Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Quan điểm Triết học về phật giáo - 3 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.26 KB, 8 trang )


17

Kết quả của hành động ấy gọi là nghiệp báo. Không phải hoạt động nào của ta cũng
gây nghiệp báo. Những việc như : đi, đứng, nhìn, ngồi, thì không gây nghiệp báo.
Nghiệp có hai loại: Nghiệp thiện và nghiệp ác.
Nghiệp thiện : là những việc có lợi cho người và đem lại quả báo tốt cho mình.
Nghiệp ác: là những việc làm hại cho ngươi và đem lại quả báo xấu cho mình.
Như vậy, Phật đặt số mệnh của con người trong chính tay họ. Tự con người đ• gây
nên nỗi khổ cho mình. Do đó, Phật đưa ra lý thuyết thập nhị nhân duyên để thấy
được nguồn gốc của sự vật trong thế gian. 12 nhân duyên là sợi dây liên tục nối tiếp
con người trong vòng sinh tử luân hồi đó là:
1. Vô minh 5. Lục nhập 9. Thù
2. Hành 6. Xác 10. Hữu
3. Thức 7.Thụ 11.Sinh
4. Danh sắc. 8.ái 12. L•o tử.
Tập đế là một chân lý thể hiện tính biểu chứng sâu sắc trong mối quan hệ nhân quả
và đ• tìm tới các nguyên nhân rất đa dạng, phong phú. Các nguyên nhân ấy quan hệ
với nhau, cái nào cũng có thể làm nhân làm duyên cho cái khác, như làn sóng trên
mặt biển, lớp trước là lớp nhân là duyên cho lớp sau và cứ thế tiếp diễn. Nhưng cái
hạn chế của tập đế là chưa đề cập đến nguyên nhân từ x• hội. Đặc biệt là chưa nhắc
tới quan hệ giai cấp, bóc lột trong x• hội. Luận điểm này thể hiện rõ từ trào hướng
nội hướng nội trong nhận thức luận Phật giáo.
c. Diệt đế:
Diệt đế là tích quả Niết bàn do thực hành tịnh nghiệp mà đạo đế mang lại.

18

Diệt đế là trừ diệt sự khổ để đi đến chỗ an lạc là chỗ kết nghiệp đ• hết không còn
luân hồi sinh tử nữa.
Có tịnh nghiệp tất sinh tịnh quả. ấy là khi diệt đế vọng niệm không còn khởi lên,


tâm hồn luôn an trụ trong cảnh vắng lặng là do cảnh giới Niết Bàn.
Niết Bàn có bốn đặc điểm: Thường - Lạc - Ng• - Tịnh.
Thường là thường còn, không biến đổi.
Lạc là an lạc, giải thoát hết phiền n•o, thâm tâm tự tại.
Ng• là chân ng•, chân thực, thường còn.
Tịnh là thanh tịnh, trong sạch không còn ô nhiễm.
Niết Bàn là sự chấm dứt mọi phiền n•o được thực hiện không phải ở một nơi nào
khác, một cõi nào khác mà thực hiện ngay trong cõi thế gian này, nhờ sự tu hành
nghiêm túc mang lại cho ta mọi trạng thái tinh thần đặc biệt: Trạng thái an lạc, siêu
thoát, tịnh diệt.
Phật dạy rằng: khi môn đệ làm cho lòng mình sạch hết tham lam, nóng giận và si
mê thì môn đệ đ• đến được bến giác, tức là cảnh giới Niết Bàn. Do đó, con người
phải dày công tu dưỡng, xoá bỏ được lửa dục, lửa sân, lửa si mê để chứng được
cảnh giới Niết Bàn ngay trong cõi đời hiện tại.
d. Đạo đế:
Đạo đế là con đường, là môn pháp hướng dẫn cho chúng sinh đạt được đến quả giải
thoát, ra khỏi luân hồi sinh tử.
Pháp môn tu dưỡng ra khỏi luân hồi sinh tư rất nhiều, nhưng thường được đề cao là
phương pháp 37 đạo phẩm.
Phương pháp này gồm có:

19

1. Tứ niệm xứ: 4.
2. Tứ chính cần: 4.
3. Tứ như ý túc: 4.
4. Ngũ cân: 5.
5. Ngũ lực: 5.
6. Bát chính đạo: 8.
7. Thất giác : 7.

