Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Đọc hiểu đoạn trích "Hồi trống Cổ Thành" pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.18 KB, 31 trang )

Đọc hiểu đoạn trích "Hồi trống Cổ Thành"


1. Thể loại

Tam quốc diễn nghĩa thuộc loại tiểu thuyết chương hồi, có
nguồn gốc từ Trung Quốc xa xưa – dựa trên đề cương,
bản ghi chép để nghệ nhân dân gian dựa vào đó kể
chuyện.

2. Tác giả

La Quán Trung 1400 ?) là nhà văn Trung Quốc, tên là La
Bản, tự Quán Trung,(1330 ?- hiệu Hồ Hải tản nhân,
người Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây, sống vào khoảng cuối
Nguyên đầu Minh. Ông là người có nguyện vọng phò vua
giúp nước, nhưng bất đắc chí, bôn tẩu phiêu bạt khắp nơi,
tính tình cô độc lẻ loi. Có tài liệu nói ông từng làm mưu sĩ
của Trương Sĩ Thành, một người khởi nghĩa chống
Nguyên. Khi Minh Thái Tổ thống nhất Trung Quốc, ông
chuyển sang biên soạn dã sử. Tam quốc diễn nghĩa có lẽ
được ông viết vào lúc này. Ngoài Tam quốc diễn nghĩa,
ông còn viết Tuỳ Đường lưỡng triều chí truyện, Tấn
Đường ngũ đại sử diễn nghĩa, Bình yêu truyện và vở tạp
kịch Tống Thái Tổ long hổ phong vân hội.

đặcVới tác phẩm của mình biệt là Tam quốc diễn nghĩa,
La Quán Trung trở thành người mở đường cho tiểu thuyết
lịch sử Trung Hoa.

3. Tác phẩm



Tam quốc diễn nghĩa là tiểu thuyết lịch sử viết theo kiểu
chương hồi của nhà văn La Quán Trung. Tác giả dựa vào
sử sách, vào truyền thuyết và truyện dân gian, kết hợp với
tài năng sáng tạo của mình để hoàn thành tác phẩm. Tam
quốc có nhiều bản ; bản 120 hồi lưu hành rộng rãi cho đến
ngày nay là do cha con nhà phê bình Mao Tôn Cương đời
Thanh chỉnh lí. Tam quốc kể về quá trình hình thành, phát
triển, diệt vong của ba tập đoàn phong kiến chủ yếu thời
Tam quốc là Tào Nguỵ, Lưu Thục và Tôn Ngô trong thời
gian năm các tập đoàn phong kiến hợp sức tiêu diệt
khởi97 năm, từ 184 đến 280, nhà Tấn thống nhất Trung
Quốc. Vàonghĩa nông dân "Khăn vàng" thời Linh Đế nhà
Hán, vương triều thối nát, kỉ cương rối bời. Bên ngoài,
khởi nghĩa nông dân "Khăn vàng" nổi lên, tập hợp tới ba
mươi vạn người tham gia. Bên trong, triều đình hỗn loạn,
bè đảng xâu xé, chém giết lẫn nhau. Ngoại thích Hà Tiến
cho vời Đổng Trác ở Lũng Tây đưa quân vào Kinh đô để
chống lại hoạn quan. Hoạn quan bị diệt, song Đổng Trác
lại thao túng triều đình, bỏ vua cũ lập vua mới. Lấy cớ bảo
vệ nhà Hán, quân phiệt các nơi chiêu binh mãi mã, tập
hợp lực lượng. Một mặt họ hợp sức tiêu diệt khởi nghĩa
"Khăn vàng", mặt khác lăm le kéo quân vào kinh đô để trừ
loạn trong triều. Bắc có Lưu Biểu, Viên Thuật, Viên Thiệu,
Tào Tháo ; Nam có Tôn Sách, Tôn Quyền ; Tây có Lưu Bị.
Dần dà Tào Tháo thôn tính xong các tập đoàn phương
Bắc, làm chủ Trung Nguyên. Năm 208, Tào Tháo kéo
quân về Nam định thôn tính Tôn Ngô, thống nhất Trung
Quốc nhưng Tôn Quyền đã phối hợp với Lưu Bị đánh tan
Tào Tháo ở Xích Bích. Từ đó hình thành thế chân vạc :

