Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

Đề tài “Một số vấn đề về xuất khẩu gạo của Việt Nam” pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (293.88 KB, 37 trang )

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
Đề tài
“Một số vấn đề về xuất khẩu
gạo của Việt Nam”
1
1
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
MỤC LỤC
2
2
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
MỞĐẦU
Trong xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá, mỗi nước đều chọn cho mình một hướng đi thích hợp
để cùng tiến tới một mục tiêu kinh tế là: ổn định và phát triển lâu dài nền kinh tế. Một hướng đi mà
nhiều nước lựa chọn là “Công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu”. Xét vềđiều kiện kinh tế Việt Nam
hiện nay còn kém so với các nước trong khu vực, do đóđể tránh nguy cơ tụt hậu thì Việt Nam cần
phải hoàn thành công cuộc CNH-HĐH đất nước. Việt Nam là một nước nông nghiệp, có tới hơn
80% dân số làm việc trong ngành này, do đó hoạt động xuất khẩu của Việt Nam ngoài dầu mỏ và
than thì chủ yếu là hàng nông sản trong đó mặt hàng gạo chiếm tỷ trọng lớn nhất của Việt Nam. Và
năm 1997 Việt Nam đãđứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo. Vì vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu
hoạt động xuất khẩu gạo Việt Nam để từđóđề ra những giải pháp thích hợp nhằm đẩy mạnh hoạt
động xuất khẩu gạo ở Việt Nam trong thời gian tới là hết sức cần thiết.
Xuất phát từ thực tiễn đó tôi chọn đề tài Khoá Luận Tốt Nghiệp của mình là: “Một số vấn
đề về xuất khẩu gạo của Việt Nam”.
Ngoài phần mởđầu và kết luận, nội dung khoá luận gồm 3 chương:
Chương 1: Lợi thế vàđiều kiện phát triển sản xuất và xuất khẩu gạo ở Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng của xuất khẩu gạo của Việt Nam trong những năm gần đây.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam.
Do trình độ và kinh nghiệm thực tế còn hạn chế nên Khoá luận tốt nghiệp này không tránh khỏi
những thiếu sót. Rất mong được sự quan tâm và góp ý của các thầy giáo, cô giáo cùng các bạn.
Sinh viên: Phạm Thị Thanh Vân


Chương 1
LỢITHẾVÀĐIỀUKIỆNPHÁTTRIỂNSẢNXUẤTVÀXUẤTK
HẨUGẠOỞ VIỆT NAM.
3
3
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
1.1. Về tự nhiên.
Việt Nam có lợi thế về nguồn tài nguyên và các điều kiện tự nhiên, khí hậu ưu đãi và thuận lợi
cho việc phát triển nông nghiệp đặc biệt là cây lúa nước. Những yếu tốđóđã tạo cho Việt Nam có
một lợi thế so sánh về mặt hàng gạo so với nhiều nước trên thế giới.
1.1.1 Đất đai.
Ở Việt Nam sản xuất lúa gạo là ngành sản xuất cổ truyền, có từ lâu đời và gắn với lịch sử phát
triển nông nghiệp. Đặc điểm của ngành sản xuất nông nghiệp là sử dụng một diện tích lớn ruộng đất
để gieo trồng thì Việt Nam có một nguồn tài nguyên đất rất giàu có. Với diện tích đất trồng lúa hiện
có 4,4 triệu hecta chiếm 55% trong tổng số 8 triệu hecta đất trồng trọt nông nghiệp, 43% trong tổng
diện tích 10,3 triệu hecta đất đang sử dụng (không kểđất rừng của cả nước) và 13,3% diện tích lãnh
thổ, trong đó diện tích Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) là xấp xỉ 3954 triệu hecta, diện tích
Đồng Bằng Sông Hồng (ĐBSH) là 1251 triệu hecta và diện tích Đồng Bằng Nam Bộ (ĐBNB) là
2347 triệu hecta. Đặc biệt ĐBSCL vàĐBSH là hai đồng bằng rộng lớn, hàng năm được hai sông lớn
bùđắp phù sa, được đánh giá vào loại phì nhiêu trên thế giới, rất thích hợp cho việc trồng cây lúa
nước. Độ màu mỡ của đất đã giúp sản xuất lúa gạo của Việt Nam từ năm 1989 đến nay, tăng cả về
sản lượng, diện tích và năng suất, nhờđó mà Việt Nam không những đảm bảo lương thực trong nước
mà còn dư thừa để xuất khẩu.
1.1.2. Khí hậu và nguồn nước.
Tài nguyên nước dồi dào là một trong những lợi thế nổi bật trong nghề trồng lúa ở Việt Nam. Số
ngày mưa lý tưởng 120-140 ngày trong một năm ở hai đồng bằng lớn, không chỉ cung cấp cho lúa
nguồn nước trời phú quý giá mà còn bồi bổ cho lúa một nguồn đạm tự nhiên dễ hấp thụ. Ngoài ra hệ
thống thuỷ lợi nước ta với 10% ngân sách nhà nước đầu tư hằng năm đãđạt được những thành
quảđáng mừng. Với trị giá tài sản khoảng 25.800 tỷđồng cơ sở vật chất kỹ thuật của hệ thống thuỷ
lợi đã tạo ra tổng năng lực tưới cho 3 triệu hecta canh tác và năng lực tiêu cho 1,4 triệu hecta. Hơn