Trong 37 đạo phẩm, bát chính đạo là quan trọng nhất. Nó là con đường giúp người
ta thoát khỏi phiền n•o, đau khổ đi tới cảnh giới Niết Bàn tự tại, an lạc. Bát chính
đạo gồm có:
1. Chính ngữ : là tu nghiệp thanh tịnh, không phát ra lời nói sai trái.
2. Chính nghiệp: hành động chân chính, mang lại lợi ích cho mọi người.
3. Chính mệnh: sống bằng nghề nghiệp chân chính.
4. Chính tịnh tiến : tiến tới trên con đường đạo, không đi vào các đường tà.
5. Chính niệm: tâm trí luôn luôn nghĩ đến đạo lý vô ng•, diệt trừ những kiến
chấp mê lầm, đoạt trừ những tư tưởng, hành động bất chính.
6. Chính định : Giữ tâm vắng lặng không một vọng niệm khởi lên để trí tuệ
xuất hiện, chứng quả tu đà hoàn.
7. Chính kiến : kết quả của việc sống, tư duy con người phải có ý biến lấy tiêu
biểu là các vị Phật.
8. Chính tư duy: Sau khi có niệm khởi, con người sẽ tư duy, suy nghĩ một cách
chân chính, làm chủ được dòng tư duy.

20

Để đi qua tám con đường trên thì không ngoài ba nguyên tắc: giới, định, tuệ hay còn
gọi là tam học. Các nguyên tắc này có sự liên hệ mật thiết bổ xung cho nhau.
1. Giới học: là cả một thiên luân lý thực hành của Đạo Phật, mục đích để kiềm
chế rồi đi đến diệt lục. Giới gồm những phương tiện để thay đổi lối suy nghĩ, lối
sinh hoạt hàng ngày của con người, hướng con người sống theo đạo, thích hợp với
đạo, tức là luôn hướng về thiện .
Phật chỉ định ra nhiều giới đạo cho người tu hành tại gia, tu xuất gia, cho nam giới,
nữ giới, cho người mới vào đạo và người tu lâu ngày. Người tu hành phải giữ giới
nghiêm túc thì mới định được. Nếu không giữ được tất con người luôn bị vọng
dộng, bị cảnh chuyển, không vào cảnh định được.
2. Định học là đình chỉ mọi tư tưởng xấu ý nghĩa xấu nguyên nhân phát sinh
những hành động xấu đi đến gây nghiệp báo xấu. Định còn là tập trung tư tưởng,

suy nghĩ làm những việc lành, từ đó nảy sinh một trạng thái an lạc, tạo điều kiện
cho tuệ phát ra.
3. Tuệ học : là trí tuệ sáng suốt của người tu hành đ• diệt được dục vọng, đ• diệt
được tam độc là tham, sân, si, đ• thấu được lý vô thường, vô ng• do đó chỉ nghĩ đến
làm điều thiện, mưu lợi cho chúng sinh.
Với pháp tứ diệu đế Phật muốn cho chúng sinh thấy 2 cảnh giới khác nhau là Niết
Bàn và Thân Lụy: một con đường giác ngộ, an lạc và một con đường mê lầm tội lỗi.
Và cùng phương pháp tứ diệu đế, bây giờ chúng ta có thể trả lời được các câu hỏi đ•
đặt ra ở trên.
2. Những quan điểm về nhân sinh quan Phật giáo.
a. Con người:

21

Con người là sự kết hợp của ngũ uẩn( sắc, thụ, tưởng, hành, thức) gồm hai yếu tố
chính: yếu tố sinh lý( sắc) và yếu tố tinh thần ( thụ, tưởng, hành, thức).
Yếu tố tinh thần chỉ phát huy tác dụng khi nó được gắn với một thân thể. Sắc thân
chỉ tồn tại trong một thời gian rồi bị huỷ diệt.
Như vậy, con người chỉ là một giả hợp sinh lý tuân theo quy luật: sinh, tục, dị,
diệt.Con người là do nhân duyên hoà hợp, không có một đấng tối thượng siêu nhiên
tạo ra con người cũng như con người không phải tự nhiên mà sinh ra. Khi nhân
duyên hoà hợp thì con người sinh, khi nhân duyên tan r• thì con người chết. Song
chết chưa phải là hết, linh hồn cũng không bất tử chuyển từ kiếp này sang kiếp
khác. Con người ở kiếp này sinh ra thì con người ở kiếp trước diệt, nhưng con
người ở kiếp sau không phải là con người ở kiếp trước nhưng cũng không khác với
con người ở kiếp trước. Con người không phải là một thực thể trường tồn mà chỉ là
một giả hợp của ngũ uẩn. Trong thời gian ngũ uẩn kết hợp, các việc thiện, ác được
thực hiện. Con người gây nghiệp và tạo ra một động lực làm xuất hiện nghiệp báo ở
kiếp sau.
Từ nhận thức trên, con người tu Phật lúc nào cũng phải cẩn thận trong một ý nghĩ,

lời nói việc làm.
b. Nhân vị trong đạo Phật.
Đạo Phật là đạo chủ trương tự do, bình đẳng, từ bi, bác ái. ở một thời đại cổ xưa
cách chúng ta trên 25 thế kỷ Phật đ• có một quan niệm hết sức tiến bộ đối với vấn
đề bình đẳng trong x• hội. Phật đ• từng nói:

22

“ Không có đẳng cấp trong dòng máu đỏ như nhau, trong dòng nước mắt cũng mặn
như nhau. Mỗi người sinh ra không phải ai cũng mang sẵn dây chuyền ở cổ hay dấu
tica trên trán ( dấu hiệu đẳng cấp của ấn Độ ) ”.
Và những quan niệm đó được Phật thực hiện ngay trong giáo hội của mình. Phật thu
nạp vào giáo hội của Người tất cả mọi đẳng cấp, không phân biệt sang hèn, giàu
nghèo. Những người ở tầng lớp dưới sau khi tu đắc đạo đ• được các đệ tử khác tôn
trọng, cho đến các vua quan khi đến thăm hỏi cũng phải tỏ lòng kính mến.
Không dừng lại ở sự bình đẳng giữa con người với con người mà Phật còn đi xa
hơn, nêu lên sự bình đẳng giữa các chúng sinh đều có Phật tính như nhau và đang
cùng nhau: người trước, vật sau, tiến bước trên con đường giải thoát.
Tự do theo quan niệm của Phật là con người sống trong an lạc, giải thoát, không có
áp bức, nô lệ, cũng không bị chi phối bởi ngũ dục. Con người bị ràng buộc bởi
ngoại cảnh và một phần bởi nội tâm. Những sự áp bức, những day dứt gây ra bởi
dục vọng còn khắc nghiệt bằng vạn ngoại cảnh. Nhà lao, cường quyền, tham
nhũng, tàn ác còn chưa khắc nghiệt bằng cái ta ích kỷ. Từ đó, Phật chú trọng đến
giải phóng con người ra khỏi xiềng xích của dục vọng bằng phương pháp tu hành
diệt dục. Để sống tự do phật tử phải đấu tranh với bản thân mình để diệt trừ dục
vọng và đấu tranh để chống mọi sự áp bức bất công.
Người ta gọi đạo phật là đạo từ bi, người tu hành là người giàu lòng từ bi.
Từ là hiền hoà, cho vui.
Bi là thương xót, cứu khổ.
Từ bi là đen lại an lạc, hạnh phúc cho người khác, cứu khổ, cứu nạn cho chúng sinh,