Nguỵ, Thục, Ngô. Cũng từ đó diễn ra cuộc chiến tranh khi
căng thẳng, khi ôn hoà giữa ba tập đoàn phong kiến về
quân sự, chính trị và ngoại giao. Phía Tào Nguỵ nắm
được vua nhà Hán, uy thế ngày một lớn, cất quân đánh
Tôn Ngô mấy lần nhưng không thành, lại đánh nhau với
Lưu Thục, nhưng sự nghiệp dở dang thì Tào Tháo ốm
chết. Con thứ là Tào Phi phế Hán lập Nguỵ. Quyền bính
dần dần rơi vào tay Thừa tướng Tư Mã Ý. Phía Lưu Thục,
từ sau trận Xích Bích, mới mượn được đất Kinh Châu của
Tôn Ngô rồi dần dần lấy được một số quận huyện khác.
Nhờ các võ tướng Quan Công, Trương Phi, Triệu Vân và
các mưu sĩ Khổng Minh, Bàng Thống giúp nên đất đai
ngày một mở rộng, thế lực ngày một phát triển. Khi Quan
Công bị Tôn Ngô bắt giết, Lưu Bị cất quân báo thù nhưng
việc chưa thành thì ốm chết. Con là Lưu Thiện kế vị.
Khổng Minh phụ chính, bảy lần cất quân thu phục Mạnh
Hoạch, một tù trưởng ở Tây nam và sáu lần ra Kì Sơn
chặn đứng thế nam tiến của quân Nguỵ. Sau khi Khổng
Minh chết, Lưu Thục dần suy. Văn có Tưởng Uyển rồi Phí
Vĩ, võ có Khương Duy, nhưng chủ trương không thống
nhất. Năm 263, quân Nguỵ tràn xuống thì Lưu Thiện đầu
hàng. Phía Đông Ngô nhờ địa thế hiểm trở nên Tôn Kiên
rồi con là Tôn Sách và em Sách là Tôn Quyền kế tiếp
nhau làm vua. Văn có Gia Cát Cẩn, Lỗ Túc ; võ có Chu
Du, Lục Tốn,… phù trợ. Sau khi Tôn Quyền chết, nội bộ
lục đục mãi. Đến 279, Tư Mã Viêm (cháu Tư Mã Ý) đem
đại quân xuống thì Tôn Hạo đầu hàng. Tư Mã Viêm lập ra
nhà Tấn (208), chấm dứt thế chân vạc và thống nhất
Trung Quốc (Theo Từ điển văn học, NXB Thế giới, 2004).


4. Tóm tắt

Đoạn trích Hồi trống Cổ Thành thuộc hồi 28. Quan Công
đưa hai chị sang Nhữ Nam. Kéo quân đến Cổ Thành thì
nghe nói Trương Phi đang ở đó. Quan Công mừng rỡ sai
Tôn Càn vào thành báo Trương Phi ra đón hai chị.

Trương Phi khi ấy đang tức giận, nghe tin báo liền sai
quân lính mở cổng thành, rồi một mình một ngựa vác bát
xà mâu lao đến đòi giết Quan Công. Quan Công bị bất
ngờ nhưng rất may tránh kịp nên không mất mạng. Đang
nóng giận, Trương Phi nhất quyết không chịu ghi nhận
lòng trung của Quan Công dù cả hai vị phu nhân đã hết lời
thanh minh sự thật.

Giữa lúc đang bối rối thì đột nhiên ở đằng xa, Sái Dương
mang Quân Tào đuổi tới. Trương Phi càng thêm tức giận,
buộc Vân Trường phải lấy đầu ngay tên tướng đó để
chứng thực lòng trung. Quan Công không nói một lời, múa
long đao xô lại. Chưa đứt một hồi trống giục, đầu Sái
Dương đã lăn dưới đất. Bấy giờ, Phi mới tin anh là thực.
Phi mời hai chị vào thành rồi cúi đầu sụp lạy xin lỗi Quan
Công.

