Đồ án tốt nghiệp
Marketing trong doanh nghiệp
xây dựng
Đồ án tốt nghiệp: Marketing trong doanh nghiệp xây dựng
1
CHƯƠNG I : NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ MARKETING.
I. Sự ra đời và phát triển của Marketing:
Đặc trưng lớn nhất của hàng hoá là nó được sản xuất ra để bán. Do đó bán
hàng là một trong những khâu quan trọng nhất của tái sản xuất hàng hoá và cũng
là khâu quan trọng nhất của kinh doanh. Bán hàng là một trong những khâu cuối
cùng của kinh doanh. So với các khâu khác trong quá trình tái sản xuất, khâu
bán hàng có một số đặc trưng như: thể hiện tập trung mâu thuẫn của người mua
và người bán, thế mạnh của doanh nghiệp và của sản phẩm đượ
c thể hiện rõ
nhất. Đồng thời các mặt yếu cũng được tập trung ở đây: cạnh tranh quan hệ sản
xuất và tiêu dùng quan hệ tiền hàng cũng qua khâu này mà gặp nhau sản xuất
hàng hoá càng phát triển, nhu cầu buôn bán càng lớn, các đặc trưng và các mâu
thuẫn này càng được thể hiện rõ nét hơn. Các mâu thuẫn đó tồn tại khách quan
trong quá trình kinh doanh và gắn liền với khâu bán hàng. Dù là những doanh
nghiệp nhỏ hay các doanh nghiệp lớn đã hoạt động trên th
ương trường, họ muốn
tồn tại thì không thể lẩn tránh được những mâu thuẫn đó. Giải quyết các mâu
thuẫn này được thực hiện ở khâu bán hàng. Tuỳ theo những điều kiện cụ thể của
sự phát triển hàng hoá và của các mâu thuẫn gắn với nó mà các nhà kinh doanh
phải tìm ra các giải pháp khác nhau để giải quyết các mâu thuẫn trên. Đó chính
là cơ sở, là nguồn gốc của sự ra đời Marketing. Sẽ không là khoa h
ọc nếu cho
rằng sự ra đời của Marketing là do yêu cầu giải quyết mâu thuẫn khủng hoảng
thừa của TBCN. Đây chỉ là yếu tố bức bách buộc các nhà khoa học cũng như
các nhà kinh doanh phải phát triển lí luận Marketing cho phù hợp với những
điều kiện mới.
Thuật ngữ Marketing có nguồn gốc từ tiếng Anh (Marketing là thị trường,
là cái chợ) được quốc tế hoá sử dụng trực ti
ếp mà không dịch ngữ. Từ những
năm đầu thế kỉ 20, các nhà kinh doanh nội ngoại thương của Nhật, Anh, Mỹ,
Trung Quốc đã có những chủ trương khẩu hiệu: hãy bán hàng mà khách cần,
khách hàng không mua hãy vui vẻ nhận lại Với các chủ trương này, các nhà
kinh doanh thương nghiệp đã bán hàng nhanh hơn, khối lượng bán lớn hơn và
lợi nhuận thu cũng nhiều hơn. Các nhà kinh doanh nhận thức được là không có
thị trường, không có ngườ
i tiêu thụ thì không thể tiến hành sản xuất và không
thể có lợi nhuận, không thể có sự giàu sang. Giai cấp tư sản coi trọng thị trường,
chú trọng nhiều hơn đến người tiêu dùng. Nhờ nhận thức này thì Markering bao
Đồ án tốt nghiệp: Marketing trong doanh nghiệp xây dựng
2
hàm một ý nghĩa rộng lớn và mở rộng lĩnh vực, phạm vi, đối tượng và được ứng
dụng rộng rãi hơn. Do đó, cùng với sự phát triển của nền kinh tế và của thị
trường thì các nhà kinh doanh không thể chỉ dừng lại ở hoạt động “ làm thị
trường” mà họ phải liên kết, phân công nhau cả trong khâu đưa hàng ra thị
trường (tổ chức kênh lưu thông). Với các biện pháp này thì các nhà kinh doanh
đã t
ạo ra được sự thống nhất giữa cung ứng hàng hoá ra thị trường và bán hàng.
Do vậy, hàng hoá được bán nhiều hơn, lợi nhuận thu được ngày càng lớn.
Trong suốt một thời kì dài, từ đầu thế kỷ 20 đến trước chiến tranh thế giới
lần thứ II, Marketing chỉ giới hạn trong lĩnh vực thương mại, tức là đã có hàng
hoá và tìm cách đem đi bán để thu lợi nhuận. Ở giai đoạn này ngườ
i ta gọi là
Marketing truyền thống. Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai thì Marketing
không chỉ còn giới hạn hẹp trong phạm vi thương mại mà nó đã bao trùm tất cả
những mặt của đời sống xã hội. Và Marketing truyền thống xưa kia ngày nay đã
phát triển thành Marketing hiện đại. Marketing hiện đại bao gồm các hoạt động
tính toán, suy nghĩ, ý đồ từ trước khi sản phẩm ra đời đến hoạt động tiêu thụ
,
dịch vụ sau bán hàng Nó trở thành giao điểm của nhiều quá trình kinh tế,
chính trị, tư tưởng, văn hoá, thể thao, quốc phòng
II.Các định nghĩa về Marketing và những tư tưởng chủ đạo của Marketing:
1.Các định nghĩa về Marketing:
Marketing với tư cách là một hoạt động đem lại những hiệu quả kinh tế lớn
lao trên nhiều mặt, ngay từ khi ra đời đã không ngừng được ứng dụng phát triển
và hoàn thiện. Năm 1905 tại trường Đại học Pensylvania (Mỹ), ông W.E.Kreussi
đã tiến hành hàng loạt các bài giảng về Marketing.
Marketing, theo sự đánh giá của giới học giả kinh tế TBCN, là một căn cứ
có vai trò, có ý ngh
ĩa cả về lý luận lẫn hoạt động thực tiễn đặc biệt quan trọng,
khả dĩ tới mức quyết định sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế TBCN. Họ gán
cho Marketing những danh từ thật mỹ miều “Triết học kinh doanh mới”, “bí
quyết tạo nên thành công trong kinh doanh” Và Marketing được coi là một
khoa học kinh tế, là một nghệ thuật kinh doanh. Nó không ngừng phát huy tác
dụng và không ngừng được bổ
sung và phát triển, do đó nó được các tác giả, các
nhà khoa học đưa ra các đình nghĩa khác nhau:
- Định nghĩa của Học viện Hamilton (Mỹ):
Đồ án tốt nghiệp: Marketing trong doanh nghiệp xây dựng
3
“Marketing nghĩa là hoạt động kinh tế trong đó hàng hóa được đưa từ người sản
xuất đến người tiêu thụ.”
- Định nghĩa của Uỷ Ban hiệp hội Marketing Mỹ:
“Marketing là việc tiến hành các hoạt động kinh doanh có liên quan trực tiếp đến
dòng chuyển vận hàng hoá và dịch vụ từ người sản xuất đến người tiêu dùng.”
- Định nghĩa của Philip Kotler (Mỹ)- Chủ tịch hiệp hội Marketing thế
gi
ới:
“Marketing là sự phân tích, tổ chức, kế hoạch hoá và kiểm tra những khả năng
thu hút khách hàng của một công ty cũng như chính sách và hoạt động với hoạt
động với quan điểm thỏa mãn nhu cầu và mong muốn của nhóm khách hàng đã
lựa chọn Hoạt động của Marketing là một quá trình hoạt động được coi như
phương tiện đẩy nhanh quá trình lưu thông hàng hoá. Hoạt động của Marketing
bắt đầu từ khi sản ph
ẩm được sản xuất ra và kết thúc khi nó bán trực tiếp cho
người tiêu dùng.”
