan rõ rệt: tuyến đực (androgenic gland) và
sinh tinh trùng (testis) (Ginburger-Vogel & Charniaux – Cotton 1982; Charniaux –
Cotton & Payen 1988) trích bởi Sagi và Aflalo (2005).
Năm 1990, qua quá trình nghiên cứu, Sagi và ctv đã phát hiện ra tuyến đực có vai
trò quan trọng đối với sự hình thành giới tính và các đặc điểm sinh dục phụ thứ cấp
cũng như ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng ở giáp xác.
Năm 2000, Phạm Anh Tuấn và ctv làm thí nghiệm cắt tuyến sinh dục của tôm
càng xanh giống cỡ 3 – 5 cm đã làm thay đổi cấu trúc sinh dục của tôm càng xanh. Theo
tác giả thì cồn 96
0
có thể tác dụng phá hũy cấu trúc của tuyến đực và làm thay đổi một
số đặc điểm sinh dục phụ trên tôm càng xanh đực.
-14-
Theo nhiều tác giả (Nagamine, Knight, Maggesnti và Pax, 1980) tôm càng xanh
đực đã được biệt hoá ở giai đoạn phát triển còn non. Điều này chứng tỏ tôm càng xanh
đực có mức thuộc cái cao, bao gồm sự phát triển của vòi trứng và ống dẫn trứng (Sagi
và Aflalo, 2005) khi chưa được biệt hoá đực.
Ở tôm càng xanh, theo Veith và Malecha (1983) tuyến đực gồm một sợi các tế
bào bao quanh bởi một lớp mô liên kết hình thành nên một cụm liên kết lỏng lẽo nằm
phía sau của ống dẫn tinh (Sagi và Aflalo, 2005). Theo tác giả có thể thao tác loại tuyến
đực mà không làm hư hại tuyến sinh dục này để ảnh hưởng đến sự biệt hoá giới tính
sớm của tôm càng xanh. Năm 1990, Sagi và ctv đã ghi nhận tôm càng xanh giống loại
bỏ tuyến đực đã chuyển đổi giới tính hoàn toàn thành con cái và phát triển thành tôm cái
thật sự có khả năng giao vỹ và sinh ra thế hệ con 100% đực.
2.9.3. Cơ sở tạo đàn tôm toàn đực
Nghiên cứu bộ gen trên tôm càng xanh của Malecha và ctv (1992) đã xác định
được cặp nhiễm sắc thể giới tính của tôm càng xanh đực là đồng giao tử ZZ và của con
cái là dị giao tử WZ (Sagi và Aflalo, 2005). Việc loại tuyến đực sẽ làm cho con đực có
xu hướng cái hoá và có khả năng mang trứng. Khi đó tôm cái giả (kiểu gen ZZ) giao
phối với tôm đực bình thường (kiểu gen ZZ) sẽ cho đàn toàn đực (kiểu gen ZZ).
Ở Việt Nam, năm 2004, Nguyễn Văn Hảo và ctv đã nghiên cứu bước đầu sản
xuất đàn toàn đực bằng kỹ thụât vi phẩu, tôm đực PL 30 – 60 ngày tuổi được chọn làm
thí nghiệm, dùng kỹ thuật vi phẩu như mô tả của Sagi và Cohen (1990) để loại tuyến
đực đạt được một số kết quả bước đầu. Trong 43 quần đàn phát hiện 7 quần đàn 100%
toàn đực, 7 tôm cái giả có thể cho sản xuất toàn đực. Theo tác giả, sau vi phẩu tôm được
thả nuôi và kiểm tra đàn con F
1
. Nếu F
1
100% toàn đực thì ta kết luận vi phẩu thành
công và con cái tạo ra được gọi là cái giả.
2.10. Các qui trình nuôi tôm càng xanh trong sản xuất giống
Hiện nay, các qui trình được sử dụng trong sản xuất giống tôm càng xanh (theo
Nguyễn Việt Thắng, 1993) như:
- Qui trình nước xanh hệ hở (do Fujimura nghiên cứu vào năm 1974)
- Qui trình nước trong hệ hở (do Ling (1969) và Aquacop (1983))
-15-
- Qui trình nước trong hệ kín (được nghiên cứu từ năm 1977 đến năm 1986)
2.11. Qui trình nước trong hệ kín
2.11.1. Giới thiệu
Được nghiên cứu từ năm 1977 đến năm 1986 qui trình căn bản được hoàn thiện
và đưa vào sử dụng. Theo Nguyễn Việt Thắng (1993) đây là hệ thống ở đó nước nuôi
được tái xử lý bằng các biện pháp xử lý nước (lọc cơ học, lọc sinh học, hấp thụ vật lý,
tẩy uế, sục khí…) để tái sử dụng nguồn nước này.
