Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Giáo trình hình thành lý thuyết về 3 hình thức tuần hoàn của tư bản đối với việc quản lý các doanh nghiệp p1 pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (459.01 KB, 10 trang )



1

1



A. PHẦN MỞ ĐẦU

Phát triển và hội nhập là một trong những xu thế lớn của thời
đại. Đối với Việt Nam, nhất là trong giai đoạn công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, đưa nền kinh tế đi lên theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, hội nhập cùng nền kinh tế thị trường thế giới là nhiệm vụ
rất quan trọng. Đó không chỉ là thời cơ, điều kiện cần thiết để sản
phẩm hàng hoá của Việt Nam được có mặt nhiều hơn trên thị trường
quốc tế mà còn là thử thách lớn về nhiều mặt đối với các doanh
nghiệp và doanh nhân Việt Nam.
Tại Đại hội VI ban chấp hành trung ương Đảng đã quyết định
một bước ngoặt vĩ đại đối với đất nước đặc biệt là việc quyết định
đưa nền kinh tế chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý
của nhà nước theo định hướng XHCN. Để khẳng định vai trò quan
trọng của các doanh nghiệp trong phát triển kinh tế, Nhà nước ta đã
và đang khuyến khích thành lập các doanh nghiệp theo hiến pháp và
pháp luật Việt Nam quy định. Nhưng khi chuyển sang nền kinh tế
thị trường các doanh nghiệp Việt Nam đã gặp rất nhiều khó khăn
trong việc sản xuất, lưu thông, tìm kiếm đối tác và thị trường, đòi
hỏi nhà nước phải có sự hỗ trợ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát
triển. Sản xuất đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của doanh
nghiệp, trong đó ba vấn đề: sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào?
sản xuất cho ai? đặt ra các doanh nghiệp trong suốt quá trình hoạt


động sản xuất, vốn, hàng hoá hoạt động hiệu quả hay không là do
quá trình sản xuất, lưu thông có tuần hoàn không. Vai trò sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp rất quan trọng, nó tạo ra một cơ sở
vật chất cho chủ nghĩa xã hội cho nên đòi hỏi nhà nước phải có sự
quản lý hợp lý tạo điều kiện tốt nhất để doanh nghiệp cạnh tranh
được trên thị trường quốc tế. Khó khăn rất nhiều và đòi hỏi phải có
một cơ sở lý luận để dẫn đường có tác động tích cực thúc đẩy sản
xuất phát triển, mở rộng. Đó cũng là lý do em chọn đề tài: “Trình
bày lý thuyết về tuần hoàn và chu chuyển tư bản. ý nghĩa thực


2

2



tiễn rút ra khi nghiên cứu lý thuyết này đối với việc quản lý các
doanh nghiệp của nước ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN” cho đề án Kinh tế chính trị.
Bài viết được chia làm ba phần chính:
A. Phần mở đầu
B. Phần nội dung
C. Phần kết bài.
Với kiến thức bản thân còn hạn chế, em tự thấy mình còn nhiều
thiếu xót em rất mong được sự đóng góp ý kiến của thầy giáo cho
bài viết của em được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Giáo trình hình thành lý thuyết về 3 hình thức
tuần hoàn của tư bản đối với việc quản lý các

doanh nghiệp


3

3



B. PHẦN NỘI DUNG
PHẦN I: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ TUẦN HOÀN VÀ
CHU CHUYỂN TƯ BẢN
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ TUẦN HOÀN VÀ CHU
CHUYỂN CỦA TƯ BẢN.
1. Quan điểm của Mác - Lênin về tuần hoàn của tư bản.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tư bản luôn luôn vận
động và trong quá trình vận động, nó lớn lên không ngừng. Để đạt
được hiệu quả sản xuất kinh doanh nhà tư bản không được để tư bản
nhàn rỗi, mà phải sử dụng triệt để dưới nhiều hình thức, chức năng
khác nhau. Tư bản phải được tuần hoàn và chu chuyển liên tục, hợp
lý để kết quả sản xuất kinh doanh thu được lượng tư bản lớn hơn
lượng đầu tư ban đầu. Theo Mác - Lênin thì: “Tuần hoàn của tư bản
là sự biến chuyển liên tiếp của tư bản qua ba giai đoạn, trải qua ba
hình thức, thực hiện ba chức năng tương ứng, để trở về hình thái
ban đầu với lượng giá trị lớn hơn”
(1)
.
2. Ba hình thức tuần hoàn của tư bản.
2.1. Tuần hoàn của tư bản tiền tệ.
Công thức chung của tuần hoàn của tư bản tiền tệ:

T - H SX H’ - T’
Giai đoạn đầu T - H tức là nhà tư bản dùng tư bản tiền tệ ứng ra
ban đầu để mua hàng hoá ở trên hai thị trường đó là thị trường sức
lao động và thị trường tư liệu sản xuất (đó là những nhân tố của sản
xuất).
Slđ (sức lao động)
T - H
TLSX(tư liệu sản xuất)

(1)
Kinh tế chính trị: NXB giáo dục - 1998, trang 102


4

4



Như vậy tiền của nhà tư bản phải chia làm hai phần theo tỷ lệ
thích hợp: Một phần mua sức lao động, một phần mua tư liệu sản
xuất. Sau khi mua được hàng hoá (Slđ - TLSX) thì tư bản đã trút bỏ
hình thái tiền tệ mà mang hình thức hiện vật. Với hình thức hiện vật
đó nó không thể tiếp tục lưu thông được. Nhà tư bản phải đưa hàng
hoá vào trong quá trình sản xuất, để tạo ra hàng hoá cung cấp cho
thị trường thì toàn bộ công nhân phải tham gia vào quá trình sản
xuất để tạo ra sản phẩm. Kết quả là nhà tư bản có được một số hàng
hoá mới mà giá trị của chúng lớn hơn giá trị của những nhân tố đã
dùng để sản xuất ra số hàng hoá đó. Hàng hoá này (H’) có thể cạnh
tranh được ở trên thị trường, đáp ứng được nhu cầu của người tiêu

dùng tức là có giá trị sử dụng cao. Nhà sản xuất mang hàng hoá (H’)
đó ra thị trường để bán nhằm thu về được vốn và lợi nhuận tức là T’
- T’ là hình thái chuyển hoá của H’, sự chuyển hoá này được thực
hiện là do một hành vi đơn giản của lưu thông hàng hoá, do sự đổi
chỗ giữa hình thức hàng hoá và tiền, hình thái lặp lại ở điểm kết
thúc là hình thái bị gây nên, nhưng xét về mặt lượng phải lớn hơn
hình thái ban đầu. Sau một chu kỳ sản xuất nhà tư bản thu về cả vốn
lẫn lãi từ T’ một phần trả lương cho công nhân, một phần dự trữ để
tiếp tục đầu tư sản xuất. Quá trình đó cứ lặp đi lặp lại, tuần hoàn
một cách liên tục và hiệu quả sản xuất kinh doanh chính là lợi
nhuận thu về ngày càng tăng nó được quy định bởi một loạt những
sự biến hoá hình thái của bản thân tuần hoàn.
2.2. Tuần hoàn của tư bản sản xuất.
Công thức chung của tuần hoàn của tư bản sản xuất là:
SX H’ - T’ - H SX
Tuần hoàn này nói lên sự hoạt động lắp đi lắp lại một cách chu
kỳ của tư bản sản xuất, hay quá trình sản xuất của tư bản, coi là quá
trình sản xuất gắn liền với việc tăng thêm giá trị, nó không những
nói lên việc sản xuất mà còn nói lên việc tái sản xuất một cách chu
kỳ giá trị thặng dư nữa, nó nói lên hoạt động của tư bản công nghiệp