-Định nghĩa của Brifish Institue of Marketing (Anh):
“Marketing là chức năng quản lý công ty về mặt tổ chức và quản lý toàn bộ các
hoạt động linh doanh từ việc phát hiện ra và biến sức mua của người tiêu dùng
thành nhu cầu thực sự về một mặt hàng cụ thể đến việc đưa hàng hoá đó đến
người tiêu thụ cuối cùng, nằm đẩm b
ảo cho công ty thu được lợi nhuận như đã
dự kiến.”
- Định nghĩa của John H.Crighton (Autralia):
“Marketing là quá trình cung cấp đúng sản phẩm đúng kênh hay luồng hàng,
đúng thời gian và đúng địa điểm.”
- Định nghĩa của V.J.Stanton:
“Marketing là một hệ thống tổng thể của những hoạt động kinh doanh được biểu
hiện bằng kế hoạch, giá cả, khuyếch trương và phân phối những hàng hoá dịch
v
ụ nhằm thỏa mãn những nhu cầu mong muốn của khách hàng hiện tại và tiềm
năng.”
- Định nghĩa của Peter Drucker – nhà kinh tế học cận đại Mỹ:
“Marketing là toàn bộ những công việc kinh doanh nhìn theo quan điểm của
người tiêu thụ.”
Đồ án tốt nghiệp: Marketing trong doanh nghiệp xây dựng
4
Từ những định nghĩa nêu trên chúng ta thấy cách hiểu về Marketing hết sức
phong phú và đa dạng. Hại định nghĩa đầu phù hợp với Markeitng truyền thống
còn các định nghĩa sau thì phù hợp với Marketing hiện đại. Mỗi định nghĩa chỉ
đúng xét theo quan điểm về mặt thời gian, đúng tại thời điểm này. Do đó cho
đến nay người ta vẫn thống nhất là không nên và không cần thiết có một
định
nghĩa, một khuôn mẫu đối với hoạt động Marketing. Việc làm đó có thể dẫn tới
sự hạn chế tính đa dạng, phong phú và sinh động của hoạt động Marketing trong
thực tiễn.
2. Những tư tưởng chủ đạo của Marketing:
Marketing coi trọng khâu tiêu thụ hay ưư tiên dành cho nó vị trí cao nhất
trong chiến lược của doanh nghiệp. Mục tiêu đầu tiên của doanh nghiệp đó là tạo
ra lợi nhuận, do
đó các chính sách của doanh nghiệp đều phải làm sao để thu
được lợi nhuận. Vì vậy doanh nghiệp phải quan tâm đến khâu tiêu thụ.
Chỉ bán cái thị trường cần chứ không phải bán cái mình có. Điều này là điều
mà doanh nghiệp chú ý trong thời buổi kinh tế thị trường như hiện nay. Người
bán thì nhiều, do đó chỉ bán cái thị trường cần thì doanh nghiệp mới có thể tồn
tại được.
Nhưng muốn biết th
ị trường và người tiêu thụ cần gì thì phải tổ chức tìm
hiểu thị trường, tìm hiểu những nhu cầu của thị trường, thị hiếu Từ đó các
doanh nghiệp phải tìm hiểu tỉ mỉ, linh hoạt và phải có những phản ứng linh hoạt,
nhạy bén với thị trường.
Ngoài ra, mục tiêu của Marketing không chỉ là lợi nhuận. Marketing đi liền
với quản lý và tổ chức trong hoạt
động của doanh nghiệp. Ngày nay, cùng với sự
phát triển của nền kinh tế nói riêng và mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nói
chung thì các hoạt động của Marketing đã trở thành điều không thể thiếu trong
bất kỳ một doanh nghiệp nào. Với những tư tưởng chủ đạo trên thì Marketing đã
thực sự trở thành một công cụ tất yếu nhằm nâng cao khả năng kinh doanh của
tất c
ả các doanh nghiệp.
III.Vai trò và các chức năng của Marketing:
Ngày nay không một doanh nghiệp nào bắt tay vào kinh doanh mà không
muốn kiếm lời. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, chấp nhận
cạnh tranh, chấp nhận mở cửa, cùng với sự biến đổi không ngừng về thị hiếu và
Đồ án tốt nghiệp: Marketing trong doanh nghiệp xây dựng
5
nhu cầu của người tiêu dùng, sự phát triển như vũ bão của khoa học và công
nghệ thì các doanh nghiệp đang bị hút vào một cơn xoáy biến động, do đó sẽ
thành công thay cho thất bại, phá sản thì các doanh nghiệp phải nằm trong sự
quản lý vĩ mô hay quản lý Nhà nước về kinh tế. Thị trường là đối tượng và là
căn cứ quan trọng của quản lý vĩ mô. Thông qua thị trường thì nhà nước sẽ điều
tiết sản xuất. Quản lý vĩ mô sẽ làm cầu nối giữa sự trao đổi chất của doanh
nghiệp với thị trường. Nó sẽ giúp cho các doanh nghiệp có cơ sở pháp lý vững
vàng để tồn tại và phát triển. Do đó muốn tìm hiểu thi trường thì ta sẽ tiến hành
nghiên cứu qua lý luận của Marketing.
Tuỳ theo góc độ xem xét và phạm vi nghiên cứu người ta có thể phân biệt
các chức năng của Marketing:
1.Xét trên phạm vi tổng quát thì Marketing có 2 ch
ức năng:
1.1.Chức năng chính trị, tư tưởng:
Marketing theo sự đánh giá của giới học giả kinh tế TBCN là một “thành
quả kinh tế có tính quyết định của họ” Nó có nhiệm vụ chữa cho xã hội tư bản
khỏi những căn bệnh hiểm nghèo là khủng hoảng, lạm phát thất nghiệp Họ cho
rằng Marketing là vũ khí sắc bén trong cuộc đấu tranh chống khủng hoảng, là
bằng chứng cho thấy CNTB cũng có khả năng biến đổi nhấ
t định như chuyển
hoá thành “một xã hội tiêu thụ” một xã hội sung sướng Họ hy vọng rằng
Marketing sẽ tạo ra một không khí thân mật và tin tưởng cho người tiêu dùng.
1.2. Chức năng kinh tế:
Hoạt động Marketing có mục tiêu đầu tiên đối với doanh nghiệp là đem lợi
nhuận về cho họ. Do đó chức năng kinh tế là chức năng quan trọng nhất của
Marketing. Chức năng này được thể hiện thông qua việc bán hàng ra thị trường
và Marketing sẽ là công cụ cho việc sinh lãi. Chức năng kinh tế đòi hỏi doanh
nghiệp phải:
- Nghiên cứu, phân tích nhu cầu thị trường, từ đó dự đoán tri
ển vọng của
khách hàng.
- Trên cơ sở nghiên cứu và phân tích như trên thì sẽ lập kế hoạch sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm.
- Có kế hoạch tài chính để đáp ứng việc lập kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm.
Đồ án tốt nghiệp: Marketing trong doanh nghiệp xây dựng
6
Thông qua chức năng kinh tế của Marketing thì người ta sẽ hạn chế bớt những
dao động không ổn định và tự phát của thị trường. Qua đó người ta có thể cản
phá những khả năng xấu có thể xảy ra những rủi ro trong kinh doanh cho doanh
nghiệp.