Trong tuần hoàn kín, hệ thống lọc sinh học là một hệ thống quan trọng nhất. Lọc
sinh học được sử dụng chủ yếu để loại bỏ chất thải nitơ, chủ yếu từ ammonia do ấu
trùng và thức ăn tươi (Artemia…) trong quá trình bài tiết và từ sự phân hủy vật liệu hữu
cơ.
Hình 2.4. Sơ đồ tác động của vi sinh vật trong hệ thống tuần hoàn.
Nguồn: Nguyễn Việt Thắng (1996)
Hình 2.5. Sơ đồ qui trình nước tuần hoàn kín.
Nguồn: Nguyễn Thị Thanh Thuỷ (2002)
-16-
Sản phẩm độc Khoáng hoá Nitrate hoá Sản phẩm vô hại
Vi sinh vật
Nước nuôi
Gây nuôi vi
khuẩn
Nitrosomonas
Nitribacter
Nước lợ
12‰ đã qua
xử lý
HỆ THỐNG BỂ ƯƠNG
Post larvae
Ngọt hóa
0‰
Ấu
trùng
Thức
ăn
Chăm
sóc
Phòng và
kiểm soát
bệnh
THEO NHẬT KÝ SẢN XUẤT GIỐNG
LỌC SINH HỌC CÂN BẰNG VỚI HỆ THỐNG ƯƠNG
Về cơ bản việc ứng dụng qui trình nuôi tôm theo mô hình tuần hoàn kín mang lại
một số ưu điểm là: tiết kiệm lượng nước nuôi, giảm thiểu tác hại của môi trường, tiết
kiệm công sức lao động. Nhưng đây là qui trình khó, đòi hỏi trình độ kỹ thuật cao, trang
thiết bị tốn kém và vốn đầu tư lớn (Nguyễn Việt Thắng, 1993; Nguyễn Thị Thanh Thuỷ,
2002). Và một trong các điểm yếu của qui trình này là nếu có sự cố xảy ra như bệnh trên
một bể trong hệ thống thì nó sẽ lan truyền cho cả hệ thống nuôi. Một hạt hữu cơ rơi vào
hệ lọc cũng có thể là nguyên nhân gây bệnh cho hệ thống (New và Shingolka, 1985).
2.11.2. Các quá trình sinh hóa xảy ra trong lọc sinh học
2.11.2.1. Quá trình khoáng hoá
Là giai đoạn đầu tiên của quá trình lọc sinh hoc, các chất thải chứa nitơ được các
vi khuẩn dị dưỡng hấp thụ và chuyển thành ammonia đơn giản.
Sự khoáng hoá bằt đầu bằng việc phân giải các hợp chất protein và acid nucleic
để tạo nên các acid amine và bazơ hữu cơ có chứa nitơ. Tiếp đó quá trình khoáng hoá sẽ
khử amine bởi các vi khuẩn, trong đó một nhóm amino sẽ tách ra để hình thành
ammonia.
2.11.2.2. Quá trình nitrate hoá
Sau đó, nhờ quá trình nitrate hóa, ammonia được chuyển thành dạng nitrate vô
hại đối với ấu trùng của tôm (Spotte 1979). Kaiser, Wheatgon (1983) và Brock (1994)
đã mô tả quá trình nitrate hóa ammonia bắt nguồn từ hoạt động của chuỗi vi khuẩn
nitrate hóa. Nhóm đầu tiên oxi hóa ammonia thành NO
2
-
, đại diện là giống
Nitrosomonas và Nitrosococus. Nhóm thứ 2 oxi hóa NO
2
-
thành NO
3
-
, thuộc giống
Nitrobacter, Nitrospira, Nitrococcus (Brock và ctv, 1994). Quá trình nitrate hóa liên
quan đến cả sự oxi hóa và tổng hợp, kết quả dẫn đến việc tiêu thụ O
2
và loại bỏ tính
kiềm. Nhóm vi khuẩn Nitrosomonas và Nitrobacter là các nhóm chính của những vi
khuẩn tự dưỡng thực hiện sự nitrate hóa ở cả môi trường nước ngọt, nước lợ, nước mặn.