5. Đọc hiểu

Bên cạnh kho tàng văn học dân gian rất đồ sộ với tác
phẩm Kinh Thi nổi tiếng, nhân dân Trung Quốc còn rất tự
hào với hai đỉnh cao chói lọi là thơ Đường và tiểu thuyết
Minh – Thanh là giai đoạn phát triển cuối cùng của

vănThanh. Văn học Minh học cổ điển Trung Quốc. Đây
là thời kì nền văn học Trung Quốc khá đa dạng, phong
phú và đạt nhiều thành công về mặt nghệ thuật. Trong đó
có sự lên ngôi đầy vẻ vang của tiểu thuyết. Tiểu thuyết cổ
điển Trung Quốc là một loại truyện dài, được kể thành
chương hồi và theo trật tự trước Thanh khácsau của sự
việc. Khái niệm tiểu thuyết trong văn học Minh với tiểu
thuyết hiện đại sử dụng ngày nay. Có thể kể đến những
đỉnh cao Thanh đã rất quen thuộc với chúng tatiêu biểu
của tiểu thuyết Minh ngày nay như Tây du kí, Nho lâm
ngoại sử, Thuỷ hử truyện, Tam quốc diễn nghĩa, Hồng lâu
mộng… Trong đó, Tam quốc diễn nghĩa là tác phẩm phản
ánh một thời kì dài và đầy biến động của lịch sử Trung
Quốc, đó là thời Tam quốc. La Quán Trung viết tác phẩm
này dựa trên ba nguồn tư liệu chính là sử liệu (cuốn sử
biên niên Tam quốc chí của Trần Thọ đời Tấn và cuốn
Tam quốc chí của Bùi Tùng Chi người Nam Bắc triều) ; dã
sử, truyền thuyết trong dân gian ; tạp kịch, thoại bản đời
Nguyên (cuốn Tam quốc chí bình thoại). Vì thế tác phẩm
vừa là một thiên sử kí, vừa là một tác phẩm văn học có
giá trị nghệ thuật.

Qua việc kể lại những câu chuyện về cuộc chiến tranh cát
cứ giữa ba tập đoàn phong kiến Nguỵ, Thục, Ngô, bằng
nhãn quan chính trị của mình, La Quán Trung đã bày tỏ
khát vọng về một xã hội công bằng, ổn định với vua hiền
tướng giỏi, nhân dân ấm no. Mặc dù, lấy đề tài từ những
câu chuyện lịch sử đã lùi sâu vào quá khứ nhưng tác giả
đã khắc hoạ một thế giới nhân vật sinh động trong những
mối quan hệ rất chặt chẽ, với đủ những nét tính cách khác

nhau. Không một nhân vật nào trùng lặp nhân vật nào
trong thế giới hàng nghìn nhân vật ấy. Đoạn trích Hồi
trống Cổ Thành đã phần nào bộc lộ một trong những nét
tính cách tiêu biểu của hai nhân vật xuất hiện khá nhiều
trong tác phẩm là Quan Vân Trường và Trương Phi. Đoạn
trích rất ngắn so với sự đồ sộ của tác phẩm nhưng cũng
đã thể hiện được một đặc trưng bút pháp nghệ thuật của
La Quán Trung cũng như đặc điểm chung của tiểu thuyết
cổ điển Minh – Thanh.