2.Xét theo vai trò của Marketing trong quản lý kinh tế thì có 4 chức năng:
2.1. Làm cho sản phẩm thích ứng với nhu cầu thị trường:
Mỗi người tiêu dùng đều có những cá tính, thị hiếu khác nhau những khả
năng tiêu thụ khác nhau. Do đó để sản phẩm hấp dẫn người mua thì có thể phải
mới hoặc phải do đặc tính sử dụng của nó luôn được cải tiến, nâng cao. Và với
mỗi sản phẩm thì người tiêu dùng đòi hỏi về chất lượng khác nhau và đòi hỏi
này sẽ không ngừng được nâng cao theo thời gian, theo sự phát triển củ
a xã
hội Do đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải tìm hiểu nhu cầu của người tiêu dùng
và phải làm cho sản phẩm của mình phù hợp với người tiêu dùng. Hay
Marketing là liên kết tất cả các khâu từ thiết kế đến tiêu thụ sản phẩm.Và
Marketing sẽ chỉ cho doanh nghiệp biết được thị trường cần gì, bán ở đâu, giá cả
như thế nào Với chức năng này thì Marketing phải giải quyết 2 vấn đề
sau:
- Nghiên cứu thị trường để từ đó định hướng các nhà thiết kế, các nhà sản
xuất vào mục tiêu đã định.
- Phối hợp các hoạt động của nhà thiết kế, tạo ra sản phẩm, tiêu thụ sản
phẩm để tăng tính hấp dẫn của sản phẩm trên thị trường đã chọn và thỏa mãn
tối đa nhu cầu của nhà tiêu dùng.
Ví dụ: Hiện nay trong các thành phố thì nhu c
ầu làm cầu vượt đang gia tăng.
Một số doanh nghiệp xây dựng đã nắm bắt được nhu cầu đó và Công ty cầu 12
đã thành công trong lĩnh vực làm cầu vượt trong thành phố. Đây chính là một
minh chứng của việc “làm cho sản phẩm thích ứng với nhu cầu của thị trường”.
2.2. Chức năng phân phối:
Chức năng này bao gồm các hoạt động nhằm tổ chức sự vận động hợp lý
nhất sản phẩm hàng hoá từ khi nó sản xuất xong đến khi giao cho các đại lý, cửa
hàng hoặc trực tiếp giao cho người tiêudùng. Các hoạt động của chức năng này
là:
- Tìm hiểu những người tiêu thụ và lựa chọn những người tiêu thụ có khả
năng nhất.
Đồ án tốt nghiệp: Marketing trong doanh nghiệp xây dựng
7
- Hướng dẫn khách hàng về các thủ tục kí kết hợp đồng, đơn đặt hàng,
phương thức vận chuyển, thủ tục hải quan và các thủ tục khác có liên quan để
sẵn sàng giao hàng.
- Tổ chức hệ thống bến bãi kho hàng, các điểm nút cảu các kênh lưu thông
có khả năng tiếp nhận và giải toả nhanh dòng hàng hoá vào và ra .
- Tổ chức các dịch vụ hỗ trợ người tiêu dùng, khi cần có thể hỗ trợ c
ả về tài
chính, điều kiện thanh toán.
- Phát hiện ra sự trì trệ, ách tắc của kênh và luồng phân phối để nhanh chóng
điều chỉnh giảm bớt hoặc cắt bỏ một số kênh phân phối nào đó tỏ ra kém hiệu
quả và làm chậm nhịp độ tiêu thụ nói chung.
Ví dụ: Như một công Công ty đường 126 dầu gội đầu thì họ biết rằng ở những
nơi tập trung dân cư sẽ c
ần có những cửa hàng đại lý để bán sản phẩm của họ.
Còn ở những nơi dân cư thưa thớt thì sẽ cần những cửa hàng bán lẻ, có vậy việc
tiêu thụ sản phẩm của công ty mới đạt được kết quả cao.
2.3. Chức năng tiêu thụ hàng hoá:
Doanh nghiệp muốn sản phẩm của mình được tiêu thụ nhanh để có thể đảm
bảo quá trình tái sản xuất thì doanh nghiệp phải giải quyết vấn đề: chính sách
giá, cơ cấu giá, thành phần giá để vẫn có lãi. Muốn vậy doanh nghiệp phải kiểm
soát giá: khi nào cần bán giá cao, khi nào bán giá thấp so với những đối thủ cạnh
tranh. Ngoài ra chính trong những lúc kiểm soát giá thì cũng chỉ ra cho doanh
nghiệp những nghiệp vụ và nghệ thuật bán hàng để có l
ợi nhuận. Và chính
những chính sách giá cả có ảnh hưởng lớn đến kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp.
Ví dụ: Trong xây dựng cơ bản hiện nay các doanh nghiệp đã và đang thực hiện
đấu thầu các công trình xây dựng giá bỏ thầu với nhiều phương án giá khác
nhau. Đến khi thắng thầu thì họ lại xây dựng giá thi công công trình.
2.4. Chức năng yểm trợ:
Doanh nghiệp phải tạo ra ấn tượng của người tiêu dùng đối với sản phẩm
của mình, tạo nên lòng ham thích để từ đó kích thích họ mua sản phẩm của
mình. Do đó với chức năng yểm trợ thì Marketing sẽ là quảng cáo, khuyếch
trương, tuyên truyền cho những cái ưu việt của sản phẩm mình nên chức năng
trên rất quan trọng trong toàn bộ hoạt động Marketing của doanh nghiệp. Thuộc
ch
ức năng này thì Marketing bao gồm các hoạt động:
Đồ án tốt nghiệp: Marketing trong doanh nghiệp xây dựng
8
- Quảng cáo: thu hút, thuyết phục người tiêu dùng.
- Xúc tiến bán hàng: thu hút sự chú ý và làm hấp dẫn người tiêu dùng hơn ở
nơi bán hoặc nơi tiêu thụ.
- Dịch vụ hỗ trợ sản phẩm: cung cấp thêm người tiêu dùng, sách hướng dẫn
sử dụng, sửa chữa, hội trợ triển lãm.
Ví dụ: một công ty điện tử điện lạnh X vừa tung ra thị trường một loại máy giặt
mới. Công ty v
ừa quảng cáo trên tivi vừa có những áp phích treo trên khắp
đường phố. Nếu mua loại máy giặt mới đó sẽ được tặng 1 gói bột giặt và được
bảo hành trong vòng 2 năm. Đây là một hình thức bán hàng sử dụng nhiều đến
các hoạt động Marketing.
Song bên cạnh đó đòi hỏi doanh nghiệp phải có chính sách yểm trợ vừa phải,
nội dung hấp dẫn để làm cho người tiêu dùng thật thoải mái, dễ chịu tránh làm
cho h
ọ có ý nghĩ không tốt về sản phẩm của doanh nghiệp mình.
IV. Các loại Marketing:
1. Các lĩnh vực chuyên sâu của Marketing:
Marketing có nhiều nội dung phong phú, có những nội dung được nhấn
mạnh và có những nội dung được đề cao. Cho nên không thể có một công thức
chung về Marketing, trong mỗi lĩnh vực chuyên sâu thì những nguyên tắc cơ bản
của Marketing là phải giống nhau. Mỗi lĩnh vực chuyên sâu chỉ là biến tướng
của Marketing cổ điển mà thôi. Lĩnh vực chuyên sâu của Marketing chia làm 2
nhóm:
- Nhóm Marketing mậu dịch: Marketing trong công nghiệp, xây dựng
thươ
ng mại
- Nhóm Marketing phi mậu dịch (Marketing xã hội) bao gồm các lĩnh vực
không sản xuất ra của cải vật chất như: đảng phái, tôn giáo, Ta có thể thấy cả 2
nhóm này đều có thể thương mại hoá được nên ta có thể vận dụng các chức
năng, các chính sách của Marketing căn bản vào trong 2 nhóm trên.
2. Phân loại Marketing:
Với vai trò của Marketing trong nền kinh tế, chính trị, xã hội nên Marketing
phát triển rất nhanh chóng và rất phong phú. Việc phân loại Marketing sẽ cho ta
thấy được b
ản chất và đặc điểm của từng loại Marketing.