Phương trình của sự nitrate hóa như sau :
NH
4
+
+ OH
-
+
2
3
O
2
= H
+
+ NO
2
-
+ H
2
0 (1)
NO
2
-
+
2
1
O
2
= NO
3
-
(2)
-17-
2.11.2.3. Quá trình khử nitrate
Ngoài ra trong hệ lọc sinh học còn có quá trình khử nitrate. Đây là một quá trình
kỵ khí xảy ra ở phần bể lọc thiếu oxy bởi vi khuẩn kỵ khí thật sự hoặc là các loài hiếu
khí chuyển sang hô hấp kỵ khí khi điều kiện thiếu oxy. Kết quả sự khử nitrate là đã
chuyển nitơ về dạng oxy hóa thấp hơn (N
2
O, N
2
…). Ở trạng thái oxy hóa hoàn toàn
(N
2
), một số nitơ có thể tách khỏi dung dịch đi vào không khí, vì thế quá trình khử
nitrate làm giảm lượng nitơ của dung dịch.
Trong 3 quá trình sinh hóa quan trọng của sự lọc sinh học thì 2 quá trình khoáng
hóa và nitrate hóa có ý nghĩa quan trọng cho việc ‘tái sinh nước’, giữ được chất lượng
nước ổn định. Quá trình khử nitrate xảy ra ở những phần của bể lọc bị thiếu oxy và sản
phẩm của quá trình này thường làm nhiễm bẩn môi trường. Vì vậy, hàm lượng oxy
trong bể lọc rất có ý nghĩa.
Nguồn : Nguyễn Việt Thắng (1996).
2.11.3. Vi sinh vật trong lọc sinh học
Hai nhóm vi khuẩn chủ yếu cần thiết trong hệ lọc sinh học thuộc hai nhóm sinh
vật dị dưỡng và tự dưỡng đặc biệt là nhóm vi khuẩn tự dưỡng Nitrosomonas và
Nitrobacter là 2 nhóm quan trọng thực hiện quá trình nitrate hoá. Các vi khuẩn
Pseudomonas… có ý nghĩa cho việc khử nitrate.
Ngoài ra nười ta cũng nhận thấy sự có mặt của Protozoa, Amoeba, Rotifer, và
một số lượng lớn Mematodes…
Các vi sinh vật trong hệ lọc sống lơ lửng hoặc tạo thành một màng nhầy như một
quần thể sinh vật. Màng nhầy này có vai trò chuyển NH
4
+
và
NO
2
-
thành NO
3
-
theo sơ đồ
ở hình 2.6.
-18-
Hình 2.6. Quá trình nitrate hoá ở màng nhầy sinh học
Kết quả của quá trình nitrate hoá sẽ acid hoá môi trường vì sự hình thành H
+
(xem phương trình 1 và sơ đồ màng nhầy), vì vậy để ổn định pH môi trường, thường
phải cung cấp vật liệu cho bể lọc các đá san hô, đá vôi tạo ra được Alkalinity (HCO
3
-
)
để trung hoà H
+
:
H
+
+ HCO
3
-
↔ CO
2
↑ + H
2
O
Người ta gọi đó là hệ thống đệm bicacbonate, nhờ đó mà môi trường nước nuôi
giữ được độ kiềm ổn định.
Nguồn: Nguyễn Việt Thắng (1996)
-19-
NO
2
Màng nhầy
NO
3
-
O
2
NO
2
H
+
HCO
3
-
Alkalinity
H
2
O
O
2
H
2
O
CO
2
H
2
O
Chương 3: VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
3.1. Địa điểm nghiên cứu
Thí nghiệm được thực hiện tại “Trại Thực Nghiêm Nuôi Thuỷ Sản Thủ Đức”-
Phòng Sinh Học Thực Nghiệm (658 Kha Vạn Cân, Thủ Đức). Và “Trung Tâm Quan
Trắc Môi Trường và Dịch Bệnh Thuỷ Sản” trực thuộc Viện Nghiên Cứu và Nuôi Trồng
Thuỷ Sản II (116 Nguyễn Đình Chiểu, Quận 1)
3.2. Thời gian nghiên cứu
Đề tài được thực hiện từ 7/3/2005 – 7/8/2005.
3.3. Vật liệu
3.3.1. Nguồn nước
Sử dụng nguồn nước lấy từ giếng khoan và nguồn nước máy làm nguồn nước
ngọt, nước biển được mang về từ Vũng Tàu. Hai nguồn nước này được xử lý và pha
trộn để có độ mặn 12‰.