Đoạn trích Hồi trống Cổ Thành có kết cấu hoàn chỉnh và
đầy kịch tính. Đây là một đặc điểm trong nghệ thuật trần
thuật của tiểu thuyết cổ điển, mỗi chương hồi thường là
một câu chuyện có giới thiệu, mở mối, mở nút và thắt nút
như kết cấu một vở kịch. Sau khi giới thiệu nhân vật và sự
việc thì mở ra mâu thuẫn, rồi mâu thuẫn được đẩy lên
đỉnh điểm rồi được giải quyết bằng một hành động nào
đó. Trong đoạn Hồi trống Cổ Thành, mở đầu tác giả giới
thiệu việc Quan Công đang trên đường tìm về Nhữ Nam
gặp Lưu Bị, ngang qua Cổ Thành biết được Trương Phi ở
đó bèn đưa hai chị dâu vào. Đồng thời tác giả cũng giới
thiệu cảnh ngộ của Trương Phi. Mâu thuẫn bắt đầu khi
Trương Phi nghe tin Quan Công đến, vác xà mâu, lao
ngựa ra đánh Quan Công, và được đẩy lên cao hơn khi
quân mã Sái Dương xuất hiện. Là câu chuyện đậm màu
chiến trận nên mọi mâu thuẫn giữa các nhân vật đều
được giải quyết bằng hành động. Mâu thuẫn giữa Quan
Công và Trương Phi xuất phát từ sự hiểu lầm của Trương
Phi nhưng cũng được giải quyết bằng hành động. Hành
động chém đầu tướng giặc. Mâu thuẫn chỉ được giải

quyết khi đầu Sái Dương rơi xuống đất, còn mọi lời giải
thích đều không có ý nghĩa gì. Về mặt nội dung, đoạn trích
là một câu chuyện hoàn chỉnh, đặc điểm này giúp cho việc
nắm bắt nội dung dễ dàng hơn. Mỗi hồi của tiểu thuyết
chương hồi thường giải quyết hoàn chỉnh một mâu thuẫn
hoặc hoàn thành diễn biến một sự kiện, đồng thời lại mở
ra một câu chuyện mới tạo nên phần nối kết với hồi sau.
Vì thế kết thúc mỗi hồi bao giờ cũng có câu : "muốn biết
sự việc thế nào xem hồi sau sẽ rõ". Mỗi hồi đều được kết
thúc khi mâu thuẫn đang ở cao trào là một kiểu tạo sức
hấp dẫn của nghệ thuật kể chuyện trong tiểu thuyết cổ
điển.

Vốn là những truyện kể dân gian được sưu tầm và ghi
chép lại nên phương thức trần thuật của Tam quốc diễn
nghĩa mang đặc điểm truyện kể rất rõ. Truyện được kể
theo trật tự thời gian trước sau của sự việc. Nếu sự việc
xảy ra đồng thời hoặc muốn chuyển từ nhân vật này sang
nhân vật khác thì dùng từ chuyển "lại nói". Truyện kể ít
quan tâm đến diễn biến tâm lí và suy nghĩ nội tâm của
nhân vật. Tính cách nhân vật được bộc lộ qua hành động
và cử chỉ. Tác giả ít xen vào lời giới thiệu hoặc bình luận.
Nếu bình luận một trận đánh hoặc một sự việc, hành động
nào đó của nhân vật thì tác giả trích một bài thơ, một bài
vịnh nào đó của người đời sau. Và tên mỗi chương bao
giờ cũng là câu văn đối ngẫu tóm tắt sự việc chính xảy ra
trong hồi đó. Nội dung của câu chuyện Hồi trống Cổ
Thành được tóm tắt trong câu : "Chém Sái Dương anh em
hoà giải ; Hồi Cổ Thành tôi chúa đoàn viên". Đoạn trích
này đã thể hiện khá rõ những đặc sắc nghệ thuật trần

thuật và nghệ thuật xây dựng nhân vật của Tam quốc diễn
nghĩa. Những nét tính cách không thường nổi bật trong
tác phẩm của hai nhân vật Quan Công và Trương Phi đã
được thể hiện trong đoạn trích. Quan Công vốn rất tự phụ,
ít khi nhún nhường ai, nhưng trong trường hợp đặc biệt
này, trước cơn giận của Trương Phi, lại rất nhũn nhặn,
mềm mỏng. Ở đây hiện lên một Quan Công oai hùng
trong tư thế chém đầu tướng giặc nhưng cũng lại là một
người anh chín chắn, đúng mực. Còn Trương Phi tính tình
vốn xốc nổi, đơn giản nhưng mối nghi ngờ đã làm cho vị
anh hùng này thận trọng hơn. Đó là những nét tính cách
khác tạo nên sự đa chiều trong nghệ thuật xây dựng tính
cách nhân vật của tác giả. Dù thế nào thì mỗi nhân vật
của Tam quốc diễn nghĩa vẫn có một tính cách đặc trưng
rất cá tính, không thể trộn lẫn vào đâu được. Đoạn trích
này ca ngợi tài năng phi thường của Quan Công, lòng dạ
thẳng ngay của Trương Phi và trên hết là lòng trung nghĩa
sắt son của cả hai người.