Đồ án tốt nghiệp: Marketing trong doanh nghiệp xây dựng
9
2.1. Căn cứ vào tính chất của sản phẩm:
- Marketing mậu dịch:
+ Marketing công nghiệp.
+ Marketing thương mại.
+ Marketing dịch vụ.
- Marketing phi mậu dịch: gồm toàn bộ các Marketing của văn hoá, thể thao,
xã hội
2.2. Căn cứ vào phạm vi ứng dụng:
- Marketing trong doanh nghiệp.
- Marketing ngành.
- Marketing khu vực.
- Marketing trong nước.
- Marketing quốc tế.
2.3. Căn cứ vào thời gian và mức độ hoàn thiện lí luận:
- Marketing truyền thống.
- Marketing hiên đại.
3. Marketing Mix:
3.1. Khái niệm:
Marketing – Mix là sự phối hợp hay sắp xếp những thành phần của
Marketing sao cho phù hợp với hoàn cảnh thực tế.
Các thành phần của Marketing bao gồm: chính sách sản phẩm, chính sách
giá cả, chính sách phân phối, chính sách giao tiếp và khuyếch trương. Nếu sự
phối hợp nhịp nhàng giữa các thành phần mà trôi chảy thì công việc kinh doanh
sẽ thành đạt. Cũng giống như một hoạ sĩ vẽ tranh, những thành phần của
Marketing là những màu vẽ. Ngườ
i hoạ sĩ sẽ vẽ một bức tranh đẹp thì đó là kết
quả của sự phối màu tuyệt vời. Hay một nhà kinh doanh giỏi thì sẽ biết phối hợp
bốn thành phần trên thật hợp lý để kinh doanh có lãi.
3.2. Các đặc tính biểu hiện của Marketing - Mix:
Marketing – Mix là biểu hiện cụ thể nhất về sự linh hoạt của một doanh
nghiệp. Đó là sự linh hoạt trước sự thay đổi ngắn hạn nhằm phù hợp với nhu cầu
mới.
Đồ án tốt nghiệp: Marketing trong doanh nghiệp xây dựng
10
Với cùng một loại sản phẩm thì từng doanh nghiệp sẽ có những chính sách
Marketing – Mix khác nhau: chính sách sản phẩm, giá Doanh nghiệp sẽ dựa
vào chu kỳ sống sản phẩm để đưa ra chính sách Marketing Mix cho phù hợp:
đầu tiên doanh nghiệp sẽ chú trọng tới quảng cáo, sau đó là nơi cung cấp cuối
cùng vào chất lượng.
Ví như một sản phẩm dầu gội mới đưa ra thị trường thì trước tiên doanh
nghiệp sẽ chú trọng đế
n quảng cáo. Sau khi sản phẩm được tiêu thụ với khối
lượng lớn thì chi phí cho quảng cáo sẽ giảm đi. Thay vào đó là chính sách phân
phối và cuối cùng đến chính sách sản phẩm khi đó việc bán hàng sẽ có hiệu quả
hơn.
Nội dung của Marketing phụ thuộc vào tính chất của hàng hoá, dịch vụ (máy
móc, thiết bị hay hàng tiêu dùng ) tuỳ thuộc vào vị trí của doanh nghiệp trên
một thị trường cụ thể.
Như ở
thị trường Hà Nội thì thị hiếu nghiêng về hãng bia Hà Nội còn trong
miền Nam thì nghiêng về hãng bia 333. Do đó mỗi Công ty Bia thì họ sẽ có
những chính sách Marketing Mix sao cho phù hợp với từng thị trường của mình.
Do vậy Marketing Mix cũng sẽ thay đổi theo thời gian và điều kiện cụ thể.
Vậy: không có một công thức cụ thể nào cho Marketing Mix. Những yếu tố
quyết định cơ cấu của nó là:
- Vai trò, vị trí của doanh nghiệp trên thị tr
ường.
- Tuỳ thuộc vào tính chất của hàng hoá, dịch vụ.
- Tuỳ thuộc vào các pha khác nhau của chu kì sống của sản phẩm.
- Tuỳ thuộc vào từng thị trường cụ thể.
- Tuỳ thuộc vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh.
Sơ hoạ Marketing Mix trên sơ đồ ở trang bên.
Đồ án tốt nghiệp: Marketing trong doanh nghiệp xây dựng
11
V. Hệ thống thông tin Marketing:
1. Nguyên nhân hình thành hệ thống thông tin Marketing:
Mục tiêu của Marketing
-Sản phẩm là
-Doanh thu
-Lãi
-Thị trường nào?
-Tỷ trọng trên thị trường
Chiến lược Marketing
Sản phẩm
-Thích ứng?
-Thay đổi?
-Phát triển sản
phẩm mới?
-Mở rộng?
Giá cả
-Tổng chi phí?
-Chi phí giới hạn?
-Hoàn vốn?
-Giá thành?
-Cạnh tranh?
Phân phối
-Kênh luồng?
-Chức năng?
-Chi phí?
-Địa điểm?
Xúc tiến bán
-Mục tiêu?
-Nhu cầu thông
tin?
-Nhu cầu xúc tiến?
-Nhu cầu dịch vụ
sản phẩm?
Marketing - Mix
Sản phẩm
-Thành phần
-Cấu tạo
-Lợi ích
-Chức năng
-Sự phô diễn
-Bao gói
-Giao tiếp
Giá cả
-Cơ cấu giá cả
-Giới hạn thấp
-Giảm giá, trừ tiền
-Chiết khấu
Phân phối
-Lựa chọn trực tiếp
-Điều kiện bán
-Chức năng phân
phối
-Hỗ trợ bán hàng
Xúc tiến bán
-Phác thảo nội
dung
-Chọn phương tiện
-Hoạt động xúc
tiến bán hàng
-Hỗ trợ sản phẩm
Đồ án tốt nghiệp: Marketing trong doanh nghiệp xây dựng
12
Trong thế kỷ 19 các doanh nghiệp còn nhỏ, do đó họ biết rất rõ các khách
hàng cá biệt của mình. Các nhà quản lý tự thu thập thông tin Marketing, khi
hướng đến mọi người, theo dõi họ, trao đổi với họ, đưa ra các câu hỏi cần thiết.
Vào thế kỷ 20 có 3 lý do buộc các doanh nghiệp phải hình thành hệ thống và
thu thậpcác thông tin Marketing trên một phạm vi rộng lớn hơn với chất lượng
cao hơn. 3 lý do đó là:
- Chuyển từ Marketing trên phạm vi địa ph
ương đến Marketing toàn quốc.
Do các doanh nghiệp mở rộng danh giới thị trường lãnh thổ của mình nên những
người quản lý doanh nghiệp không có điều kiện biết trực tiếp khách hàng. Điều
đó đòi hỏi phải có những biện pháp đặc biệt để thu thập thông tin Marketing.
- Chuyển từ không đủ mua đến đòi hỏi mua. Do tốc độ tăng trưởng kinh tế
nhanh và tương đối ổn định, thu nhậ
p của người tiêu dùng cũng tăng theo,
những người mua trở nên ngày càng khó tính khi lựa chọn sản phẩm. Những
người bán càng khó tiên lượng, phán đoán được phản ứng của người muavới đặc
trưng khác nhau, hình thức và các đặc tính khác nhau của hàng hoá. Điều đó đòi
hỏi các doanh nghiệp phải hướng đến việc nghiên cứu Marketing để hình thành
hệ thống thông tin Marketing.