5

5



đang nằm dưới hình thái sản xuất của nó, hoạt động không phải chỉ
có một lần, mà là lắp đi lắp lại một cách chu kỳ, thành thử sự lắp đi

lắp lại đã do chính điểm xuất phát quy định rồi có thể là một bộ
phận của H’ lại trực tiếp gia nhập làm tư liệu sản xuất trong quá
trình lao động đã sản xuất ra nó làm hàng hoá; do đó việc chuyển
hoá giá trị của bộ phận jđó thành tiền hiện thực, hay thành ký hiệu
tiền tệ trở thành thừa. Bộ phận giá trị ấy không đi vào lưu thông.
Vậy là có những giá trị gia nhập quá trình sản xuất mà không gia
nhập quá trình lưu thông.
Trong hình thái T - T’ quá trình sản xuất, tức là chức năng sản
xuất, sản xuất làm gián đoạn lưu thông của tư bản tiền tệ và chỉ xuất
hiện thành kẻ môi giới giữa hai giai đoạn của lưu thông là T - H và
H’ - T’ và là khâu trung gian giữa tư bản sản xuất mở đầu cuộc tuần
hoàn với tư cách là cực thứ nhất, và tư bản sản xuất kết thúc tuần
hoàn đó với tư cách là cực cuối dưới một hình thái mà tuần hoàn đó
mở đầu trở lại sự vận động. Mặt khác toàn bộ lưu thông biểu hiện ra
dưới hình thái ngược lại với hình thái mà nó mang tròn tuần hoàn
của tư bản tiền tệ.Nến không nói đến đại lượng giá trị thì hình thái
của nó trong tuần hoàn của tư bản tiền tệ là: T - H - T (T - H . H -
T); nếu nói đến đại dượng giá trị thì hình thái của nó là: H - T - H
tức là hình thái lưu thông giản đơn của hàng hoá.
Tái sản xuất giản đơn.
Điểm xuất phát của lưu thông giữa hai cực Sx Sx là tư bản -
hàng hoá: H’ = H + h = Sx + h. Trước kia chức năng của tư bản
hàng hoá H’ - T’ là giai đoạn thứ hai của lưu thông bị gián đoạn và
là giai đoạn kết thúc của tổng tuần hoàn. Bây giờ nó là giai đoạn thứ
hai của tuần hoàn nhưng lại là giai đoạn thứ nhất của lưu thông.
Tuần hoàn thứ nhất kết thúc bằng T’ và cũng có thể trở lại mở đầu
tuần hoàn thứ hai với tư cách là tư bản - tiền tệ. Tính chất của tuần
hoàn thay đổi các cách giải quyết để biết được công thức mà ta đang
xét đại biểu cho tái sản xuất giản đơn hay mở rộng. Nếu xét tái giản
đơn của tư bản sản xuất, nếu mọi tình hình khác không thay đổi và



6

6



hàng hoá được mua vào và bán ra theo đúng giá trị của chúng thì
toàn bộ giá trị thặng dư sẽ đi vào tiêu dùng cá nhân của nhà tư bản.
Sau khi tư bản - hàng hoá H’ đã chuyển hoá thành tiền, thì bộ phận
của tổng số tiền đại biểu cho giá trị - tư bản vẫn tiếp lưu thông trong
tuần hoàn của tư bản công nghiệp; còn bộ phận kia, tức giá trị thặng
dư đã chuyển hoá thành tiền, thì đi vào lưu thông chung của hàng
hoá.
Trong hành vi H’- T’ giá trị tư bản và giá trị thặng dư nằm
trong H, cả hai đều có thể tồn tại tách riêng ra được, tức là tồn tại
thành những số tiền riêng biệt; trong cả hai trường hợp T và t đều là
hình thái chuyển hoá của cái giá trị mà lúc đầu, ở H’ với tư cách là
giá cả hàng hoá, có một biểu hiện riêng của nó, một biểu hiện trên ý
niệm mà thôi. Lưu thông h - t - h là một lưu thông giản đơn của
hàng hoá; giai đoạn thứ nhất của lưu thông này tức là h - t thì nằm
trong lưu thông của tư bản - hàng hoá H’ - T’, do đó nằm trong
trong tuần hoàn của tư bản; ngược lại đoạn bổ sung của nó t - h thì
lại nằm ngoài tuần hoàn ấy, được thực hiện với tư cách là một hành
vi lưu thông chung của hàng hoá tách rời khỏi tuần hoàn âý. Lưu
thông H và h tức là của giá tri tư bản và của giá trị thặng dư, sẽ tách
đôi ra sau khi H’ chuyển hoá thành T’. Do đó:
Một là: sau khi tư bản - hàng hoá được thực hiện bằng hành vi
H’ - T’ = H’ (T +t) thì vận động của giá trị - tư bản và vận động giá

