Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Luận văn : KHẢO SÁT ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC VÀ CHU TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA LOÀI TẦM GỬI Macrosolen cochinchinensis TRÊN CÂY CAO SU (Hevea brasiliensis) part 3 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (607.52 KB, 10 trang )

11
Có khoảng 60-68 giống và 700-950 loài ở vùng nhiệt đới và vùng cận nhiệt
đới. Một vài loài bao gồm Macrosolen conchinchinensis, Scurrula parusitica và
nhiều loài của Taxillus có đặc tính chữa bệnh. Một vài loài, đặc biệt là Scurrula
parasticia và cùng họ với nó có thể là một thực vật ký sinh gây rắc rối nặng cho cây
ăn trái và những cây rừng khác [10].
Có nhiều loại tầm gửi, theo các nhà nghiên cứu thì có 3 loại tầm gửi chính
đƣợc mô tả nhƣ sau [10]:
1) Loại chỉ sống trên một loài cây chủ nhất định nhƣ cây tầm gửi càng cua
(Viscum articulatum): có cành dẹt, chia đốt nhƣ càng cua, chỉ sống trên cây sau sau
(Liquidambar formosana).
2) Loại sống đƣợc trên nhiều cây chủ khác nhau: nhƣ tầm gửi cây sến (Elytranthe
tricolos), thƣờng dùng để bó gãy xƣơng, có thể mọc đƣợc cả trên cây dâu tằm
(Morus alba).
3) Loại cùng trên một cây chủ, có thể có nhiều loài tầm gửi mọc ký sinh lấy từ
tầm gửi cây dâu (chữa đau lƣng, an thai), gồm nhiều loài, ở Trung Quốc có
Loranthus parasiticus; thuộc loại này ở Việt Nam có Scurrula grucilifolia và
Loranthus estipitatus, cành non màu vàng, lá mọc đối, hình trái xoan, dày và cứng,
cụm hoa hình xin, mọc ở kẻ lá, hoa lƣỡng tính, có cả đài và tràng, quả mọng hình
trứng, kí sinh trên cây dâu và một số cây khác nhƣ cây trúc đào.
Hầu hết các loài tầm gửi đều sống bán ký sinh trên những cây khác ngoại trừ
ba loài sống trên mặt đất là Nuytsia floribunda – cây giáng sinh của Australia,
Atkinsonia ligustrina – một loài cây bụi rất hiếm của dãy núi Blue tại Australia và
một loài ở Nam Mỹ là Gaiadendron punctatum [29].









12

Hình 2.3. Loài Nuytsia floribunda [30]



Hình 2.4. Loài Atkinsonia ligustrina [31]
Hình 2.5. Loài Gaiadendron punctatum [32]






13
Bảng 2.3. Phân loại họ tầm gửi Loranthaceae ở Việt nam [5]
1a – Cây không lá
2a – lóng của một nhánh dẹp trong một mặt phẳng, hoa 3 – phân, có lông bao
quanh
Korthalsella
2b – lóng của một nhánh dẹp theo hai phẳng thẳng góc nhau, hoa 4 – phân, có lá
hoa Viscum
1b – Cây có lá
2a – hoa đơn phái, không dài hơn 4 mm
3a – tai hoa giống nhƣ cánh hoa, trắng hay vàng, cao 2,5-4 mm, biệt chu

Hyphear
4a – gié
4b – hoa đầu không tổng bao Bacathranthus

3b – tai hao xanh hay vàng, đồng chu
4a – gié mang từng chụm 3 hoa, hoa 3 phân
4b – không là gié, hoa 4 phân
2b – hoa lƣỡng phái, dài hơn 3mm
3a – hoa cánh rời
3b – cánh hoa dính thành ống Helixantheus
4a – hoa 6 phân, mỗi hoa có 2-3 lá hoa
5a – lá hoa ngắn, không bao lấy đài Macrosolen
5b – lá hoa dài, không bao lấy đài và phần dƣới cánh hoa
4b – hoa 4-5 phân, mỗi hoa có một lá hoa
5a – hoa hầu hết 5 phân, đều Dendrophtoe
5b – hoa 4 phân, lƣỡng trắc
6a – chùm, noãn sào và trái từ từ hẹp ở đáy Scurrula