nữa Việt Nam còn sở hữu một hệ thống sông, hồ, kênh rạch phong phú phù hợp với cây lúa nước,
thuận lợi cho thu hoạch, vận chuyển và thực hiện xuất khẩu gạo.
Sựưu việt của tài nguyên nước cóý nghĩa quyết định cho việc thâm canh, tăng vụ thắng lợi và
giảm giá thành sản phẩm nông sản. Lợi thế của tài nguyên nước còn cóý nghĩa đặc biệt cho tài
nguyên đất phát huy được đầy đủ trong quá trình sản xuất nông nghiệp và trồng lúa.
Thực tế gạo là một sản phẩm mà không phải nước nàơ cũng có thể sản xuất và cung cấp ra thị
trường thế giới. Ngoài lợi thế vềđất đai và nguồn nước ra,Việt Nam còn có khí hậu nhiệt đới gió mùa
rất phù hợp cho hai vựa lúa của Việt Nam làĐBSH vàĐBSCL cóđiều kiện lý tưởng trồng cây lúa
nước, cùng với sự kết hợp chặt chẽ các yếu tố khí hậu như: nhiệt độ, độẩm, lượng mưa cũng như
nắng gió. Điều kiện khí hậu ưu đãi hiếm có này còn là lợi thế tuyệt vời cho phép ởĐBSCL vàĐBSH
4
4
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
sản xuất lúa quanh năm (3 vụ) trên diện rộng và thích nghi với nhiều giống lúa cao sản, lúa đặc
chủng có năng suất cao. Lợi thế này tạo cho Việt Nam những bước đột phá trong sản xuất và xuất
khẩu gạo.
1.2. Về lao động.
Trong điều kiện kinh tế Việt Nam, nông nghiệp và nông thôn là khu vực tạo việc làm chủ
yếu.Với dân số 78 triệu người, trong đó 75% dân số sống ở nông thôn và 50% dân sốở trong độ tuổi
lao động, Việt Nam có nguồn lao động dồi dào, giá nhân công rẻ . Đây là một lợi thếđối với việc
sản xuất và xuất khẩu gạo ở nước ta. Lực lượng lao động ở nông thôn tuy có kinh nghiệm về nghề
trồng lúa của ông cha truyền lại nhưng lao động có trình độở khu vực này nhìn chung còn bất cập, về
cơ bản vẫn chỉ là lao động phổ thông. Hiểu biết của nông dân về khoa học kỹ thuật (nhất là công
nghệ sinh học) còn kém, về thị trường còn rất hạn chế vì vậy họ rất dè dặt trong việc thay đổi các
giống lúa, áp dụng những thành tựu mới vào sản xuất lúa gạo,… để nâng cao chất lượng phù hợp với
thị trường, điều đó làm ảnh hưởng lớn đến hoạt động xuất khẩu gạo. Do đóđể phát triển sản xuất
nông nghiệp nói chung và sản xuất lúa gạo nói riêng thì trong thời gian tới Việt Nam cần đầu tư
ngân sách Nhà nước vào phát triển nguồn nhân lực, xây dựng và củng cố các trường dạy nghề phục
vụ phát triển nông nghiệp, bên cạnh đó cũng cần có các chính sách thoảđáng đối với đội ngũ trí thức
tình nguyện làm việc tại nông thôn…Nâng cao chất lượng lực lượng lao động trong nông nghiệp là