- Chuyển từ cạnh tranh giá cả đến cạnh tranh chi phí giá cả. Các doanh
nghiệp bán hàng ngày càng sử dụng phổ biến các công cụ lập giá với chi phí giá
cả cá biệt của hàng hoá song song với việc tăng cường quảng cáo và kích thích
tiêu thụ. Do vậy doanh nghiệp rất cần những thông tin xem sự phản ứng của
người tiêu dùng như thế nào đối với các biện pháp Marketing đã đưa ra của
doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp đòi hỏi các thông tin ngày càng nhiều để phục vụ cho việc
kế hoạch hoá, đi
ều chỉnh các mục tiêu Những thông tin nay bao gồm các thông
tin về quá khứ, hiện tại và tương lai về môi trường kinh doanh của doanh
nghiệp. Tình hình đó bắt buộc các doanh nghiệp phải có hệ thống thông tin
Marketing.
2. Khái niệm hệ thống thông tin Marketing:
Hệ thống tông tin Marketing là hệ thống hoạt động thường xuyên liên tục
của sự tương tác giữa con người, thiết bị và các phương tiện tính toán dùng để
thu thập, phân loại, phân tích đánh giá và truyền đi nh
ững thông tin chính xác,
kịp thời, cần thiết để người phụ trách lĩnh vực Marketing sử dụng chúng với
Đồ án tốt nghiệp: Marketing trong doanh nghiệp xây dựng
13
mục tiêu lập, tổ chức thực hiện, điều chỉnh kế hoach Marketing và kiểm tra việc
áp dụng các biện pháp Marketing.
3. Các bộ phận cấu thành của hệ thống thông tin Marketing:
3.1. Hệ thống báo cáo nội bộ:
Ở bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng có sự thuyết trình bên trong thông qua
hệ thống báo cáo nội bộ, phản ánh các chỉ tiêu về lượng tiêu thụ thường xuyên,
tổng chi phí, khối lượng vật tư dự trữ, sự chu chuyển tiền mặt Ngày nay đang
trong thời đại vi tính hoá thì những nhà quản lý có thể nhận biết được nhiều
thông tin trong một thời gian ngắn. Điều này sẽ là yếu tố cạnh tranh gi
ữa các
doanh nghiệp.
3.2.Hệ thống thu thập thông tin từ bên ngoài:
Hệ thống này phục vụ đắc lực cho những người lãnh đạo về các sự kiện diễn
ra trên thương trường. Thông tin này có thể thu thập từ sách báo, ấn phẩm
chuyên ngành, thông tin đại chúng, truy cập Internet, nói chuyện với khách
hàng, với các nhà cung cấp, tổ chức tài chính Trong thời đại bùng nổ thông tin
như hiện nay thì các doanh nghiệp phải tìm nhiều cách, áp dụng nhiều phương
pháp để có được những thông tin bên ngoài một cách thường xuyên, kịp thời và
chính xác.
3.3. H
ệ thống nghiên cứu Marketing:
Nghiên cứu Marketing là việc xác định một cách có hệ thống những tài liệu
cần thiết về hoàn cảnh Marketing đứng trước công ty, là thu thập, phân tích và
báo cáo kết quả về các thông tin đó. Quá trình nghiên cứu Marketing gồm 5 giai
đoạn:
- Phát hiện vấn đề và hình thành mục tiêu nghiên cứu.
- Lựa chọn nguồn thông tin.
- Thu thập thông tin.
- Phân tích thông tin đã thu thập được.
- Trình bày kết quả nghiên cứu.
3.4. Hệ thống phân tích thông tin:
Hệ thống phân tích thông tin Marketing là tập hợp các phương pháp phân
tích hoàn thiện tài liệu và các vấn đề Marketing được thực hiện. Nó bao gồm:
Đồ án tốt nghiệp: Marketing trong doanh nghiệp xây dựng
14
- Ngân hàng thống kê: là tổng hợp những phương pháp hiện đại của việc xử
lý thống kê thông tin, cho phép khám phá một cách đầy đủ nhất sự phụ thuộc lẫn
nhau trong phạm vi lựa chọn tài liệu và xác lập mức độ tin cậy thống kê của
chúng. Nhờ đó, người quản lý có thể có những lời giải đáp về những vấn đề sau:
+ Đâu là vấn đề cơ bản nhất
ảnh hưởng đến doanh thu của doanh nghiệp.
+ Đâu là tiêu chuẩn quan trọng nhất để khách hàng chọn sản phẩm của
doanh nghiệp mình.
+ Điều gì sẽ xảy ra khi các doanh nghiệp đặt giá bán cao và thấp.
+ Việc phân đoạn thị trường theo tiêu thức nào là phù hợp với năng lực của
doanh nghiệp.
-Ngân hàng mô hình: là tập hợp những mô hình toán học giúp cho nhà quản
trịthông qua các quyết định Marketing tối ưu hơn. Như mô hình hệ th
ống định
giá, mô hình hệ thống tính toán cơ cấu giá
Sơ đồ hệ thống thông tin Marketing của doang nghiệp:
Thông tin Marketing Thông tin Marketing
Lựa chọn những quyết định và chính sách Marketing
VI. Tổ chức hoạt động Marketing trong doanh nghiệp:
Với sự phân tích về những lý luận chung về Marketing thì ta có thể thấy nó
có chức năng hoạt động rất phong phú, Marketing đã ít nhiều ảnh hưởng tới sự
Hệ thống thông tin
H. t.báo
cáo nội
bộ
H.t.thu
thập thông
tin
Marketing
thường
xuyên bên
ngoài
Môi trường
Marketing
-Các thị trường
đối thủ cạnh
tranh.
-Các chính sách
Marketing .
-Các nhân tố vĩ
mô môi trường.
Những người
quản lý
-Phân tích.
-Lên kế hoạch.
-Thực hiện.
-Kiểm tra quá
trình thực hiện.
H.t.nghiên
cứu
Marketing
H.t.phân
tích thông
tin
Marketing
Đồ án tốt nghiệp: Marketing trong doanh nghiệp xây dựng
15
tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Nó nghiên cứu thị trường để tìm ra sản
phẩm mới, tìm hiểu đối thủ cạnh tranh, các hoạt động yểm trợ để cuối cùng
nhằm đạt được mục tiêu của doanh nghiệp đó là lợi nhuận. Do đó để tổ chức có
hiệu quả các hoạt động Marketing thì các nhà quản lý phải hình dung ra tất cả
các hoạt động đó, sắp xếp chúng vào các b
ộ phận chức năng để đảm bảo phối
hợp bộ phận này với các bộ phận khác để tạo nên sự hoạt động tổng thể cho toàn
doanh nghiệp.
Cơ cấu tổ chức của Marketing trong doanh nghiệp:
Theo sơ đồ tổ chức Marketing này ta thấy có sự tập trung cao, các phân tích viên
được bố trí ở 1 bộ phận Marketing cụ thể, việc tiếp xúc khách hàng thông qua 1
đầu mối.
Trưởng
bộ phận
Bộ phận
Marketing
Nhân viên phụ tá
Các phân tích viên
Khách hàng
Bộ phận
Marketing
Trưởng
bộ phận
Nhân viên phụ tá
Các phân tích viên
Khách hàng
Đồ án tốt nghiệp: Marketing trong doanh nghiệp xây dựng
16
Theo sơ đồ tổ chức Marketing này ta thấy các phân tích viên nằm trong 1 bộ
phận Marketing nhưng việc tiếp xúc với khách hàng được tách đều.
Theo sơ đồ tổ chức Marketing này ta thấy các phân tích viên nằm rải rác ở các
bộ phận, không có sự tập trung vào 1 bộ phận Marketing.
Khi tổ chức hoạt động của Marketing trong doanh nghiệp thì doanh nghiệp
cũng cần chú ý đến những tài nguyên cho Marketing. Đây là điều không thể
thiế
u và nó ảnh hưởng đến kết quả hoạt dộng của bộ phận Marketing trong
doanh nghiệp. Đó là:
- Tạo lập ngân sách hay chính là quĩ dành cho Marketing.
- Nhân lực.