3.3.2. Ấu trùng
Tôm mẹ mang trứng có nguồn gốc từ tôm đực đã được vi phẩu loại tuyến đực có
khả năng mang trứng để sản xuất đàn ấu trùng dùng cho các thí nghiệm. Các tôm mẹ
mang trứng xám được bắt từ bể nuôi tôm bố mẹ vào trong nhà giống để ấp. Ấu trùng nở
ra sau 1 – 2 ngày được bố trí cho vào bể ương.
3.3.3. Nhà giống
- Cấu trúc máy che bằng tole xi măng
- Vách làm bằng bạc nhựa nilông
- Nền được tráng xi măng
3.3.4. Bể
Có 20 bể composite thể tích 100 lít dùng cho các thí nghiệm ương ấu trùng.
Ngoài các bể ương ấu trùng còn có các bể chứa nước biển (10 m
3
), bể xử lý nước 0,5 m
3
và 1 m
3
. Các xô ấp cho tôm mẹ mang trứng để thu ấu trùng, keo thuỷ tinh 10 lít để ấp
Artemia.
-20-
3.3.5. Hệ lọc sinh học và hệ thống bể ương
- 4 bể lọc san hô dung tích 0,5m
3
/bể
- Máy tách đạm (fresh protein skimmer)
- Máy tạo khí Ozon (O
3
)
- Hệ thống đường ống và dây dẫn khí
- Hệ thống dường ống dẫn nước
- Hệ thống đèn tròn chiếu sáng
- Đá bọt sủi khí
- Máy nén khí
- Máy bơm
- Vợt
3.3.6. Các vật liệu khác
- Các loại hoá chất dung cho việc vệ sinh và xử lý nước hàng ngày: formol,
Chlorine, thuốc kháng sinh,…
- Kính hiển vi soi nổi với độ phóng đại quang học từ 10 – 100 lần
- Đĩa Petri nhựa và thuỷ tinh
- Môi trường TCBS
- Đèn cồn, que cấy
- Tủ ấm 37
0
C
- Cồn 70
0
và 99
0
,5
- Lọ nhựa để thu mẫu nước
-21-
3.4. Phương pháp nghiên cứu và bố trí thí nghiệm
Việc bố trí thí nghiệm được thực hiện trên hệ tuần hoàn với 20 bể ương trong hệ
thống. Chúng tôi thực hiện thí nghiệm để đánh giá hiệu quả của hệ lọc.
3.4.1. Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm có 3 nghiệm thức, mỗi nghiệm thức có 5 bể ương.
Nghiệm thức 1: mật độ dưới 50 ấu trùng/lít
Nghiệm thức 2: mật độ 50 – 100 ấu trùng/lít
Nghiệm thức 3: mật độ trên 100 ấu trùng/lít
Thông qua kết quả có được của thí nghiệm trên cộng với khoả sát thêm của
chúng tôi trên 7 bể ương khác, chúng tôi tiến hành đánh giá biến động môi trường nước
ương dựa vào mật độ thả ấu trùng: <50 ấu trùng/lít, từ 50 – 100 ấu trùng/lít và trên 100
ấu trùng/lít. Trong mỗi mật độ ương chúng tôi tiến hành phân nhóm các bể có tỷ lệ sống
khác nhau. Mỗi mật độ được phân thành 2 nhóm. Nhóm có tỷ lệ sống thấp và nhóm có
tỷ lệ sống cao.
Kết quả phân nhóm các nghiệm thức dựa vào tỷ lệ sống của thí nghiệm này như
sau:
-22-
Mật độ < 50
úng/l
Mật độ 50-100
Mật độ > 100
Nhóm 1: 0% (n=3 bể)
Nhóm 2: 11-25,2% (n=4 bể)
Nhóm 1: 0-2% (n=5 bể)
Nhóm 2: 5,8-21% (n=5 bể)
Không phân nhóm: 0% (n=4 bể)
Không phân nhóm: 21% (n=1 bể)
Hình 3.1: Sơ đồ bố trí thí nghiệm
-23-
Thí nghiệm ở các mật độ ương khác nhau:
mật độ ương <50 ấu trùng/lít
mật độ ương từ 50-100 ấu trùng/lít
mật độ cao hơn 100 ấu trùng/lít
Nguồn cấp và thoát
của hệ thống
pH
NH
3
-N
NO
2
Vibrio tổng số
Sự phát triển của ấu trùng
tôm
Biến thái của ấu trùng
Tỷ lệ sống
Môi trường bể ương
Nhiệt độ
pH
NH
3
-N
Đánh giá môi trường
đầu vào và đầu ra
của hệ lọc
Ảnh hưởng của môi
trường và tỷ lệ sống
lên biến thái của ấu
trùng
Đánh giá biến động
môi trường bể ương
Hiệu quả của hệ thống
sản xuất giống bằng
phương pháp lọc tuần
hoàn
Kết luận và đề xuất
3.4.2. Sơ đồ bố trí và vận hành hệ thống
3.4.2.1. Bố trí hệ thống lọc tuần hoàn
- Hệ thống lọc tuần hoàn gồm 20 bể 100 lít được bố trí như hình vẽ.