trị thặng dư trước đó vẫn là một trong H’ - T’ và đều nằm trong
cùng một lượng hàng hoá, sẽ có thể tách rời nhau ra, vì từ nay trở đi
cả hai giá trị đó, với tư cách là hai món tiền, đều có hình thái độc
lập.
Hai là: Nếu sự tách rời ấy diễn ra, hơn nữa nếu t bị tiêu đi với
tư cách là thu nhập của nhà tư bản, còn T với tư cách là hình thái
chức năng của giá trị tư bản, vẫn tiếp tục đi theo con đường của nó
do tuần hoàn quy định, thì hành vi thứ nhất H’ - T’ xét trong mối
liên hệ của nó với các hành vi kế tiếp là T - H và t - h, có thể biểu
hiện thành hai lưu thông riêng biệt: H - T - H và h - t - h, và cả hai


7

7



xét về mặt hình thái chung đều phụ thuộc về lưu thông thông
thường của hàng hoá.
Ba là: Nếu vận động của giá trị tư bản và vận động của giá trị
thặng dư, lúc đầu còn là một trong H và T, chỉ tách rời nhau có một
phần thôi (thành thử có một phần giá trị thặng dư bị tiêu đi không
phải với tư cách là thu nhập), hoặc hoàn toàn không bị tách rời nhau
thì trong bản thân giá trị - tư bản có một sự thay đổi diễn ra trong
nội bộ tuần hoàn của nó, trước khi tuần hoàn đó hoàn thành.
H’ - T’, giai đoạn thứ hai của lưu thông và giai đoạn cuối cùng
của tuần hoàn I ( T T’), lại là giai đoạn thứ hai của tuần hoàn của
chúng ta, và là giai đoạn thứ nhất của lưu thông hàng hoá. Do đó về
mặt lưu thông mà nói thì H - T’ cần được bổ sung bằng T’ - H’.

Nhưng H’ - T’ không những đã xảy ra sau quá trình làm tăng thêm
giá trị mà còn là kết quả của nó, nhờ hành vi ấy sản phẩm - hàng
hoá H’ đã được thực hiện rồi. Như vậy là quá trình làm cho tư bản
tăng thêm giá trị, cũng như việc thực hiện sản phẩm - hàng hoá đại
biểu chio giá trị tư bản đã tăng thêm giá trị đều kết thúc bằng H’ -
T’.
Trong lưu thông của thu nhập của nhà tư bản, hàng hoá đã được
sản xuất ra, tức là h trên thực tế chỉ được dùng để được chuyển hoá
thu nhập ấy trước hết thành tiền, rồi lại từ tiền thành một hàng hoá
khác phục vụ cho tiêu dùng cá nhân. Nhưng ở đây chúng ta không
nên bỏ qua một việc nhỏ này: h là một giá trị hàng hoá không tốt gì
cho nhà tư bản cả, nó là hiện thân của lao động thặng dư, chính vì
thế mà nó xuất hiện lúc ban đầu với tư cách là một thành phần của
tư bản - hàng hoá H’. Bởi vậy chỉ có một sự tồn tại của thân nó, h
này cũng đã gắn liền với tuần hoàn của giá trị - tư bản đang tiến
hành quá trình của mình; nếu tuần hoàn ấy bì đình chỉ hoặc xảy ra
một sự rối loạn nào đó nói chung, thì không phải chỉ việc tiêu dùng
h, mà đồng thời cả việc tiêu thụ cái loạt hàng hoá đem trao đổi với
h, cũng đều bị thu hẹp lại hoặc đình chỉ hẳn, h - t - h chỉ gia nhập
lưu thông của tư bản chừng nào mà h còn là một phần giá trị của H’.