VII. Khái quát về Marketing trong xây dựng:
Hoạt động Marketing trong xây dựng hay trong các doanh nghiệp xây dựng
hiện nay vẫn là những vấn đề khá mới mẻ và khó khăn. Do hoạt động xây dựng
có nhiều đặc điểm mang tính đặc thù riêng so với công nghiệp sản xuất hàng
tiêu dùng cho nên việc áp dụng Marketing căn bản vào lĩnh vực sản xuất xây lắp
trên cơ sở không thể tách rời những đặc điểm về sản phẩm và quá trình sản xuất
ra s
ản phẩm xây dựng là việc hoàn toàn đúng đắn. Chính điều đó đã tạo nên
những điểm khác biệt so với Marketing hàng hoá tiêu dùng của Marketing trong
xây dựng:
Các phân tích viên
Khách hàng
Đồ án tốt nghiệp: Marketing trong doanh nghiệp xây dựng
17
- Marketing xây dựng chịu sự điều tiết mạnh hơn của đường lối, chính sách
xây dựng kinh tế, xã hội của Đảng và Nhà nước. Việc cạnh tranh trong xây dựng
luôn diễn ra nhưng phải cạnh tranh lành mạnh, hài hoà các lợi ích và chú ý đến
lợi ích quốc gia.
- Các doanh nghiệp xây dựng cũng phải tiến hành hoạt động Marketing một
cách thường xuyên và liên tục nhưng có thể phân thành 2 giai đoạn:
+ Chưa có và đã có đối tượng tranh th
ầu.
+ Đấu thầu.
- Marketing xây dựng là Marketing cá biệt, nó phụ thuộc vào từng công trình
xây dựng mà doanh nghiệp tham gia tranh thầu.
- Marketing xây dựng là Marketing trực tiếp với khách hàng, tức là nhằm
vào từng chủ đầu tư cụ thể vì sản phẩm xây dựng chỉ được sản xuất khi có người
mua cụ thể.
Mục tiêu tổng quát của Marketing của doanh nghiệp xây dựng là chiếm lĩnh
vị trí độc quyền trong quá trình tái sản xuất tài sả
n cố định và hạn chế hoặc loại
bỏ những đối thủ cạnh tranh. Do đó Marketing trở thành công cụ quan trọng để
các doanh nghiệp xây dựng duy trì củng cố và phát huy địa vị thống trị của
mình.
Mục tiêu quan trọng nhất của Marketing trong doanh nghiệp xây dựng là tìm
ra nhiều hợp đồng xây dựng, thắng thầu nhiều hơn từ đó sẽ tăng lợi nhuận tạo đà
phát tri
ển cho doanh nghiệp.
Các hoạt động Marketing của doanh nghiệp xây dựng bao gồm các hoạt
động: điều tra, khảo sát nhu cầu về một loại hình xây dựng nào đó (cầu, đường )
kí kết hợp đồng xây dựng, thiết kế tổ chức thi công các công trình, bàn giao đưa
công trình vào sử dụng. Việc làm cho sản phẩm thích ứng với nhu cầu của thị
trường trong doanh nghiệp xây dựng chính là việc tuân thủ thiết kế, đảm bả
o yêu
cầu về thời gian xây dựng, đảm bảo chất lượng công trình theo đúng hợp đồng
đã kí kết. Ngoài ra các doanh nghiệp xây dựng cũng cần tạo ra những ảnh hưởng
tích cực đén các điều kiện thị trường bằng việc quảng cáo cho doanh nghiệp, xây
dựng các mối quan hệ với các chủ đầu tư, cơ quan quản lý đầu tư và xây dựng
Đồ án tốt nghiệp: Marketing trong doanh nghiệp xây dựng
18
CHƯƠNG II: THỊ TRƯỜNG VÀ THỊ TRƯỜNG XÂY DỰNG.
I. Những vấn đề chung về thị trường:
Theo C. Mác hàng hoá là sản phẩm được sản xuất ra không phải là để cho
người sản xuất tiêu dùng mà là sản xuất ra để bán. Hàng hoá được bán ở thị
trường nhưng ta không được hiểu thị trường chỉ là cửa hàng, là cái chợ mà ta
phải hiểu đó là nơi tập hợp những người mua và người bán tác động qua lại lẫn
nhau, dẫn đến khả năng trao đổi. Do đó thị trường là nơi chứa tổ
ng số cung và
tổng số cầu và cơ cấu của nó về một loại hàng hoá nào đó. Thị trường còn bao
gồm các yếu tố không gian và thời gian và thị btrường là trung tâm của các hoạt
động kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường như hiện nay thì các doanh nghiệp phải tự sản
xuất kinh doanh, tự vận động và phát triển nhưng vẫn nằm trong sự quản lý theo
chủ trương, đường lối, chính sách củ
a Đảng và Nhà nước. Muốn giành được vị
thế nhất định trong thị trường thì các doanh nghiệp cần phải tìm hiểu, nghiên
cứu thị trường để từ đó đưa ra định hướng hoạt động cho doanh nghiệp. Do đó
doanh nghiệp phải tìm hiểu và biết rõ các yếu tố cấu thành thị trường để từ đó
thấy được những tác động của nó lên hoạt động của doanh nghiệp. K
ể từ khi
sinh ra và cho đến nay thì thị trường cũng có các yếu tố cấu thành chủ yếu sau:
- Người mua: là những cá nhân, tổ chức kinh tế-xã hội tham gia vào thị
trường nhằm đạt được những mục đích, mụa tiêu đã định trước. Người mua luôn
mong muốn mua được những hàng hoá có chất lượng tốt, phong phú về chủng
loại, giá cả hợp lý Trong xây dựng cơ bản thì người mua là những chủ đầu t
ư
(mua công trình xây dựng) có thể là những doanh nghiệp xây dựng (mua nguyên
vật liệu, máy móc, thiết bị ).
- Người bán: là những cá nhân, tổ chức kinh tế- xã hội bán những sản phẩm
hàng hoá và dịch vụ mà thị trường có nhu cầu. Họ mong muốn sẽ bán được
Đồ án tốt nghiệp: Marketing trong doanh nghiệp xây dựng
19
nhiều hàng hoá, giành nhiều hợp đồng kinh tế, giá bán cao để thu được lợi
nhuận. Hơn nữa, họ còn muốn mình càng chuyên sâu, càng chiếm lĩnh thị
trường càng tốt. Trong xây dựng cơ bản thì người bán có thể là doanh nghiệp
xây dựng, các nhà cung cấp nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị
- Vật bán: là những vật mà người bán có và người mua có nhu cầu tiêu dùng
và sử dụng.
- Môi trường: xét trong quan hệ kinh tế là những nhân tố khác tồn tại bên
ngoài hệ thố
ng thị trường, nó có ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến những
hành vi trao đổidiễn ra trong hệ thống thị trường.
Với các yếu tố cấu thành chủ yếu của thị trường như ở trên thì các doanh
nghiệp chính là những người mua (mua tư liệu sản xuất) vừa là người bán (bán
sản phẩm). Để có thể hiểu được thị trường, nghiên cứu nó một cách khoa học
nhất thì vấ
n đề đặt ra là cần phải xem xét những vai trò và chức năng chủ
yếucủa thị trường.
1. Vai trò của thị trường:
Thị trường có vai trò quan trọng đối với sản xuất hàng hoá, kinh doanh và
quản lý kinh tế. Tái sản xuất hàng hoá gồm có sản xuất, phân phối, trao đổi và
tiêu dùng. Thị trường nằm trong khâu lưu thông. Như vậy thị trường là một khâu
tất yếu và không thể không có của sản xuất hàng hoá. Thị tr
ường chỉ mấtđi khi
sản xuất hàng hoá không còn. Thị trường là chiếc “cầu nối” của sản xuất và tiêu
dùng. Thị trường là mục tiêu của quá trình sản xuất hàng hoá. Thị trường là
khâu quan trọng nhất của quá trình tái sản xuất hàng hóa.
