7
sống của con người ngày càng được cải thiện mà nó còn làm cải thiện cả môi
trường do kinh tế phát triển nhà nước có ngân sách cho những dự án bảo vệ môi
trường, nguồn tài nguyên bị khai thác được thay thế dần bởi các nguồn tài nguyên
tự tạo
2.2 Môi trường đang bị huỷ hoại do các chính sách tăng trưởng kinh tế ở Việt
Nam
2.2.1 Trong công nghiệp
Thực hiện nghị quyết Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ 6, kể từ năm 1986 Việt
Nam bước vào công cuộc đổi mới. Công cuộc đổi mới này được tiến hành trên
toàn diện, trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội như đổi mới tư duy, hệ
thống kinh tế, chính sách, thể chế quản lí hành chính… Trong lĩnh vực kinh tế,
Việt Nam chuyển từ nền kinh tế chỉ huy, tập chung, quan liêu, bao cấp sang nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí
của nhà nước theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa. Trong gần hai thập kỷ qua thực
hiện chủ trương và đường lối đổi mới nền kinh tế Việt Nam đã đạt được một số
thành tựu to lớn. Chính sách đổi mới đã mang lại những thay đổi, tạo ra một nền
kinh tế năng động, một xã hội văn minh, công bằng và dân chủ. Tổng sản phẩm
quốc nội ( GDP) tăng trung bình hơn 7%/năm. Đặc biệt trong công nghiệp, tăng
trưởng công nghiệp từ xuất phát điểm chỉ có 0,6% năm 1980 tăng lên đến 6,07%
năm 1990 và giai đoạn 1991-2000 tăng lên trung bình 12,9%/năm, trong đó thời
kỳ 1991-1995 có tốc độ tăng trưởng cao nhất đạt 17%/năm. Tỷ trọng công nghiệp
đã có sự chuyển dịch đáng kể theo hướng công nghiệp hoá, từ mức 22,7% GDP
năm 1991 tăng lên 36,6% năm 2000. Sự phát triển của quá trình công nghiệp hoá
trong những năm qua một mặt là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, tạo công ăn
việc làm cho người dân nhưng mặt khác nó đã ít nhiều bộc lộ những mặt trái của
nó mà nếu không có biện pháp bảo vệ cụ thể thì trong tương lai không xa chúng ta
sẽ phải gánh chịu những hậu quả nghiêm trọng do chính chúng ta gây ra.
8
Theo ước tính hiện nay nước ta có khoảng trên 60.000 công ty và doanh nghiệp
tư nhân, hơn 4.500 hợp tác xã phi nông nghiệp và trên 2 triệu hộ kinh doanh cá
thể. Cùng với sự ra đời của hàng loạt các doanh nghiệp và cơ sở kinh doanh đó,
hiện nay trên cả nước tổng lượng chất thải rắn ước tính khoảng 49. 000 tấn/ngày,
trong đó chất thải rắn công nghiệp chiếm khoảng 27.000tấn/ngày. Việc quản lý
chặt chẽ chất thải rắn nguy hại đang gặp nhiều khó khăn, không có đủ kho chứa đủ
tiêu chuẩn để lưu giữ các chất thải độc hại trước khi xử lí, không có nhà máy xử lí
chất thải độc. Phần lớn chất thải rắn nguy hại này thuần tuý chỉ được chôn chung
lẫn lộn với rác thải sinh hoạt hay thậm chí đổ ngay tại nhà máy gây mối nguy hại
rất lớn đối với môi trường sống.