8

8



Mối quan hệ giữa tuần hoàn của tư bản với tư cách là một bộ
phận của lưu thông chung, và tuần hoàn của tư bản với tư cách là

một trong những khâu của một lưu thông độc lập, cũng biểu lộ ra
khi chúng ta tiếp tục xem xét lưu thông của T’ = T + t. Là tư bản
tiền tệ, T tiếp tục tuần hoàn của tư bản; t bị tiêu dùng đi với tư cách
là thu nhập (t - h) thì đi vào lưu thông chung, nhưng lại tách khỏi
tuần hoàn của tư bản. Chỉ có bộ phận t hoạt động làm tư bản - tiền
tệ phụ thêm mới gia nhập tuần hoàn này mà thôi. Trong h - t - h tiền
chỉ làm chức năng tiền đúc, mục đích của lưu thông này là sự tiêu
dùng cá nhân của nhà tư bản. Khoa kinh tế chính trị tầm thường cho
rằng lưu thông ấy không gia nhập tuần hoàn của tư bản - tức là lưu
thông của bộ phận sản phẩm - giá trị bị tiêu dùng đi với tư cách là
thu nhập - là tuần hoàn đặc trưng của tư bản.
Trong giai đoạn thứ hai, T - H thì giá trị tư bản T = SX lại tái
hiện nhưng đã bị tước mất giá trị thặng dư chỉ, tức là có cùng một
lượng giá trị như khi nó ở trong giai đoạn thứ nhất của tuần hoàn
của tư bản - tiền tệ T - H. Mặc dù tư bản tiền tệ ở vào một vị trí
khác trước, nhưng chức năng của số tư bản - tiền tệ mà giờ đây tư
bản hàng hoá đã chuyển hoá thành thì cũng vẫn như cũ: chuyển hoá
thành TLSX và SLĐ.
Như vậy chức năng của tư bản - hàng hoá H’ - T’, giá trị tư bản,
cùng một lúc với h - t, đã tiến hành xong giai đoạn H - T và sau đó
nó đi vào giai đoạn bổ sung:
Slđ
Tlsx;
Slđ
Tlsx;
Thứ nhất, trong hình thái tuần hoàn T T’ tư bản tiền tệ T là
hình thái ban đầu nó xuất hiện thành một bộ phận trong giai đoạn
lưu thông thứ nhất, do đó ngay từ đầu, nó xuất hiện thành sự chuyển
T
-

H

H
-
T
-
H

Do đó tổng lưu thông của nó là


9

9



hoá của tư bản sản xuất sản xuất thành tiền thực hiện được nhờ việc
bán sản phẩm hàng hoá. T’ biểu hiện thành hình thái chuyển hoá
của H’, bản thân H’ này là sản phẩm hoạt động trước đây của Sx, vì
thế toán bộ số tiền T’ thể hiện thành biểu hiện tiền tệ của một lao
động đã qua. Slđ
Thứ hai, trong lưu thông H - T - H cũng những đồng
tiền ấy thay đổi vị trí hai lần:
Thoạt tiên nhà tư bản thu chúng với tư cách là người bán, rồi
lại bỏ chúng ra với tư cách là người mua, việc chuyển hoá hàng hoá
thành hình thái tiền chỉ là dùng để chuyển hoá hàng hoá đó từ hình
thái tiền trở lại hình thái hàng hoá.
Thứ ba, vô luận là tư bản tiền tệ được dùng đơn thuần làm
phương tiện lưu thông, hay làm phương tiện thanh toán thì hoạt