Để sản xuất hàng hoá thì phải có chi phí sản xuất, để tiêu thụ hàng hoá thì
phải có chí phí lưu thông Do đó thị trường là nơi kiểm nghiệm những chi phí
đó và thực hiện yâu cầu qui luậ
t tiết kiệm lao động xã hội. Và trong khâu lưu
thônghàng hoá, chính thị trường sẽ quyết định việc tiêu thụ hàng hoá, thị trường
là nơi kết thúc quá trình sản xuất. Với vai trò là nơi bắt đầu quá trình sản xuất thì
thị trường sẽ quyết định sản xuất ra cái gì, sản xuất bao nhiêu và cho ai? Sản
xuất như thế nào? như thế thì doanh nghiệp phải xuất phát từ vấn đề nghiên
cứu, điề
u tra thị trường để cho sản phẩm của mình phù hợp với nhu cầu của thị
trường.
Thị trường không chỉ là nơi diễn ra các hoạt động mua bán mà còn là nơi
diễn ra các quan hệ hàng hoá tiền tệ hay chính thị trường là môi trường kinh
Đồ án tốt nghiệp: Marketing trong doanh nghiệp xây dựng
20
doanh của doanh nghiệp. Đây cũng chính là nơi thực hiện những chính sách và
thực hiện những biện pháp điều tiết của Nhà nước.
Trong nền kinh tế thị trường, thị trường vừa là nguyên nhân vừa là điều kiện
để các doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Thị trường là tấm gương để doanh
nghiệp nhận biết nhu cầu xã hội và để đánh giá hiệu quả kinh doanh của mình.
Th
ị trường là thước đo khách quan của mọi doanh nghiệp. Và trong quản lý kinh
tế, thị trường có vai trò quan trọng, nó là đối tượng và cũng là căn cứ của kế
hoạch hoá. Thị trường là công cụ bổ sung cho các công cụ điều tiết vĩ mô nền
kinh tế và chính là nơi mà Nhà nước tác động và quá trình kinh doanh của cơ sở.
2. Chức năng của thị trường:
Chức năng của thị trường là những tác
động khách quan vốn có bắt nguồn từ
bản chất của thị trường tới quá trình tái sản xuất và tới đời sống kinh tế-xã hội.
Thị trường bao gồm 4 chức năng sau:
2.1. Chức năng thừa nhận:
Sản phẩm hàng hoá được sản xuất ra không phải là để cho người sản xuất
tiêu dùng mà họ sản xuất ra để bán. Khi hàng hoá được bán ra cho người tiêu
dùng thì chính hành động mua bán này đã được thông qua chức năng thừa nhận
của thị trường. Thị trường thừa nhận cũng chính là người mua chấp nhận, điều
này có nghĩa là về cơ bản quá trình tái sản xuất xã hội của hàng hoá đã hoàn
thành. Bởi vì bản thân vi
ệc tiêu tiêu dùng sản phẩm và các chi phí tiêu dùng đã
khẳng định thị trường khi hàng hoá được bán.
Thị trường thừa nhận: tổng khối lượng hàng hoá đưa ra thị trường, cơ cấu
cung cầu, quan hệ cung cầu đói với từng hàng hoá, thừa nhận giá trị và giá trị sử
dụng của hàng hoá, chuyển giá trị sử dụng và giá trị cá biệt thành giá trị giá trị
sử dụng và giá trị xã hội
Một cách tổ
ng quát thì chức năng thừa nhận của thị trường được thể hiện
trên 2 mặt:
- Sự chấp nhận hàng hoá hay dịch vụ của người mua trên thị trường (chấp
nhận sản phẩm của người bán).
- Sự chấp nhận sản xuất và cung ứng hàng hoá hay dịch vụ của người bán
trên thị trường (mong muốn mua hàng của người mua).
Đồ án tốt nghiệp: Marketing trong doanh nghiệp xây dựng
21
Thị trường không phải chỉ thừa nhận thụ động các kết quả của quá trình tái
sản xuất, quá trình mua bán mà thông qua sự hoạt động của các qui luật kinh tế
trên thị trường mà thị trường còn kiểm tra, kiểm nghiệm quá trình tái sản xuất,
quá trình mua bán trước đó.
2.2. Chức năng thực hiện:
Sau khi hàng hoá được sản xuất ra trên thị trường sẽ diễn ra những hoạt
động mua bán giữa khách hàng và người sản xuất. Do đó hoạt động mua bán là
hoạt động lớn nhất, bao trùm cả thị trường. Hoạt động này được tiến hành giữa
bên mua và bên bán với đặc trưng là sản phẩm phải được thực hiện theo ý đồ,
mong muốn của bên mua. Bên mua thực hiện mua sản phẩm khi bên bán đã
hoàn thành sản phẩ
m.
- Thị trường thực hiện hành vi trao đổi hàng hoá.
- Thị trường thực hiện tổng cung và tổng cầu hàng hoá.
- Thị trường thực hiện cân bằng cung cầu từng thứ hàng hoá.
- Thị trường thực hiện giá trị (thông qua giá cả).
- Thị trường thực hiện việc trao đổi giá trị
Do vậy, qua chức năng này của thị trường thì các hàng hoá hình thành nên
các giá trị trao đổi của mình. Giá trị trao đổi là cơ sở vô cùng quan trọ
ng để hình
thành nên cơ cấu sản phẩm, các quan hệ tỉ lệ về kinh tế thị trường.
2.3. Chức năng điều tiết:
Thị trường là nơi tập trựng hoạt động của các qui luật kinh tế. Do đó thị
trường vừa là mục tiêu vừa tào ra động lực để thực hiện các mục tiêu đó. Đây là
cơ sở quan trọng để chức năng điều tiết của thị trường phát huy vai trò của mình.
Chức năng này thể hiện ở chỗ:
- Thông qua giá cả: khi giá cả của một hàng hoá tă
ng quá cao thì nhu cầu về
hàng hoá đó giảm đi. Điều này sẽ dẫn đến hàng hoá tiêu thụ chậm, tự nhiên thị
trường sẽ làm hạ giá xuống đúng với giá của sản phẩm đó.
- Thông qua dung lượng, nhu cầu thị trường: điều này sẽ giúp cho các nhà
sản xuất biết được cần phải thay đổi những gì ?(về sản phẩm, công nghệ sản
xuất ) để có thể đ
áp úng tốt hơn nhu cầu của thị trường, cần phải sản xuất bao
nhiêu? phân phối ở đâu ? để phù hợp với dung lượng thị trường đó.
Đồ án tốt nghiệp: Marketing trong doanh nghiệp xây dựng
22
- Thông qua hoạt động của các qui luật kinh tế trên thị trường làm cho thị
trường trở thành “bàn tay vô hình” điều tiết mọi khâu của quá trình tái sản xuất
2.4.Chức năng thông tin:
Thị trường có chức năng như “chiếc gương” có khả năng phản ánh nhiều
mặt các hoạt động diễn ra trong quá trình tái sản xuất của xã hội. Thông qua
hoạt động thị trường của một xã hội từng thời điểm, giai đoạn phát triển mà
người ta có thể đánh giá được thực trạng nền kinh tế của một xã hội đó phát triển
ra sao. Đồng thờ
i thị trường còn phản ánh thông tin về tổng số cung, tổng số
cầu, quan hệ cung cầu, giá cả, các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp
Tóm lại, bốn chức năng trên của thị trường đều được thể hiện trong mỗi hiện
tượng kinh tế khi nó diễn ra trên thị trường và bốn chức năng này có mối liên hệ
mật thiết với nhau. Và ta cũng phải thấy rằng chỉ khi ch
ức năng thừa nhận được
thực hiện thì ba chức năng còn lại mới phát huy tác dụng.
