Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Quan điểm Triết học về phật giáo - 2 ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.05 KB, 8 trang )


9

Nhiều tức là một.
Một là tất cả.
Tất cả là một.
Tóm lại thế giới quan Phật giáo là thế giới quan nhân duyên. Tất cả sự vật có danh
có tướng, có thể nhận thức được, ý niệm được. Cảm giác được hay dùng ngôn ngữ
luận bàn, được đều được Phật gọi là pháp. Các pháp đều thuộc một giới gọi là Pháp
giới. Bản tính của pháp giới là các pháp duyên khởi ra nhau. Tính ấy là tính của
pháp giới nên gọi là pháp giới tính. Do pháp giới tính là bản tính của các pháp nên
gọi là chân, vì vậy pháp giới tính còn gọi là chân như tính.
Giác ngộ được chân như tính thì gọi là tự giác, nhưng thế thì chưa nhận thức đầy
đủ, sâu sắc về pháp giới tính vì vậy các nhà tu hành giác ngộ được bản lai tự tính
còn phải vận dụng pháp giới tính vào nhiều trường hợp khác để thấy được cái dụng
to lớn của pháp giới tính.
Như vậy, người tu hành chỉ khi nào công hạnh giác tha được viên m•n lúc đó mới
chứng thực được toàn thể, toàn dụng của pháp giới tính. Nói một cách khác là
chứng được toàn thể của sự vật gồm cả ba vẻ: thể, tưởng, dụng, chứng được pháp
thân.
II. Nhận thức luận Phật giáo.
1. Bản chất, đối tượng của nhận thức luận.
Bản chất của nhận thức luận Phật giáo là quá trình khai sáng trí tuệ. Còn đối tượng
của nhận thức luận là vạn vật, là mọi hiện tượng, là cả vũ trụ.
Vạn vật là vô thuỷ vô chung, không có sự vật đầu tiên và không có sự vật cuối
cùng. Mọi vật đều liên quan mật thiết đến nhau. Toàn thể dù lớn đến đâu nếu không

10

có quan hệ với hạt bụi thì cũng không thành lập được. Để diễn đạt ý trên, một thiền
sư đ• dùng hai câu thơ:


Càn khôn tận thị mao đầu thượng.
Nhật nguyệt bao hàm giới trí trung.
Có nghĩa là:
Trời đất rút lại đầu lông nhỏ xíu.
Nhật nguyệt nằm trong hạt cải mòng.
Như vậy đạo Phật không phân biệt vật chất và tinh thần vì đó chỉ là hai trạng thái
của tâm, của năng lượng khi ở thể tiềm tàng.
Sau khi đ• tìm hiểu về sự vật, hiện tượng chúng ta sẽ tìm hiểu cái tâm trong đạo
Phật để thấy được quan niệm của đạo Phật về tâm và vật.
Thông thường người ta cho rằng đạo Phật là duy tâm vì trong kinh phật có câu
”Nhất thiết duy tâm tạo “ . Nhưng chữ “ duy tâm “ ở đây không phải là duy tâm
trong triết học Tây Phương nên ta không thể nhận định như trên. Chữ tâm trong đạo
Phật có nghĩa là một năng lượng, nó làm bản thể cho tất cả mọi hiện tượng tâm lý,
cho mọi hiện hành. Bản thể là cái chất, là cội gốc của vạn vật. Khi ta phân tích, chia
chẻ một vật đến một phần tử nhỏ nhiệm nhất, đến phần cuối cùng thì phần tử ấy là
bản thể mà ở đây cũng có vật có chất nên đâu đâu cũng thấy có bản thể, vì vậy tâm
cũng lại là to lớn vô biên.
Những tình cảm, ý thức phát sinh phải nương vào hiện tượng sinh lý, vật lý. Nói
nương nhau để phát sinh chứ không phải các hiện tượng sinh lý, vật lý sinh ra các
hiện tượng tâm lý.