14
2.2.2. Vòng đời và đặc điểm sinh học của họ Loranthaceae
Cây tầm gửi có thể là cây cái (tạo ra quả mọng) hoặc có thể là cây đực (chỉ
tạo ra phấn hoa). Quả mọng của cây cái thì nhỏ, nhớt và có màu hơi vàng, chúng rất
hấp dẫn loài chim nhƣ là chim của cây tuyết tùng, chim cổ đỏ, và những loài khác.
Những con chim này ăn và tiêu hoá phần cơm của quả, thải ra những hạt trên cành
cây mà chúng đậu. Trong một vài trƣờng hợp, sự nhiễm bệnh ban đầu xuất hiện có
qui mô rộng trên những cây lâu năm bởi vì chim thƣờng thích trú ở những cành cao
của cây hơn. Hạt của cây tầm gửi rất khó tiêu, có thể tự nuôi dƣỡng sống qua một
khoảng thời gian trƣớc khi nảy mầm hút dinh dƣỡng. Mặt khác, hạt có thể rơi ra từ
cây tầm gửi có vị trí cao hơn xuống cành thấp hơn của cây, tạo nên một sự xâm
nhiễm mới ở những cành cây này. Sự lây lan nhanh này tùy thuộc vào thời gian và
đặc tính của sự xâm nhiễm; và những cây mọc sau có thể nhanh chóng tràn vào quấy

phá nếu chúng lớn đến một độ tuổi nhất định [17],[20].
Sau đó hạt của cây tầm gửi bắt đầu nảy mầm, chúng lớn trên vỏ cây và hút
nƣớc từ các mô của cây, tại nơi đó hình thành một kết cấu rễ gọi là giác mút. Giác
mút này kéo dài từ từ bám xuống cành cây và phát triển tạo thành một cây tầm gửi
mới. Ban đầu, chúng bám trên cây và nó có thể phát triển chậm chạp trong một thời
gian dài trƣớc khi cây ra hoa và tạo quả. Sau một thời gian, cây tầm gửi trƣởng thành
có thể ra hoa và tạo quả, sự lây lan cứ thế tiếp diễn [17], [19].
Cây tầm gửi có thể hút nƣớc và khoáng dinh dƣỡng từ cây ký chủ. Một cây
khỏe mạnh có thể không bị tổn hại nếu rất ít tầm gửi xâm nhiễm, nhƣng một cành
riêng lẻ có thể bị yếu đi hoặc chết trong một thời gian. Sự quấy phá nặng nề làm cho
sức sống của cây yếu đi, cây bị còi cọc, thậm chí chết, nhất là nếu chúng bị stress do
những nguyên nhân khác nhƣ hạn hán hoặc sâu bệnh [20].
2.2.3. Các phƣơng pháp kiểm soát và quản lý cây tầm gửi
 Phƣơng pháp kiểm soát cơ học
Một cách có hiệu quả nhất để kiểm soát tầm gửi và ngăn chặn nó là tỉa xén
bớt những cành cây bị nhiễm bệnh, nếu có thể thực hiện đƣợc ngay khi vừa thấy
chúng xuất hiện. Phƣơng pháp thông thƣờng là tỉa xén, cắt bỏ những cành bị nhiễm
bệnh. Cành bị nhiễm bệnh cần đƣợc cắt ở gần gốc của cây tầm gửi bám để mà tiêu
diệt đƣợc hoàn toàn các giác mút. Hay một cách khác, chúng ta cũng có thể cắt bỏ
15
những cành lá của cây tầm gửi. Tỉa ngọn cây thƣờng đƣợc áp dụng để hạn chế bớt sự
tấn công của tầm gửi đối với cây; tuy nhiên, việc cắt xén này sẽ làm cho cây bị yếu
đi và phá vỡ những cấu trúc tự nhiên của cây. Cây tầm gửi xâm nhiễm trên những
cành chính hoặc trên thân cây làm cho ta khó mà có thể cắt cành đƣợc vì vậy chỉ có
thể cắt thẳng vào cành tầm gửi. Trong một vài trƣờng hợp nó là một phƣơng pháp
tốt nhất để loại bỏ phần cây bị nhiễm bệnh hoàn toàn. Ngƣời ta thƣờng cắt vào mỗi
mùa đông, mặc dù cây tầm gửi có thể phát triển trở lại, nhƣng sự lan rộng có thể
đƣợc giảm bớt vì cây tầm gửi phải cần một thời gian trƣớc khi nó có thể ra hoa và
kết trái trở lại [20], [21].
 Phƣơng pháp kiểm soát hóa học