II. Thị trường xây dựng:
Thị trường xây dựng là nơi gặp gỡ giữa sự chào hàng về khả năng và kết quả
xây dựng công trình giao thông của các doanh nghiệp xây dựng (người bán sản
phẩm xây dựng ) và nhu cầu xây dựng của các chủ đầu tư công trình (người mua
sản phẩm xây dựng) nhằm đi đến kí kết hợp đồng xây dựng giữa người mua và
người bán.
Theo quan điểm của Marketing thì thị trường xây dựng là t
ập hợp những
khách hàng hiện có và tiềm năng của doanh nghiệp xây dựng, đó là các chủ đầu
tư có nhu cầu hoặc mong muốn cụ thể về xây dựng công trình sẵn sàng và có
khả năng tham gia vào việc trao đổi để thoả mãn nhu cầu hoặc mong muốn đó.
1. Đặc điểm thị trường xây dựng :
Hoạt động thi công xây lắp công trình xây dựng của doanh nghiệp xây dựng
là hoạt động sản xuấ
t hàng hoá đặc biệt vì thế các hoạt động diễn ra trên thị
trường xây dựng cũng có các đặc điểm chung của thị trường hàng hoá khác.
Song nó còn nhiều đặc điểm riêng đó là đặc điểm đấu thầu xây dựng, thương
thảo kí kết hợp đồng xây dựng giữa doanh nghiệp trúng thầu với chủ đầu tư (do
các sản phẩm xây dựng được sản xuất theo đơn đặt hàng). Do
đó thị trường xây
dựng có một số đặc điểm sau:
Đồ án tốt nghiệp: Marketing trong doanh nghiệp xây dựng
23
- Trên thị trường xây dựng các chủ thể kinh doanh, chính là các doanh
nghiệp xây dựng, phải có tính tự chủ cao, tự bù đắp chi phí, tự do liên doanh liên
kết với các doanh nghiệp khác, tự do kinh doanh theo các luật định.
- Trên thị trường xây dựng, người mua nói chung không thể chọn những sản
phẩm khác để mua vì sản phẩm xây dựng là hàng hoá đặc biệt, có tính đơn
chiếc, giá cả cao và gắn liền với địa điểm sử dụng.
- Trên thị trường xây d
ựng, chủ đầu tư tự chọn người nhận thầu. Hợp đồng
xây dựng thì đa dạngvề hình thức, nội dung và giá cả. Kí kết hợp đồng xây dựng
chính làbiểu hiện của sự gặp nhau giữa cung và cầu, và là kết quả của sự thương
lượng, thoả thuận giữa một bên là chủ đầu tư và một bên là các doanh nghiệp
nhận thầu xây dựng.
- Trên thị tr
ường xây dựng thì cạnh tranh có thể được coi là đặc điểm quan
trọng của thị trường. Cùng với việc cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp
xây dựng đó là việc tạo uy tín cho doanh nghiệp. Muốn vậy thì doanh nghiệp
phải không ngừng nâng cao chất lượng, tìm tòi những biện pháp thi công tiên
tiến, những dây chuyền sản xuất, những công nghệ mới Đây là hai vấn đề có
tác động tương hỗ cho nhau: có cạnh tranh thì sẽ kích thích vi
ệc nâng cao chất
lượng sản phẩm, các sản phẩm làm ra mà ngày càng tốt hơn thì sẽ tạo ra sự cạnh
tranh gay gắt.
-Trên thị trường xây dựng, mối quan hệ trao đổi mua bán giữa chủ đầu tư và
các đơn vị nhận thầu diễn ra chủ yếu thông qua đấu thầu, đàm phán, kí kết hợp
đồng, thi công xây lắp, bàn giao công trình và thanh quyết toán.
Tóm lại, từ những đặc điểm trên của thị trường xây d
ựng thì Marketing xây
dựng phải có nhiệm vụ tìm hiểu những vấn đề liên quan tới chủ đầu tư, các đối
thủ cạnh tranh, sản phẩm Do chủ đầu tư khi mua sản phẩm thì chưa được nhìn
thấy sản phẩm mình mua nên Marketing xây dựng phải có nhiệm vụ quảng cáo,
thuyết phục chủ đầu tư thấy được rằng giá cả mà nhà thầu đưa ra là hợp lý, biện
pháp thi công đảm bảo ch
ất lượng và đúng thời gian qui định, ưu điểm của nhà
thầu hơn so với các doanh nghiệp khác (về mặt cônh nghệ, chất lượng một số
công trình đã thi công, đội ngũ công nhân lành nghề ). Và khi nhận hợp đồng
thi Marketing xây dựng có nhiệm vụ lựa chọn các phương thức thanh quyết toán
bàn giao công trình sao cho hiệu quả kinh tế cao nhất.
2. Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp xây dựng:
Đồ án tốt nghiệp: Marketing trong doanh nghiệp xây dựng
24
Thị trường hình thành và phát triển gắn liền với sự hình thành và phát triển
của sản xuất kinh doanh hàng hoá, lưu thông tiền tệ. Nó được hiểu một cách
rộng rãi mà tổng hoà của nhiều mối quan hệ kinh tế, là biểu hiện theo quá trình
trao đổi mà thông qua đó các quyết định của người tiêu dùng về các loại hàng
hoá sẽ được biết đến. Do đó, khi tiến hành sản xuất kinh doanh thì bất cú một
doanh nghiệp xây dựng nào cũng phả
i hoạt động trong một môi trường nhất
định, bao gồm: các yếu tố môi trường vĩ mô và các yếu tố của môi trường vi mô.
2.1. Các yếu tố môi trường vĩ mô:
2.1.1. Môi trường công nghệ:
Nhờ sự phát triển của khoa học kĩ thuật làm cho công nghệ nói chung và
công nghệ xây dựng nói riêng không ngừng phát triển, bao gồm: những khoa
học công nghệ mới, dây chuyền thi công hiện đại, sự phát triển không ngừng của
thông tin Đây sẽ là các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến các doanh nghiệp xây
dựng, đôi khi còn quyết định sự sống còn của một doanh nghiệp. Nó đòi hỏi các
doanh nghiệp xây dựng phải luôn chú ý đầu tư, áp dụng công nghệ mới để nâng
cao chất lượng công trình, từ đó tạo ra thế lực cho doanh nghiệp trên thị trường.
Đây cũng là yếu tố quyết định đến khả năng trúng thầu của doanh nghiệp.
2.1.2. Môi trường kinh tế:
Đây là sự phát triển tổng thể nền kinh tế, với các ngành nghề các sản phẩm
có ảnh hưởng lẫn nhau rất rõ ràng. Môi trườ
ng kinh tế mà phát triển, ổn định
làm cho nhu cầu xây dựng sẽ ngày càng tăng, điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến
việc đáp ứng của các doanh nghiệp xây dựng.
2.1.3. Môi trường xã hội:
Tình trạng văn hoá, sự bất ổn hay ổn định về tình hình trính trị xã hội của đất
nước sẽ có tác động mạnh mẽ tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghi
ệp xây dựng. Theo đó nhu cầu về chất lượng và thẩm mỹ của công trình xây
dựng, phong tục tập quán cũng đòi hỏi các doanh nghiệp xây dựng phải luôn
tìm cách để thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Ngoài ra, các doanh nghiệp còn
phải biết các quy định, thể chế của nhà nước cho phép doanh nghiệp hoạt động.
2.1.4. Môi trường sinh thái:
Do sản xuất thi công xây lắp được tiến hành sản xuất ngoài trời nên nó chịu
ảnh hưởng trực tiếp b
ởi các điều kiện địa hình, địa chất, khí tượng thuỷ văn tại
nơi xây dựng. Đồng thời trong chính quá trình sản xuất thì nó cũng gây ra những