- Nước tuần hoàn ra từ các bể ương được chuyển vào một bể chứa 2 m
3
(NV)
và bơm vào trong hệ lọc (nước vào hệ lọc).
- Nước được qua bộ phận tách đạm fresh protein skimmer (Sm) và xử lý ozon
(O
3
), sau đó được qua bể có chứa than hoạt tính (Th) để khử lương Ozone dư
thừa.
- Nước được lọc qua 4 bể lọc san hô (L1, L2, L3, L4) dung tích 0,5 m
3
mỗi bể
đóng vai trò như một hệ lọc sinh học.
- Sau khi nước được lọc qua hệ thống san hô, một phần nước được cấp lại cho
bể ương, một phần được bơm trở lại bể chứa (NV) để duy trì sự hoạt động
liên tục của hệ lọc.
- Nguồn nước mới cũng được cấp thường xuyên vào hệ lọc để bù lượng nước
vệ sinh mất đi hàng ngày.
-24-
L1
L2
L4
L3
NV
NR
Sm
Ozon
T
h
Hệ thống bể ương
1
9
1
2
1
8
1
7
1
6
2
0
1
3
1
4
1
5
1
1
1
0
1
9 8 7 6
2 3 4 5
Hệ thống lọc
Chú thích:
Đường ống dẫn nước từ bể ương qua hệ lọc
Đường ống dẫn nước đã qua hệ lọc vào bể ương
Hình 3.2: Sơ đồ bố trí hệ lọc tuần hoàn và hệ thống bể ương
3.4.2.2. Cách vận hành hệ thống tuần hoàn
Nước được tuần hoàn từ bể ương qua hệ lọc làm sạch rồi cấp trở lại cho bể ương.
Ấu trùng nhỏ hơn 5 ngày tuổi, bể không chạy tuần hoàn, thay nước 20%/ngày.
Sau 5 ngày tiến hành cho chạy tuần hoàn, thời gian chạy tuần hoàn khoảng 9 –
10 giờ sáng đến 3 – 4 giờ chiều (khoảng 4÷5 giờ). Kết thúc chạy tuần hoàn khi tiến hành
làm vệ sinh bể ương.
3.4.3. Qui trình ương ấu trùng
3.4.3.1. Chế độ dinh dưỡng
Ấu trùng còn nhỏ (<10 ngày tuổi) chỉ cho ăn Artemia 2 lần vào lúc 6 – 7 giờ
sáng, 5 – 6 giờ chiều, mật độ 5 Artemia/ml, ấu trùng lớn hơn (>10 ngày tuổi) cho ăn
thêm 3 lần thức ăn chế biến: 9 giờ, 11 giờ, 2 giờ.
Trứng Artemia được ấp trong 24 giờ bằng cách sục khí liên tục.
Thức ăn chế biến được phối chế từ nhiều loại nguyên liệu: thịt tôm, thịt mực, dầu
cá, trứng gà, các vitamin và khoáng chất. Xay nhuyễn hỗn hợp, hấp chín, phơi khô và
chà nhỏ thức ăn qua một tấm lưới có kích thước lỗ phù hợp với từng giai đoạn của ấu
trùng. Một ấu trùng cho một viên thức ăn chế biến.
3.4.3.2. Chế độ chăm sóc sức khoẻ ấu trùng
Thường xuyên theo dõi tình trạng sức khoẻ của ấu trùng, ngày 2 lần, phát hiện
các ấu trùng yếu để có chế độ chăm sóc khác hay loại chúng khỏi bể ương.
Kiểm tra dây sục khí, độ lớn của dòng khí. Những ngày mưa bão nhiệt độ giảm,
thắp thêm các đèn để tăng nhiệt độ nước trong bể ương.
-25-