Trương Phi nổi tiếng là người ngay thẳng, nóng nảy và
trung thực. Nên mọi lí lẽ với Trương Phi đều không có sức
thuyết phục. Người như Trương Phi không bao giờ chấp
nhận và cũng khó có thể hiểu được những uẩn khúc trong
việc Quan Công về ở với Tào Tháo. Vì thế khi nghe tin
Quan Công đến Cổ Thành, Trương Phi đã phản ứng rất
quyết liệt : "Phi nghe xong, chẳng nói chẳng rằng, lập tức
mặc áo giáp, vác mâu lên ngựa…". Nhìn thấy Quan Công
thì không thèm nói một lời, "Trương Phi mắt trợn tròn xoe,
râu hùm vểnh ngược, hò hét như sấm, múa xà mâu chạy
lại đâm Quan Công". Không có lời bình luận, không miêu

tả tâm lí nhân vật nhưng tính nóng nảy và sự tức giận của
Trương Phi được thể hiện rất rõ qua hành động, nét mặt,
lời nói. Phản ứng của Trương Phi thể hiện tính trung thực,
yêu ghét rõ ràng. Lời thanh minh của Quan Công, lời giải
thích của Cam phu nhân, Mi phu nhân đều chỉ như dầu đổ
vào lửa. Trương Phi không thích nghe lí lẽ, chỉ tin vào
những điều mắt trông thấy. Cơn giận đang ngùn ngụt lại
trông thấy quân mã kéo tới. Cơn giận của Trương Phi
được đẩy lên đỉnh điểm "múa bát xà mâu hăm hở xông lại
đâm Quan Công". Nhân vật của tiểu thuyết cổ điển tuy có
tính cách rất rõ nét nhưng vẫn mang tính ước lệ của văn
học trung đại. Vì vậy, hành động của nhân vật bao giờ
cũng minh hoạ cho tính cách và tư tưởng giai cấp chứ
không nhất thiết tuân theo lôgic tâm lí. Tình nghĩa anh em
thuở hàn vi sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu ai đó bị nghi ngờ
là phản bội. Chỉ có lí tưởng trung nghĩa là nguyên tắc ứng
xử duy nhất. Và mọi mâu thuẫn chỉ được giải quyết trên
cơ sở lợi ích cộng đồng. Anh em Quan, Trương đoàn tụ
khi đầu Sái Dương rơi xuống đất. Trương Phi thẳng tay
đánh trống giục giã Quan Vũ và "rỏ nước mắt thụp lạy
Vân Trường" khi nỗi nghi ngờ được giải toả. Việc Trương
Phi buộc Quan Công phải chém đầu Sái Dương trong ba
hồi trống thể hiện một thái độ dứt khoát và cương quyết,
đây cũng là chi tiết đậm màu sắc Tam quốc nhất. Trương
Phi biết rõ tài năng của Quan Công, Quan Công từng
chém rơi đầu Hoa Hùng, một viên tướng giỏi và trở về
doanh trại mà chén rượu vẫn còn nóng. Việc Quan Công
chém được Sái Dương không phải là việc khó nhưng lại
rất có ý nghĩa bởi đó là cách duy nhất để Quan Công minh
oan. Sự minh oan cũng không mấy khó khăn nhưng nó

thể hiện thái độ dứt khoát và trắng đen rõ ràng của
Trương Phi. Tác giả đã tạo nên một tình huống rất đặc

×