11

Hiểu như vậy thì thấy rõ không phải tâm sinh vật hay vật sinh tâm. Những hiện
tượng sinh lý vật lý và những hiện tượng tâm lý ấy chỉ tương sinh tương thành.
2. Quy trình, con đường và phương pháp nhận thức.
Sự nhận thức phát triển theo hai con đường tư trào: Hường nội và hướng ngoại.
Phật giáo thường quan tâm đến tư trào hướng nội tức là mỗi người tự chiêm nghiệm
suy nghĩ của bản thân. Có hai phương pháp để nhận thức là :
 Tiệm ngộ : là sự giác ngộ, nhận thức một các dần dần, có tính chất là “ trí

hữu sư”.
 Đốn ngộ : là sự giác ngộ bột phát, bùng nổ có tính chất là “ trí vô sư “.
Với hai phương pháp ấy sự nhận thức Phật giáo được chia làm hai gia đoạn:
Giai đoạn một là từ tuỳ giác đến thể nhập. Nhận thức bắt đầu từ cảm giác và phụ
thuộc vào cảm giác đưa lại. Kết quả là con người biết được cái tiếp xúc giữa thế
giới khách quan và giác quan của con người và từ sự tiếp xúc này tạo nên yếu tố”
thọ “ trong ngũ uẩn. Theo nhà Phật nói chữ thọ ở đây là sự tiếp xúc của sáu căn với
sáu trần tạo nên yếu tố thọ. Căn cứ ở đây là những khả năng nhận thức của các giác
quan. Trần là loại kích thích từ thế giới bên ngoài. Nếu kích thích tương ứng với các
căn thì con người có cảm giác. Sáu căn là : nhăn, nhỉ, tù, thiệt, thân, ý. Sáu trần là:
sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. “ Thọ”, cho chúng ta nhận biết được những hiện
tượng riêng lẻ, những cái bề ngoài, ngẫu nhiên. Trong một số trường hợp khác gọi
đó là kinh nghiệm. Từ những tri thức cảm tính kinh nghiệm nêu trên, con người sẽ
đi sâu để nhập vào bản thể của sự vật để biết được cái bên trong, bản chất đó là tri
thức định lý.

12

Giai đoạn hai sự nhận thức đi từ cái tâm tại đến cái tâm siêu thể. Từ kết quả của giai
đoạn trước , con người bắt được cái tâm tính của những sự vật hữu hình tái thế và
đặc biệt là cái tâm ở trong mỗi con người và nâng lên để nắm được cái tâm siêu
thoát, cái tâm trung.
Để đạt được sự nhận thức đó thì có nhiều phương pháp song hai phương pháp sau:
Tam học và Tam huệ là chủ yếu.
Tam học là giới, định, tuệ.
 Giới: Gồm có nhứng phương tiện để thay đổi lối suy nghĩ, lối sinh hoạt hàng
ngày của con người sống theo đạo, thích hợp với đạo là luôn hướng về thiện.
 Định: là đình chỉ mọi tư tưởng xấu, ý nghĩ xấu và còn là tập trung tư tưởng
suy nghĩ để làm mọi việc yên lành.
 Tuệ: là trí tụê sáng suốt, đ• thấu được lý vô thường, vô ng•, do đó chỉ nghĩ

đến làm việc thiện, mưu lợi cho chúng sinh.
 Tam huệ: là văn, tu, tư.
Văn: là nghe pháp phật, hiểu rõ ý nghĩa, quan niệm được bản tính thanh tịnh, sáng
suốt của mình, do đó mà có một lòng tin vững chắc nơi Phật pháp.
Tư : là suy nghĩ về các pháp Phật đ• nghe được, học được đi đến giác ngộ bản lai tư
tính của mình.
Tu: là nương theo trí tuệ, bắt đầu trực nhận được bản tính chân như, mà tụ tập gột
rửa những thói quen mà lầm từ nhiều kiếp để lại đi đến nhập với một pháp giới tính.
Các phương pháp trên đ• phá tan các kiến chấp sai lầm chấp ng•, chấp pháp để đi
đến trung đạo và nhận rõ trung đạo là chẳng có, chẳng không. Với nhận thức như

