Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường theo quan điểm mối liên hệ phổ biến - 1 doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.86 KB, 6 trang )

Chỳng ta ang sng trong mt mng li s sng rng ln. Ging nh mt mng
nhn, cng cú nhiu mi liờn h thỡ mng li cng bn vng. Chỳng ta ó bit tt
c nhng mi liờn kt trong s sng s khụng tn ti v phỏt trin c nu khụng
c h tr bi mụi trng. Vi tc phỏ hoi mụi trng nh hin nay ca con
ngi, mụi trng ca chỳng ta ang dn b suy thoỏi, mi liờn kt ca cỏc mng
li s sng ang dn b phỏ v. S tng trng kinh t ngy cng nhanh, mt mt
nú nõng cao i sng ca ngi dõn nhng mt khỏc nú ang gõy mt sc ộp
mnh m lờn mụi trng t nhiờn. Cng nh cỏc nc ang phỏt trin khỏc, cú
nhng kt qu v kinh t trong giai on trc mt, chỳng ta phi tr giỏ l mt i
ss bn vng ca cỏc ngun ti nguyờn v lõu di. Mt thp k phỏt trin nhanh
chúng vit nam ó dn n s gia tng ụ nhim t, khụng khớ, nc v quan
trng hn l gia tng mc tiờu th, phõn hoỏ giu nghốo mng li ang dn
mt i sc mnh ca nú. Chớnh vỡ vy tụi quyt chn ti ny nghiờn cu.
Nghiờn cu "Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến và vận dụng phân
tích mối liên hệ giữa tăng trởng kinh tế với bảo vệ môi trờng sinh thái
ở Việt Nam". Tụi mun gúp mt phn cụng sc nh bộ ca mỡnh vo vic tỡm
kim con ng phỏt trin ca vit nam trong nhng nm ti nhm a vit nam
tr thnh mt nc phỏt trin trong khu vc v trờn th gii. Hon thnh tiu lun
ny tụi ó gia tng c tri thc cng nh hiu bit v cỏc vn cp thit ca
Vit Nam.

2

Chương 1 Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến
1.1 Sự ra đời của phép biện chứng
Triết học ra đời từ thời cổ đại đánh dấu sự ra đời của phép biện chứng. Trải qua
hàng ngàn năm tồn tại và phát triển có phồn vinh có suy vong. Khởi đầu là phép
biện chứng tự phát cổ đại, thể hiện rõ nét trong thuyết “âm - dương” của Trung
Quốc, đăc biệt là trong nhiều học thuyết của Hi Lạp cổ đại. Đến khoảng thế kỷ 17
nửa đầu thế kỷ 18, phương pháp siêu hình thống trị trong tư duy triết học mà đại
diện là Đêcactơ – ông được coi là linh hồn của phương pháp siêu hình. Trong


khoảng nửa sau thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19 đây là thời kỳ tổng kết các lịch sử triết học
nhân loại và hình thành hệ thống lớn đó là phương pháp biện chứng duy tâm mà
đại diện là Hêgen ông được coi là tiền đề của phương pháp biện chứng duy vật sau
này. Ngày nay phép biện chứng đã đạt đến trình độ cao nhất đó là phép biện chứng
duy vât. Phép biện chứng duy vật được tạo thành từ một loạt những phạm trù,
những nguyên lý, những quy luật được khái quát từ hiện thực phù hợp với hiện
thực. Cho nên nó phản ánh đúng sự liên hệ, sự vận động và sự phát triển của tự
nhiên, xã hội và tư duy. Nhờ vậy nó đã khắc phục được những hạn chế vốn có của
phép biện chứng tự phát cổ đại cho rằng thế giới là một chỉnh thể thống nhất, giữa
các bộ phận của nó có mối liên hệ qua lại, thâm nhập vào nhau, tác động và chịu
ảnh hưởng lẫn nhau, thế giới và các bộ phận cấu thành thế giới ấy không ngừng
vận động và phát triển. Tuy nhiên sự hạn chế của phương pháp biện chứng này là
tuy nó cho chúng ta thấy một bức tranh về sự tác động qua lại, sự vận động và
phát triển nhưng chưa làm rõ được cái gì đang liên hệ cũng như những quy luật
nội tại của sự vận động và phát triển. Hơn nữa phép biện chứng duy vật còn sửa
được sai lầm của phép biện chứng duy tâm khách quan thời cổ đại mà đại biểu là
Hêgen - đại diện lỗi lạc của phép biện chứng. Hêgen cho rằng sự phát triển biện
chứng của thế giới bên ngoài chỉ là sự sao chép lại sự tự vận động của “ý niệm
tuyệt đối ”mà thôi. Phép biện chứng duy vật đã chứng minh rằng : những ý niệm