Chúng ta có thể sử dụng khí Ethephone để kiểm soát cây tầm gửi trên cây ký
chủ. Để có hiệu quả, những cành nhỏ phải đƣợc phun ƣớt hoàn toàn bộ lá của cây
tầm gửi. Một ý kiến khác là phun vào mùa xuân khi nhiệt độ bắt đầu ấm áp, nhƣng
phun trƣớc khi cây ký chủ phát triển bộ lá mới. Phun vào ban ngày, nhiệt độ phải cao
hơn 65°F là cho kết quả tốt nhất. Phun lên những cành tầm gửi riêng lẻ, không liền
với cây. Bằng cách xử lý này, khi bộ lá của cây chƣa phát triển thì ta có thể nhìn thấy
rõ ràng hơn cây tầm gửi vì vậy thuận lợi cho việc kiểm soát. Phƣơng pháp kiểm soát
bằng cách phun khí Ethephone này chỉ sử dụng tạm thời. Đối với trƣờng hợp bị xâm
nhiễm quá nặng thì nó có thể làm cho một vài cây tầm gửi bị suy yếu. Cây tầm gửi
sẽ nhanh chóng phát triển trở lại ở vị trí ban đầu, cần phải đƣợc xử lý lại [21].
 Phƣơng pháp sử dụng giống kháng
Một vài loài đƣợc tìm thấy có khả năng kháng lại cây tầm gửi lá rộng. Cây tử
vi, cây mía, cây bạch đàn, cây bạch quả, cây sung dâu , cây có quả hình nón nhƣ loại
cây nào có gỗ màu đỏ (đặc biệt là cây tùng bách ở California) và cây tuyết tùng thì ít
khi bị xâm nhiễm. Những cây này hoặc là những giống kháng khác đã đƣợc thử
nghiệm và suy xét khi chúng mọc ở những vùng bị nhiễm bệnh [21].
 Kết hợp kiểm soát ở địa phƣơng
Một chƣơng trình kiểm soát có hiệu quả ở địa phƣơng đòi hỏi phải có sự kết
hợp giữa phƣơng pháp, chuyên gia, địa chủ, nhà kinh doanh và những thƣơng
nghiệp. Khi vƣờn cây của họ bị tầm gửi tấn công thì vƣờn cây đó sẽ bị thiệt hại nặng
nề về năng suất và ảnh hƣởng đến thu nhập của ngƣời chủ. Nếu không có sự hợp tác
16
của địa phƣơng sự xâm nhiễm sẽ trở lại nhanh chóng. Nhiều diện tích cây công cộng
nhƣ công viên và dọc theo hai bên bờ sông gần thành phố có thể bắt đầu có hạt và sự
tấn công của tầm gửi. Đó là lý do mà mỗi thành phố, công viên khuyến khích trồng
những giống cây không bị ảnh hƣởng bởi sự xâm nhiễm của tầm gửi [21]. Qua theo
dõi và những phát hiện ban đầu của chúng tôi thì ở dọc các con đƣờng và công viên
Thành phố Hồ Chí Minh đã xuất hiện cây tầm gửi rất nhiều. Cây tầm gửi ký sinh trên
nhiều loài ký chủ khác nhau và chúng tôi thống kê đƣợc một số loài ký chủ của cây
tầm gửi ở Thành phố Hồ Chí Minh (Bảng 2.4).