Ngoài ra, trong quá trình sản xuất, kinh doanh, các cơ sở doanh nghiệp thường
thải ra một lượng nươc thải khá lớn. Đặc biệt là khoảng hơn 90% cơ sở sản xuất cũ
chưa có thiết bị xử lí nước thải. Phần lớn các nhà máy xí nghiệp nếu có tiíen hành
xử lí thì chỉ xử lí sơ bộ rồi thải thẳng ra nghuồn nước mặt, gây ô nhiễm trầm trọng
đối với nhiều dòng sông. Trong nhiều trường hợp, nuớc thải ứ đọng lâu ngày còn
gây ô nhiễm không khí, mất mỹ quan, lan truyền bệnh dịch và nhiều tác động tiêu
cưc khác. Nước thải công nghiệp chính là một trong những nguyên nhân gây ô
nhiễm cho môi trường đô thị
Khí thải của các cơ sở doanh nghiệp sản xuất cũng là vấn đề cần bàn tới. Ô
nhiễm môi trường không khí chủ yếu do các ngành nhiệt điện, công ngiệp hoá chất
gây nên. Ví dụ nhà máy nhiệt điện Phả Lại, nồng độ bụi trung bình tại các điểm đo
đều vượt tiêu chuẩn cho phép từ 1 đến 6 lần. Tại nhà máy nhiệt điện Uông Bí,
nồng độ bụi đo trong 1 giờ từ 4 đến 4,7 mg/m
3
, gấp 13 đến 16 lần trị số cho phép.
Nồng độ các chất khí độc hại khác như CO
2,
NO
2,
SO
2
… trong không khí xung
quanh nhiều nhà máy và khu công nghiệp đều vượt tiêu chuẩn cho phép từ 1,5 đến
2,5 lần. Điều này đã gây tác động xấu đối với mùa màng và sức khoẻ của nhân dân
của cả một vùng rộng lớn xung quanh các khu vực nhà máy. Tuy trong thời gian
qua, phần lớn các nhà máy đã trang bị thiết bị xử lí bụi nhưng số lượng các nhà
9
máy có thiết bị xử lí khí độc hại cón rất ít mà chủ yếu được thải thẳng ra ngoài
không khí, ảnh hưởng trực tiếp đến sưc khoẻ con người.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá càng phát triển thì nhu cầu khai thác
các thành phần môi trường để làm nguyên liệu đầu vào cho hoạt động sản xuất
ngày càng tăng. Quá trình này thể hiện mối liên hệ cơ bản giữa phát triển và môi
trường đồng thời cũng là một vấn đề nan giải. Việc khai thác quá mức nguồn tài
nguyên là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự hao kiệt về tài nguyên, mất cân bằng
sinh thái và suy giảm chất lượng môi trường. Nạn khai thác gỗ trái phép gây ra sự
suy nghiêm trọng độ che phủ của rừng. Nếu như năm 1945 độ che phủ nước ta đạt
43% thì tính đến tháng 12 năm 2000 độ che phủ rừng chỉ còn 29, 8% và đang ngày
càng bị thu hẹp
Còn nhiều nhiều vấn đề ô nhiễm do công nghiệp gây ra như việc nhập khẩu các
thiết bị lạc hậu từ nước ngoài, hay tiếng ồn từ các cơ sở sản xuất… mà trong phạm
vi bài tiểu luận triết học của mình tôi không thể trình bày hết được, trên đây là
những vấn đề mà theo tôi là cấp thiết và cần có hướng giải quyết kịp thời.