3

trong đầu óc của chúng ta chẳng qua là sự phản ánh của các sự vật hiện thực khách
quan, do đó bản thân biện chứng của ý niệm chỉ đơn thuần là sự phản ánh có ý
thức của sự vận động biện chứng của thế giới hiện thực khách quan.Như vậy phép
biện chứng duy vật đã khái quát một cách đúng đắn những quy luật vận động và
sự phát triển chung nhất của thế giới. Vì vậy P.Ăngen đã định nghĩa: “phép biện
chứng…là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát
triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy.”
1.2 Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến

1.2.1 Nội dung nguyên lí về mối liên hệ phổ biến
Phép biện chứng duy vật có vai trò làm sáng tỏ những quy luật của sự liên hệ và
phát triển của tự nhiên, xã hội loài người và của tư duy. Vì vậy ở bất kỳ cấp độ
phát triển nào của phép biện chứng duy vật, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến vẫn
được xem là một trong những nguyên lí có ý nghĩa khái quát nhất. Nguyên lí về
mối liên hệ phổ biến cho rằng các sự vật hiện tượng và các quá trình cấu thành thế
giới đó vừa tách biệt nhau, vừa có sự liên hệ qua lại, thâm nhập và chuyển hoá lẫn
nhau.Trong đó liên hệ là sự tác động qua lại lẫn nhau, là điều kiện tiền đề tồn tại
cho nhau, là sự quy định lẫn nhau, là sự nương tựa lẫn nhau, sự chuyển hoá lẫn
nhau của các mặt, các yéu tố, các thuộc tính cấu thành sự vật, hiện tượng trong thế
giới khách quan. Ngoài ra những người theo quan điểm duy vật biện chứng còn
khẳng định cơ sở của sự liên hệ qua lại giữa các sự vật và hiện tượng chính là tính
thống nhất vật chất của thế giới. Theo quan điểm này, các sự vật, các hiện tượng
trên thế giới dù có đa dạng, có khác nhau như thế nào đi chăng nữa thì chúng cũng
chỉ là những dạng tồn tại khác nhau của một thế giới duy nhất là thế giới vật chất.
Các mối liên hệ diễn ra trong mỗi sự vật, giữa các sự vật với nhau, trong toàn bộ
vũ trụ, trong mọi không gian và thời gian. Quan điểm duy vật biện chứng không
chỉ khẳng định tính khách quan, tính phổ biến của sự liên hệ giữa các sự vật, các
hiện tượng, các quá trình mà nó còc nêu rõ tính đa dạng của sự liên hệ qua lại đó.

4

Tính đa dạng của sự liên hệ do tính đa dạng trong sự tồn tại, sự vận động và phát
triển của chính các sự vật và hiện tượng quy định. Có mối liên hệ bên trong là mối
liên hệ qua lại, là sự tác động lẫn nhau giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, các
thuộc tính, các mặt khác nhau của một sự vật, nó giữ vai trò quyết định đối với sự
tồn tại, vận động và phát triển của sự vật. Có mối liên hệ bên ngoài là mối liên hệ
giữa các sự vật, các hiện tượng khác nhau, nói chung nó không có nghĩa quyết
định, hơn nữa nó thường phải thông qua các mối liên hệ bên trong mà phát huy.
Tuy nhiên mối liên hệ bên ngoài cũng hết sức quan trọng, đôi khi còn giữ vai trò

quyết định. Ngoài ra còn có mối liên hệ chủ yếu, có mối liên hệ thứ yếu, có mối
liên hệ chung bao quát toàn bộ thế giới, có mối liên hệ bao quát một số lĩnh vực
hoặc một số lĩnh vực riêng biệt của thế giới. Có mối liên hệ trực tiếp, có mối liên
hệ gián tiếp mà trong đó sự tác động qua lại được thực hiện thông qua một hay
một số khâu trung gian. Có mối liên hệ bản chất và mối liên hệ không bản chất, có
mối liên hệ tất yếu và mối liên hệ ngẫu nhiên. Có mối liên hệ giữa các sự sự vật
khác nhau, có mối liên hệ khác nhau của cùng một sự vật. Sự vật, hiện tượng nào
cũng vận động và phát triển qua nhiều giai đoạn khác nhau, giữa các giai đoạn đó
cũng có mối liên hệ với nhau tạo thành lịch sử phát triển hiện thực của các sự vật
và các quá trình tương ứng. Quan điểm duy vật biện chứng về sự liên hệ đòi hỏi
phải thừa nhận tính tương đối trong sự phân loại đó. Các loại liên hệ khác nhau có
thể chuyển hoá cho nhau. Sự chuyển hoá đó có thể diễn ra hoặc do thay đổi phạm
vi bao quát khi xem xét hoặc do kết quả vận động khách quan của chính sự vật
hiện tượng ấy.
1.2.2 Ý nghĩa phương pháp luận về mối liên hệ phổ biến
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến xét dưới góc độ thế giới quan thì nó phản ánh
tính thống nhất của vật chất và thế giới. Các sinh vật, hiện tượng trên thế giới dù
có đa dạng, có khác nhau như thế nào chăng nữa thì chúng cũng chỉ là những dạng
khác nhau của một thế giới duy nhất đó là thế giới vật chất. Xét dưới góc độ nhận
thức lí luận, nó là cơ sơ lí luận của quan điểm toàn diện. Với tư cách là một