Bảng 2.4. Một số loài ký chủ của các loài tầm gửi họ Lorathaceae
STT
Loại cây
kí chủ
Tên khoa học
Loài tầm
gởi
Số vết
bệnh
Địa điểm
1
Cây thị
D. ehertioides
Lá trung
bình
2
Đƣờng Nơ Trang
Long – P 13 - Q.
Bình Thạnh Tp.HCM
2
Cây điệp
Dulcherrima
(L.)
Lá trung
bình
2
Đƣờng Nơ Trang
Long – P 13 - Q.
Bình Thạnh Tp.HCM
3

Cây khế
Rourea minor
Lá trung
bình
3
Đƣờng Nơ Trang
Long – P 13 - Q.
Bình Thạnh Tp.HCM
4
Cây cóc
Spondias
cytherea
Lá nhỏ
16
Công viên Lê Văn
Tám Tp.HCM
5
Cây me
tây
Samanea
saman
Lá lớn
2
Công viên Lê Văn
Tám Tp.HCM
6
Cây điệp
Dulcherrima
(L.)
Lá nhỏ

1
Công viên Lê Văn
Tám Tp.HCM
7
Cây cóc
Spondias
cytherea
Lá lớn
5
Công viên Lê Văn
Tám Tp.HCM
8
Cây lộc
vừng
B. acutangula
Lá nhỏ
2
Đƣờng Nguyễn Đình
Chiểu Tp.HCM
17

9
Cây mận
Prunus salicina
Lá lớn
2
Đƣờng Nguyễn Đình
Chiểu Tp.HCM
10
Cây xoài

Mangifera
indica
Lá trung
bình
2
Đƣờng Điện Biên Phủ
Tp.HCM
11
Cây lộc
vừng
B. acutangula
Lá lớn
1
Đƣờng Điện Biên Phủ
Tp.HCM
12
Cây sung

Lá lớn
2
Đƣờng Điện Biên Phủ
Tp.HCM
13
Cây bạch
đàn
Stantalum
Lá nhỏ
2
85 – Nơ Trang Long –
P 13 – Bình Thạnh

Tp.HCM
14
Cây gòn
C. pentandra
Lá nhỏ
3
21/18/41 Bình Lợi – P
13 – Bình Thạnh
Tp.HCM
15
Cây tràm
Melaleuca
cajupti
Lá lớn
1
Đƣờng Bình Lợi – P
13 – Bình Thạnh
Tp.HCM
16
Cây bàng
Terminalia
catappa
Lá lớn
7
Khu Thiên Lý Đại học
Nông Lâm
17
Cây điều
Syzygium
malaccense

Lá nhỏ
1
Nông trƣờng Ông Quế
- Đồng Nai
18
Cây mít
A.heterophyllus
lam
Lá nhỏ
3
Đại học Nông Lâm
Tp.HCM







18
2.2.4. Giới thiệu về loài tầm gửi lá lớn Macrosolen cochinchinensis (Lour) Tiegh
 Bản đồ phân bố loài tầm gửi Macrosolen cochinchinensis ở Cuba