cơ sởđể hạt gạo Việt Nam bay xa hơn.
1.3. Về kết cấu hạ tầng.
Cơ sở hạ tầng của sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam luôn được Nhà nước ta quan tâm đầu
tư và nâng cấp nhằm nâng cao năng suất, sản lượng lúa cũng như hiệu quả và chất lượng xuất khẩu
gạo của Việt Nam.
Trước hết, đối với sản xuất gạo, các công trình thuỷ lợi được đầu tư tu bổ và xây mới thuận lợi
cho tưới tiêu, nâng cao năng suất lúa. Bên cạnh đó phải kểđến trình độ cơ giới hoá ngày càng nâng
cao đã làm giảm tổn thất tỷ lệ tổn thất trước và sau thu hoạch lúa, và làm giảm chi phí sản xuất
gạo…
Thứ hai làđối với gạo xuất khẩu, bấy lâu nay hầu hết khối lượng gạo buôn bán quốc tế của Việt
Nam thường được vận tải bằng đường biển. So với phương tiện vận tải đưòng sắt, đưòng hàng
không , vận tải bằng đưòng biển quốc tếđảm bảo thuận lợi, thông dụng và giá rẻ hơn. Trong thực tế
chuyên chở gạo bằng đưòng biển Việt Nam có nhiều lợi thế nổi bật. Đưòng biển nước ta hình chữ S,
dài trên 3000 km suốt từ Bắc – Trung - Nam, nước ta có nhiều cảng thuận lợi như: Cửa Ông, Hải
phòng, Đà Nẵng, Vũng Tàu, Sài Gòn… Hệthống hải cảng Việt Nam nói chung đều nằm sát đường
5
5
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
hàng hải quốc tế và có thể hành trình theo tất cả các tuyến đường đi Đông Bắc Á,Đông Nam Á,
Thái Bình Dương, Trung Cận Đông, Châu Á, Châu Phi, Châu Mỹ. Vì vậy Việt Nam có cơ hội
đểđảm bảo thời gian và giá cước phí vận chuyển gạo xuất khẩu tương đương so với nước khác.
1.4. Về thể chế, chính sách.
Xuất khẩu của Việt Nam nói chung và xuất khẩu gạo nói riêng phát triển một cách mạnh mẽđó là
nhờ nền chính trịổn định và chính sách kinh tế hợp lí. Chính sách mở cửa nền kinh tếđã mở rộng
quan hệ kinh tế quốc tế giữa Việt Nam và thế giới, với mọi quốc gia và tổ chức kinh tế quốc tế. Điều
đó tạo cơ hội cho hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam có thêm những bạn hàng mới. Nhà nước
luôn có những chính sách khuyến nông, chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất lương thực và xuất
khẩu như thưởng kim ngạch xuất khẩu, hỗ trợ lãi suất vay ngân hàng, thưởng thành tích xuất khẩu,
hỗ trợ xúc tiến thương mại nhằm nâng cao hơn nữa giá trị kim ngạch xuất khẩu, khối lượng gạo xuất
khẩu ra thị trường quốc tế, nhất là trong điều kiện hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.