quên đi mọi ích lợi của bản thân mình. Nhưng từ bi không phải là thủ tiêu mọi sự

23

đấu tranh, giữ thái độ tiêu cực, thụ động trước mọi sự bất công, áp bức, tham nhũng.
Có sức mạnh hung bạo thì phải có sức mạnh của từ bi để chống lại. Sức mạnh đó
thể hiện bằng sự giáo hoá và bằng cả bạo lực, bạo lực từ bi.
Hai chữ từ bi càng đẹp biết bao nhiêu đối với những con người thực tâm tu luyện thì
càng xấu xa bao nhiêu đối với những kẻ lợi dụng đạo để mưu cầu lợi ích cho mình.
Vấn đề giải thoát là vấn đề cơ bản trong đạo Phật vì mục đích cuối cùng của đạo
Phật là giải thoát con người khỏi cuộc sống đau khổ trong vô minh.
Sự giải thoát không chỉ nhằm đấu tranh chống những áp bức về x• hội về kinh tế
như lịch sử Phật giáo đ• chứng minh mà sự giải thoát nhằm tiêu diệt tận gốc mọi
đau khổ là tham lam và dục vọng. Việc giải phóng này là con người phải tự lực đảm
nhiệm, không ai có thể làm thay được và mỗi người phải coi sự giải thoát là cứu
cánh cuối cùng của cuộc đời.
Như vậy, Đạo Phật đ• đặt con người lên một vị trí hết sức quan trọng và cao quý.
Hạnh phúc của con người là do con người xây đắp nên. Con người thấm nhuần giáo
lý Phật, con người vị tha, từ bi, hỉ, xả sẽ kiến lập một x• hội hoà bình, an lạc, công
bằng, mọi người sống vì lợi ích của nhau, của tập thể.
Trái lại, con người ích kỷ chỉ biết mình, hại người, con người sống tàn bạo, độc ác
thì cái gì trong tay con người cũng sẽ trở thành khí cụ sát hại và x• hội của những
con người ấy là x• hội của địa ngục, x• hội áp bức bóc lột.


Chương III
ảnh hưởng của đạo phật đối với xây dựng đời sống con người Việt Nam.

24




Phật giáo du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ I sau công nguyên kết hợp với phong tục,
tập quán truyền thống dân tộc Việt Nam hình thành nên Phật giáo Việt Nam. Trải
qua một khoảng thời gian dài, Phật giáo ở Việt Nam không ngừng phát triển, lớn
mạnh và đ• tạo nên một dấu ấn sâu đậm trong việc hình thành đạo đức, nhân cách
con người Việt Nam, nền văn hoá Việt Nam. Những ảnh hưởng tích cực của Phật
giáo vẫn đang được con người Việt Nam phát huy để phục vụ cuộc sống. Song bên
cạnh đó, Phật giáo cũng có những ảnh hưởng tiêu cực. Trong chương này chúng ta
sẽ đi sâu phân tích các vấn đề trên.
I. Đạo phật với việc hình thành nhân cách con người Việt Nam.
Phật giáo là một tôn giáo, như các tôn giáo khác, Phật giáo cũng gồm có giáo lý và
hoạt động tín ngưỡng. Giáo lý là một hệ thống các quan điểm về thế giới và con
người, về cách thức tu luyện và hoạt động tín ngưỡng, là những hành vi, những nghi
lễ cần phải thực hiện để đạt tới ước nguyện. Cả hai đều có ý nghĩa đối với việc hình
thành nhân cách của các tín đồ.
Hơn lúc nào hết, trong mấy chục năm qua người Phật từ Việt Nam hiện nay rất
chăm lo đến việc thực hiện các nghi lễ của đạo mình. Họ chăm chú lên chùa trong
những ngày sóc, vọng; họ trân trọng và thành kính trong lúc thực hành các nghi lễ;
họ siêng năng trong việc thiền định, giữ giới, làm thiện. Mặt khác, nhà chùa luôn
sẵn sàng thực hiện các yêu cầu của họ như giải oan, cầu siêu. Tất cả những điều đó
vừa củng cố niềm tin vào giáo lý, vừa quy định tư duy và hành động của họ, tạo cơ
sở để hình thành những nhân cách riêng biệt.

×