Hình
2.6. Bản đồ phân bố loài Macrosolen cochinchinensis ở Cuba (Barlow, 1974)
 Mô tả ( Barlow 1974)
Là dạng cây bụi cao từ 0,5-1,3 m, cành cây màu xám không có lông và hiếm
khi có phấn. Cuống lá dài 3-10 mm, nhẵn hoặc thắt eo ở trên; phiến lá rộng, mỏng
hình trứng hoặc hình elip, dài 2,5-6 cm, da láng, có khoảng 4-5 cặp gân lá lồi lên
hoặc không rõ trên bề mặt lá, đáy rộng có hình nêm, ngọn thì nhọn mũi. Cụm hoa
đơn, 2-3 hoa tụ lại thành chùm ở nách lá, ở một số đốt đôi khi không có lá già, có
khoảng 4-8 cụm hoa trên một cành. Cuống hoa dài 15-20 mm, thon, thƣờng kèm với
1-3 lá bắc ở chân đế hoặc ở cuống, mang 2-4 hoa, cuống nhỏ 0-3 mm. Lá bắc nhọn
hình trứng rộng, dài khoảng 1-2 mm; lá bắc con có dạng hình tam giác, cùng mọc ra
ở đáy, dài khoảng 1-1,5 mm. Đài hoa có hình phễu, dài 2-2,5 mm; phiến lá đài cụt
hoặc mọc yếu ớt có 6 răng, dài 0,3-0,5 mm. Tràng hoa ở giai đoạn trƣởng thành nở
ra 6 cánh và có bầu ở giữa, dài 9-14 mm. Cánh hoa nở rộng hoa giống hình cái
chuông dài 4-8 mm với những thuỳ khoẻ mạnh hƣớng ánh sáng. Chỉ nhị dài khoảng
2 mm, bao phấn dài 1 mm, bằng 1/3 chiều dài của chỉ nhị. Vòi nhụy có gốc nằm gần
chân đế, quả mọng có dạng hình cầu (Mô tả dựa theo tài liệu mới của Guinean).




19

Hình 2.7. Macrosolen cochinchinensis. A: Cành có quả, B: Cành hoa, C; Hoa,
D: Hoa cắt dọc. (Barlow, 1981).






20
 Sự nảy mầm của Macrosolen cochinchinensis
Hạt của loài M. cochinchinensis đƣợc chim phát tán trên một cành cây, nó bắt
đầu nảy mầm và mọc vòi có màu xanh lá trên đầu mút của hạt. Vòi này có hình thon
dài, cong hình cung và đỉnh của vòi hút bám lên thân cây tạo sự liên kết với thân cây
ký chủ và phát triển tạo thành giác mút. Khi giác mút này đã bám chắc trên thân cây,
hạt đƣợc bong ra, vỏ hạt nhăn lại và rơi ra để lộ ra một cặp đôi lá gọi là mầm. Sau
đó, chồi cây phát triển hƣớng về phía trên và tạo thành lá [19].
2.3. Giới thiệu sơ lƣợc về các loại thuốc thí nghiệm
2.3.1. 2,4-D
Là muối của những dẫn xuất Chlorimate acetic acid đƣợc khám phá vào năm
1941 tại Anh, thuộc nhóm thuốc trừ cỏ Phenoxy.
- Sản phẩm thƣơng mại: có khoảng 20 tên thƣơng mại đăng ký và đƣợc phép lƣu
hành trên thị trƣờng Việt Nam
- Tên hoá học: 2,4 – dichloriphenoxy acetic acid
- Công thức hoá học:




- Phân tử lƣợng: 221,0
- Nhóm hoá học: Chlorinate phenoxy.
- Tính chất:
Acid 2,4-D ở dạng bột rắn, không màu, đặc điểm nóng chảy 140,5
0
C. Tan ít
trong nƣớc (620mg/l ở 25
0
C), tan trong rƣợu, diethylene, là một loại acid mạnh. Ăn

mòn kim loại. LD
50
qua miệng của acid 2,4-D là 699 mg/kg, xếp vào nhóm II. Tƣơng
đối độc với cá (LC
50
của muối dimetyl amine > 250 mg/l; của ester > 5 mg/l), không
độc với ong. Trong các sản phẩm 2,4-D thƣờng có một số lƣợng chất chlorophenol
không đƣợc tổng hợp hết gọi là phenol tự do tạo nên mùi nặng khó chịu của 2,4-D.
Trong tự nhiên, chlorophenol tồn tại tƣơng đối lâu và có thể chuyển hóa thành chất
dioxin (2,3,7,8- tetrachlodibenzo - P – dioxin). Dioxin có khả năng kích thích tế bào
ung thƣ phát triển, gây đột biến tế bào, và dị dạng cơ thể ngƣời và động vật máu
2

×