13

thế, người tu hành sẽ được sống trong sự giải thoát, sinh tử luân hồi sẽ không còn
nữa.
III. Nhân sinh quan Phật giáo.
Từ một vũ trụ quan căn cứ trên những thuyết nhân duyên sinh, thuyết sự vật duyên
khởi đi đến nhận thức là vô thủy, vô chung, từ những thuyết vô thường, vô ng• bây
giờ chúng ta sẽ tìm hiểu về những quan niệm của Đạo Phật về vấn đề nhân sinh
quan. ở đây chúng ta sẽ lần lượt trả lời các câu hỏi:
– Con người là gì ? Từ đâu mà sinh ra? Chết rồi đi đâu ?
Vị trí của con người trong Đạo Phật.
– Quan niệm của Phật về các vấn đề:bình đẳng, tự do, dân chủ
– Có phải cuộc sống chỉ toàn là đau khổ ? và vấn đề giải thoát trong Đạo Phật
là gì ?
Trước khi trả lời các câu hỏi trên chúng ta sẽ tìm hiểu và phân tích Tứ diệu đế vì
đây là giáo lý kinh điển của Phật giáo bao quát toàn bộ các vấn đề trên.
1. Tứ diệu đế:
Tứ diệu đế hay còn gọi là tứ chân đế hay tứ thánh đế, là bài thuyết pháp đầu tiên của
Phật sau khi thành đạo tại vườn Lộc gi• cho năm từ khưu trước kia đi theo Phật.

Tứ đế là đạo lý căn bản của Thanh Văn Thừa, đồng thời cũng là cơ sở của các
thuyết khác trong giáo lý Phật.
Tứ đế gồm có: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế.
a. Khổ đế:
Trong tứ đế, Phật đưa ra đầu tiên vấn đề khổ, rồi giảng cho ta thấy vì sao mà khổ ,
phương pháp diệt khổ và con đường đi đến diệt khổ.

14

Nói như thế có người hiểu lầm cho rằng đạo Phật chủ trương cuộc đời chỉ toàn là
khổ, và đạo Phật là đạo yếm thế. Thực ra, đạo Phật nhìn cuộc đời một cách khách
quan, không ru người ta vào một giấc mơ Niết Bàn hay cực lạc và cũng không làm
cho người ta sợ h•i, chán nản bởi những đau khổ trong cuộc sống. Phật chỉ cho
chúng ta nhận thức sự vật, cuộc đời theo chân tướng của nó và chỉ dẫn cho chúng ta
đi đến giải thoát.
Danh từ Dukkha của tiếng Xantít ta thường dịch là khổ là chưa thật hết nghĩa nên
mới dẫn đến những hiểu lầm trên.
Trong phép tướng duy thức có nói đến ba loại thụ: khổ thụ, lạc thụ, xả thụ. Như vậy
không phải chỉ có khổ thụ mà còn có lạc thụ. Đối với cảnh nghịch sinh ra khổ thụ
nhưng đối với cảnh thuận thì sinh ra lạc thú. Các cảnh có thể làm cho người ta vui
hoặc khổ hoặc không vui, không khổ. Đạo phật không phủ nhận những cảm giác vui
(lạc thú ) của cuộc đời mà còn phân tích ra nhiều hình thức vui. Nhưng những cái
vui ấy, cũng như những cái khổ ấy đều bao gồm trong danh từ Dukkha, vì những
cái vui, cũng như những cái khổ ấy đều là vô thường hư giả.
Dù người tu hành chứng được những trạng thái thiền định cao siêu thì những lạc thú
siêu thoát ấy vẫn là Dukkha vì những người tu hành ấy chưa thoát khỏi tam giới vô
thường, hư giả.
Khổ thụ và lạc thụ đều là Dukkha cả, do đó chúng ta phải diệt là diệt cái Dukkha ấy
chứ không phải là tránh khổ, tìm vui như thế gian thường hiểu, thường lầm.
Theo cách phân tích khác Phật chia cái khổ ra làm 8 loại:

1, Sinh khổ: Đ• có sinh là có khổ vì đ• sinh nhất định có diệt, bị luật vô thường chi
phối nên khổ.