2.2.2 Trong nông nghiệp
Nước ta là một nước có nền kinh tế xuất phát điểm là nông nghiệp và cho đến
nay, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam vẫn chủ yếu dựa vào tài nguyên, nông sản
và hàng sơ chế. Kim ngạch xuất khẩu khoáng sản và hàng hoá nông lâm, thuỷ hải
sản chiếm tới 63% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Nước ta đang trên đà
hội nhập kinh tế quốc tế, quá trình này hứa hẹn nhiều cơ hội cho Việt Nam đẩy
mạnh sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu to lớn của thị trường quốc tế.Tuy nhiên đi
đôi với sự gia tăng này của các hoạt động sản xuất là khả năng gây ô nhiễm và huỷ
hoại môi trường ngày càng lớn. Sự gia tăng xuất khẩu các mặt hàng từ nguồn tài
nguyên không tái tạo được và việc khai thác bừa bãi các nguồn tài nguyên có thể
tái tạo nhằm phục vụ xuất khẩu có thể làm cạn kiệt nguồn tài nguyên của nước ta
trong tương lai. Mặt khác, các ngành nông nghiệp, trồng trọt, chăn nuôi cũng có
10
nhiều cơ hội để thâm canh, gia tăng sản lượng dẫn đến việc phá huỷ tái nguyên
thiên nhiên do khai thác, trồng trọt và chăn nuôi không hợp lí. Để tăng sản lượng
các loại rau, củ, quả… người nông dân thường phun các loại chất kích thích, phân
bón, thuốc trừ sâu… Trình độ nhận thức và chuyên môn của người dân còn thấp,
thêm vào đó đội ngũ cán bộ nông nghiệp còn chưa nhiều vì vậy người nông dân
chưa ý thức được hành động của họ sẽ dẫn đến hậu quả gì. Việc sử dụng các loại
hoá chất và sau đó vứt ngay các loại vỏ, bao đựng trên ruộng trước tiên gây ô
nhiễm nguồn nước sau là gây nguy hiểm cho những người sử dụng các loại rau,
củ, quả đó. Thực tế là trong năm 2002, ở miền Bắc, giá nhãn và vải đã mất giá
nghiêm trọng do Trung Quốc không nhập khẩu vì hàng chưa đảm bảo tiêu chuẩn
chất lượng… Sử dụng hoá chất không được phép trước tiên là gây ô nhiễm nguồn
nước, không tiêu thụ được hàng hoá, sau cùng là gây ra thoái hoá đất- một sự mất
mát lớn. Môi trường nông thôn cũng đang kêu cứu.
2.2.3 Trong du lịch biển
Trước tình hình tăng trưởng kinh tế, các phương tiện thông tin, giao thông vận
tải ngày càng dễ dàng và thuận tiện. Đây là điều kiện để hoạt động du lịch phát
triển trở nên nhanh chóng. Ngành du lịch nước ta hãy còn rấy nhỏ bé so với các
nước trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên trong 10 năm qua, cùng với quá
trình đổi mới và chuẩn bị hội nhập nền kinh tế thế giới du lịch nước ta cũng đã có
những bước phát triển ban đầu. Năm 2001 toàn ngành đón 2,33 triệu lượt khách
quốc tế, tăng gần 9%so với năm 2000, vượt kế hoạch 6% so với năm 2000. Du
lịch phát triển tạo nhiều công ăn việc làm cho dân cư và thu được một lượng ngoại
tệ lớn cho ngân sách quốc gia. Tuy nhiên cũng như sự phát triển trong công nghiệp
và nông nghiệp, hoạt động du lịch cũng đang tác động đến môi trường về nhiều
mặt.
Do nhu cầu phát triển du lịch, nhiều diện tích đất đai bị khai phá để xây dựng cơ
sở hạ tầng như làm đường giao thông khách sạn, các công trình thể thao, các khu
11
vui chơi giải trí. Điều đó gây phá hoại hoặc tổn thất tới cảnh quan thiên nhiên, các
hệ sinh thái.
Hoạt động du lịch có thể gây tác động khác tới tài nguyên nước, đặc biệt là các
chất thải, các chất gây ô nhiễm do các khách sạn, nhà hàng, các hoạt động vận tải
thuỷ và khách du lịch tạo nên. Hiện nay ở nước ta, tình trạng rác thải bừa bãi tại
các điểm du lịch, vui chơi giải trí còn phổ biến, điều đó không những ảnh hưởng
tới vệ sinh công cộng và môi trường mà còn gây cảm giác khó chịu cho du khách.
Khi hoạt động du lịch nhộn nhịp lên thì đó cũng là điều đe doạ tới chất lượng
không khí. Trước hết là ô nhiễm không khí do giao thông vận tải. Du khách có thể
đi bằng đường bộ hoặc máy bay. Tuy nhiên không giống như ô tô, xe máy… ô
nhiễm do máy bay ít được nhận thấy trực tiếp. Thế nhưng đây lại là phương tiện
gây ô nhiễm trực tiếp lên tầng ôzôn.