động của nó cũng chỉ là thay thế H bằng Slđ và Tlsx.
Muốn cho tuần hoàn được tiến hành bình thường, thì H’ phải
bán đúng theo giá trị của nó và bán toàn bộ. Hơn nữa, H - T - H
không những bao hàm việc thay thế một hàng hoá này bằng một
hàng hoá khác, mà còn bao hàm việc thay thế hàng hoá ấy theo
những tỷ lệ giá trị giống nhau. Chúng ta đã giả định rằng ở đây tình
hình diễn ra đúng như vậy. Nhưng trên thực tế, giá trị của tư liệu
sản xuất thường thay đổi; điểm cố hữu của nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa là ở chỗ có sự biến đổi không ngừng của các tỷ lệ giá trị, do
những thay đổi không ngừng trong năng xuất lao động gây nên,
những thay đổi này là nét đặc trưng của nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa. Sự chuyển hoá của các yếu tố sản xuất thành sản phẩm hàng
hoá, tức là việc chuyển hoá từ Sx thành H’, được tiến hành trong
lĩnh vực sản xuất, việc chuyển hoá ngược lại từ H’ thành Sx được
tiến hành trong lưu thông. Việc chuyển hoá trở lại này được chuyển
hoá nhờ sự biến hoá hình thái giản đơn của hàng hoá. Nhưng xét về
mặt nội dung của nó thì việc chuyển hoá trở lại này là một yếu tố
của quá trình tái sản xuất.
Tlsx


10

10



Trong T T’, T là hình thái ban đầu của giá trị tư bản; giá trị tư
bản trút bỏ hình thái này đi để rồi sau đó lại mang lấy nó. Trong
Sx H’ - H Sx, T là một hình thái chỉ hiện ra trong quá trình tuần

hoàn, rồi sau đó lại trút bỏ đi ngay trong giới hạn của chính quá
trình ấy. Nếu sự biến hoá hình thái thứ hai T - H gặp trở ngại thì
tuần hoàn tức là tiến hành của quá trình tái sản xuất, bị đứt quãng,
hoàn toàn giống như trong trường hợp tư bản bị đọng lại dưới hình
thái tư bản - hàng hoá. Khi tư bản không còn làm chức năng tư bản
tiền tệ thì nó vẫn luôn luôn là tiền; nhưng nếu nó bị giữ quá lâu
trong chức năng tư bản - hàng hoá, thì nó sẽ không còn là hàng hoá
nữa và nói chung không còn là giá trị sử dụng nữa.
Slđ
Trong hình thái I, hành vi T - H Tlsx chỉ chuẩn bị cho
sự chuyển hoá đầu tiên của tư bản tiền tệ thành tư bản sản xuất,
trong hình thái II, hành vi ấy chuẩn bị cho sự chuyển hoá trở lại của
tư bản hàng hoá thành tư bản sản xuất. Bởi vậy, ở đây cũng như
trong hình thái I, hành vi này xuất hiện thành giai đoạn chuẩn bị cho
quá trình sản xuất nhưng nó lại thể hiện như là bước quay trở về quá
trình ấy, như là việc lặp lại quá trình ấy, do đó như là bước mở màn
cho quá trình tái sản xuất, và vì vậy mở màn cho việc lặp lại quá
trình làm tăng thêm giá trị.
Một lần nữa T - Slđ là việc mua bán hàng hoá sức lao động
dùng để sản xuấta ra giá trị thặng dư, còn T - Tlsx là một công việc
không thể thiếu được về mặt vật chất để đạt được mục đích đó. Sau
khi T - H Slđ
hoàn thành,thì T được chuyển hoá thành tư bản sản xuất thành Sx và
tuần hoàn lại bắt đầu trở lại.
Do đó, hình thái đầy đủ của Sx H’ - T’ - H Sx là:


H
+
h


T
+
t

-

-

- H

-
h

Slđ
TLSx Sx

TLSX

SX
H’

×