15

2, L•o khổ: người ta mong muốn trẻ m•i nhưng cái già theo thời gian vẫn cứ đến.
Cái già vào mắt thì mắt bị mờ đi, cái già vào lỗ tai thì tai bị điếc, vào da, xương tủy
thì da nhăn nheo, xương tủy mệt mỏi. Cái già tiến đến đâu thì suy yếu đến ấy làm
cho người ta phiền n•o.
3, Bệnh Khổ: Trong cuộc sống, thân thể thường ốm đau, nhất là khi già yếu, thân
thể suy nhược, bệnh tật dễ hoành hành làm cho người ta đau khổ.
4, Tử khổ : Là cái khổ khi người ta chết. Chứng sinh do nghiệp báo chịu cái thân
nào thì gắn bó với cái thân ấy coi như cái thân duy nhất của mình thì khi chết thì
phiền n•o vô cùng.
5, Cầu bất đắc khổ: Người ta thường chạy theo những điều mình ưa thích, mong cầu
hết cái này đến cái khác. Khi chưa cầu được thì phiền n•o, khi cầu được rồi thì phải
lo giữ nó, nếu nó mất đi thì lại luyến tiếc.
6, ái biệt ly khổ: nỗi khổ khi phải chia ly.
7, Oán tăng hội khổ: những điều mình chán ghét thì nó cứ tiến đến bên mình.
8, Ngũ ấm xí thịnh khổ: ngũ ấm ấy là sắc ấm, thụ ấm, tưởng ấm, hành ấm, thức ấm.
Ngũ ấm ấy che lấp trí tuệ, phải chịu cái khổ luân hồi trong vô lượng kiếp.
b. Tập đế:
Tập đế còn gọi là nhân đế, là những nguyên nhân tạo thành sự khổ. Những
nguyên nhân đó không phải tìm đâu xa mà ở ngay trong mỗi chúng ta. Nguyên nhân
thì có nhiều nhưng có thể tóm lại như sau:
1. Tham lam.
2. Giận dữ.
3. Si mê.

16


4. Kiêu mạn.
5. Nghi ngờ.
6. Thân kiến ( tưởng thân thể là thực có là trường tồn).
7. Biên kiến ( sự hiểu biết một mặt như chấp đoạn, chấp thưởng ).
8. Tà kiến ( sự hiểu biết không đúng ).
9. Kiến thử ( chấp trí hiểu biết của riêng mình là đúng).
10. Giới cấm tu ( tu hành không chính đạo ).
Ba nguyên nhân chính ( tham, sân, si) Phật còn gọi là tam độc, là nguồn gốc của
mọi sự khổ. Nguyên nhân của tam độc là do ái dục và vô minh được thể hiện trong
công thức sau:
Nghiệp
ái dục + Vô minh ––––> Sự khổ.
ái dục: là tham ái, yêu thích do cảm thụ đi đến suy đắm trước những cảnh yêu thích,
vừa lòng, chán ghét cảnh trái ý. Vì say đắm với những cảnh nên rong ruổi theo
cảnh, bám lấy cảnh hình thành nên tham vọng và ước muốn.
Vô minh: là mê lầm, không sáng suốt. Đối với những hiện tượng trụ không nhận rõ
chân tướng, thực tướng của nó là sự chuyển biến không ngừng, là vô thường mà lại
lầm tưởng các hiện tượng đó là thực có, là thường còn. Vô minh che lấp ta không
nhận thấy được chân tâm mà luôn luôn chạy theo vọng tâm, làm ta thấy có thân, có
cảnh, có ta, có người của ta và thấy quý thân ta, không quan tâm đến người sống
quanh ta.
Nghiệp là những hoạt động về thân thể, về lời nói ý nên Phật gọi là thân nghiệp,
khẩu nghiệp và ý nghiệp.

×