Sự phát triển du lịch còn tạo nên mối đe doạ tới các hệ sinh thái như phá những
khu rừng ngập mặn để xây dựng cơ sở hạ tầng, làm mất hoặc chia cắt nơi cư trú
của các loài sinh vật, khai thác bừa bãi các tài nguyên rừng, biển để sản xuất các
sản phẩm phục vụ khách du lịch như tiêu bản các loại thú rừng, hoa lan rừng, tắc
kè, đồi mồi, san hô… tại nhiều điểm du lịch của nước ta.Ngoài ra việc khai thác
hải sản biển cũng đang ở mức báo động. Đánh cá ven bờ giảm một cách đáng kể
và số thuyền đánh cá đã tăng lên một cách nhanh chóng do có sự khuyến khích của
chính phủ. Việc khai thác dầu không hợp lí cũng là một trong những nguyên nhân
gây ô nhiễm biển.
2.2.4 Gia tăng mức tiêu thụ
Việt Nam là một nước đang phát triển về kinh tế, kinh tế phát triển kéo theo thu
nhập cũng tăng lên. Đời sống người dân càng được nâng cao thì nhu cầu về các
phương tiện trong cuộc sống cũng đòi hỏi cao hơn, nhu cầu của con người bây giờ
không còn là ăn no, mặc ấm nữa mà đã tiến đến một bước cao hơn dó là nhu cầu
ăn ngon, mặc đẹp. Với mức dân số như hiện nay là 80 triệu người và ước tính đến
12
năm 2042 sẽ có khoảng 155 triệu người, tất cả sống trong một đất nước có diện
tích chỉ bằng ½ nước Pháp. Vấn đề sẽ trở nên khó khăn hơn với 55% dân số dưới
25 tuổi, tức là sẽ có một sự bùng nổ về dân số khi những người trẻ tuổi này bước
vào tuổi sinh nở. Dân số đông, kinh tế phát triển, nhu cầu đi lại cũng tăng, hàng
ngày lượng khí thải từ các phương tiện giao thông như ô tô, xe máy… đang góp
một phần không nhỏ vào ô nhiễm không khí. Dân số đông, nguời ta lấp ao hồ để
lấy đất ở. Rừng ngày càng bị thu hẹp do nhu cầu khai thác gỗ mạnh để sản xuất ra
đồ dùng phục vụ cho con người. Các loại động vật quý hiếm có nguy cơ tuyệt
chủng trước tình trạng săn bắt tràn lan để làm vật chưng bày hoặc làm thịt cho các
thực khách… Hệ sinh thái đang mất đi sự cân bằng trước sự phá hoại như vũ bão
của con người.
2.3 Hậu quả của ô nhiễm môi trường
“Nếu chúng ta bắn vào thiên nhiên một phát đạn, thì thiên nhiên sẽ bắn trả lại ta
bằng đại bác ”. Thực tế cho thấy, đi kèm với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, chúng ta đang phải gánh chịu những hậu quả do chính chúng ta gây ra. Trong
vòng 7 năm trở lại đây, các thảm hoạ tự nhiên như bão xoáy, lụt lội, hạn
hán…ngày càng tăng nhanh cả về tần suất lẫn cường độ như hạn hán ở miền
Trung, bão lụt ở đồng bằng sông Cửu Long, cháy rừng ở U Minh… đã cướp đi
sinh mạng của nhiều người, thâm hụt vào ngân sách quốc gia hàng trăm tỷ đồng -
một con số không nhỏ đối với một quốc gia còn nghèo như Việt Nam. Ngoài ra, đi
đôi với sự suy giảm môi trường, các bệnh về thời tiết cũng gia tăng, thiệt hại người
do các bệnh về đường nước tăng như sốt rét, tiêu chảy Các bệnh liên quan đến
đường ruột bệnh giun, bệnh sán máng, giun trong máu… các bệnh về hô hấp như
viêm phổi, ung thư phổi… Cuộc sống của con người đang bị đe doạ
2.4 Giải pháp giải quyết vấn đề
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đang tăng cường quan hệ
thương mại song phương với các nước trên thế giới và tiến hành thủ tục đàm phán