5

nguyên tắc phương pháp luận trong việc nhận thức các sự vật, hiện tượng, quan
điểm toàn diện đòi hỏi để có nhận thức đúng về sự vật chúng ta cần xem xét nó:
một là : trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, các thuộc tính
khác nhau của chính sự vật đó, hai là : trong mối liên hệ qua lại giữa các sự vật đó
với các sự vật khác, kể cả trực tiếp lẫn gián tiếp. Hơn thế nữa quan điểm toàn diện
đòi hỏi để nhận thức đúng sự vật, chúng ta cần xem xét nó trong mối quan hệ với
nhu cầu thực tiễn của con người. Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải đi từ

tri thức về nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật đến chỗ khái quát để rút ra bản
chất chi phối sự tồn tại và phát triển của sự vật hay hiện tượng đó. Nhưng quan
điểm toàn diện không đồng nhất với cách xem xét dàn trải, liệt kê những quy định
khác nhau của sự vật hay hiện tượng đó, nó đòi hỏi phải làm nổi bật cái cơ bản
nhất, cái quan trọng nhất của sự vật hay hiện tượng đó. Với tư cách là nguyên tắc
phương pháp luận trong hoạt động thực tiễn, nguyên lí về mối liên hệ phổ biến đòi
hỏi để cải tạo được sự vật, chúng ta phải bằng hoạt động thực tiiễn của mình biến
đổi những mối liên hệ nội tại của sự vật cũng như mối liên hệ qua lại giữa sự vật
đó với các sự vật khác. Muốn vậy phải sử dụng đồng bộ nhiều phương pháp, nhiều
phương tiện khác nhau để tac động nhằm thay đổi những liên hệ tương ứng. Để
tránh những phưng pháp luận sai lầm trong việc xem xét sự vật, hoạt động cần
tránh chủ nghĩa chiết trung, thuật nguỵ biện. Mọi sự vật hiện tượng đều tồn tại
trong không gian thời gian nhất định và mang dấu ấn của không gian thời gian đó.
Do đó chúng ta cần có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xet và giải quyết mọi vấn
đề thực tiễn đặt ra.

6


Chương 2 Mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường ở Việt
Nam
2.1 Mối liên hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường
Môi trường sinh thái là toàn bộ các điều kiện vô cơ, hữu cơ của các hệ sinh thái
ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất và mọi hoạt động khác của xã hội loài người.
Nó là những điều kiện tự nhiên, xã hội trong đó con người hay một sinh vật tồn
tại, phát triển trong quan hệ với con người. Còn tăng trưởng kinh tế nhằm cải thiện
và phát triển đời sống của con người. Vì vậy giữa môi trường sinh thái và tăng
trưởng kinh tế có mối liên hệ biện chứng chặt chẽ. Như chúng ta đã biết môi
trường sống được sinh ra và tồn tại trong tự nhiên, vì vậy có thể nói nó tồn tại một
cách khách quan độc lập với ý thức con người. Tuy nhiên sự phát triển của môi

trường lại hoàn toàn phụ thuộc vào ý thức của con người, con người có thể tác
động làm cho môi trường tốt lên hoặc xấu đi. Tăng trưởng kinh tế lại được sinh ra,
tồn tại và phát triển hoàn toàn phụ thuộc vào con người nên nó tồn tại chủ quan.
Môi trường chịu tác động trực tiếp của con người, tăng trưởng kinh tế phụ thuộc
vào con người từ đó ta có thể thấy môi trường cũng chịu tác động của tăng trưởng
kinh tế và ngược lại, mối quan hệ giữa chúng được thông qua một thực thể đó là
con người. Môi trường là địa bàn để tăng trưởng kinh tế hoạt động vì tăng trưởng
kinh tế diễn ra trên diện rộng và cần khai thác tài nguyên thiên nhiên nhằm phục
vụ cho lợi ích của con người. Nhưng tài nguyên của môi trường không phải là vô
hạn. Nếu chỉ tăng trưởng kinh tế mà không nghĩ đến việc cải tạo môi trường thì
một ngày nào đó tăng trưởng kinh tế phải dừng lại do môi trường bị suy thoái. Lúc
đó con người phải gánh chịu hậu quả do chính con người gây ra. Một sản phẩm do
con người tạo ra lại phá huỷ cái mà con người chịu tác động trực tiếp vì con người
không thể sống mà không chịu sự tác động của môi trường. Ngược lại, nếu tăng
trưởng kinh tế gắn với việc bảo vệ môi trường thì không những nó làm cho đời

×