Năm 2001-2002, thực hiện chính sách thưởng kim ngạch xuất khẩu, hỗ trợ lãi suất vay ngân hàng
đã góp phần làm tăng số lượng gạo xuất khẩu, giúp nông dân tiêu thụđược sản phẩm, giá gạo đã tăng
khiến cho người dân yên tâm hơn trong sản xuất. Bên cạnh đó nhờ các cơ chế, chính sách khuyến
khích xuất khẩu, các Doanh nghiệp xuất khẩu đã giảm bớt khó khăn về tài chính. Trong năm 2001,
Quỹ Hỗ trợ Xuất khẩu đã thưởng kim ngạch xuất khẩu cho mặt hàng gạo là 26,39 tỷđồng, tính riêng
5 tháng đầu năm 2002 cơ chế hỗ trợ lãi suất vay ngân hàng mua tạm trữ mặt hàng gạo là 43,7
tỷđồng.
Ngoài ra Nhà Nước còn khuyến khích các Doanh nghiệp hình thành các tổ chức hiệp hội, hợp tác
để thống nhất về quy cách, ký kết hợp đồng dài hạn, bảo đảm thanh toán để giảm bớt rủi ro, tránh
hiện tượng ép cấp, ép giá trong buôn bán.
Tăng cường các hoạt động hỗ trợ xuất khẩu gạo như: cung cấp miễn phí các thông tin về thị
trường và các văn bản có liên quan đến xuất khẩu cho các Doanh nghiệp.
Bên cạnh đó các thông lệ thương mại luôn ưu tiên vàđảm bảo quyền lợi cho xuất khẩu gạo.
Việc Nhà nước đặt mục tiêu xuất khẩu hàng nông sản là mũi nhọn trong hoạt động kinh tếđối
ngoại và phát triển kinh tếđất nước cũng đã tạo điều kiện thuận lợi và thúc đẩy hoạt động xuất khẩu
gạo mạnh mẽ hơn.
6
6
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
1.5. Mức tiêu thụ gạo của thế giới.
Từ năm 1989 – 2001, sản lượng tăng 2%/năm, đạt mức 908 triệu tấn vào năm 2001, trong đó
90% làm lương thực cho người, số còn lại phục vụ cho chăn nuôi và chế biến công nghiệp. Tuy
nhiên nhu cầu gạo ở mỗi quốc gia và mỗi vùng là khác nhau.
Châu Mỹ La Tinh, Châu Âu, Bắc Mỹ , Caribê: mức tiêu dùng cho một người trong một năm là
tăng, trong khi đóở vùng Trung cận đông có xu hướng giảm, ở khu vực viễn đông: Hàn Quốc, Nhật
Bản, Malaysia, Thái Lan, Singapore, tuy thu nhập bình quân đầu người có tăng nhưng nhu cầu tiêu
dùng gạo giảm do cơ cấu bữa ăn có sự thay đổi.
Châu Phi dự kiến tiêu dùng bình quân đầu người là 16 kg, tăng 2 kg/người so với thời kỳ trước
đây. Châu Phi đang ngày càng trở thành một thị trường gạo hấp dẫn. Nhập khẩu gạo Châu Á vào
Châu Phi ngày một tăng và tiếp tục tăng hơn nữa. Châu Á là nơi sản xuất lượng gạo nhiều nhất,

chiếm 79% trong đó Trung Quốc chiếm 34%, Ấn Độ chiếm gần 20%, Inđônêsia chiếm 8 – 9%.
Nhu cầu nhập khẩu gạo thực chất còn phụ thuộc vào khả năng thanh toán hạn hẹp của bản thân
những nước nghèo ở Trung Đông và Châu Phi, vìđây là những nước nhập khẩu gạo với số lượng
lớn. Tính đến cuối năm 1999 có 52 triệu dân ở 35 nước bị thiếu lương thực nghiêm trọng do ảnh
hưởng của thiên tai và do các thảm hoạ do con người gây ra.
Năm 2000 nước nhập khẩu gạo lớn nhất vẫn là Inđônêsia- khoảng 2 triệu tấn- mặc dù giảm còn
một nửa so với năm trước. Nhập khẩu gạo của Philippin cũng giảm so với mức 1 triệu tấn năm 1999.
Bănglađét là nước nhập khẩu gạo lớn. Năm 1998 nước này đã nhập 2,5 triệu tấn sau khi bị lũ lụt
nặng nề. Iran là nước 2 năm liên tiếp bị hạn hán đã phải nhập khẩu gạo với khối lượng khá lớn- 1
triệu tấn.
Trong năm 2000, sản lượng tăng mạnh sau cải cách thị trường nội địa đã làm cho Việt Nam trở
thành một trong số các nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới.
Sang năm 2001, theo số liệu thống kê nhu cầu nhập khẩu gạo thế giới chỉđạt 23,3 triệu tấn, thấp
hơn chút ít so với năm 2000. Nhập khẩu tăng mạnh ở Trung Đông, Châu Phi và vài nước Châu Á
do thời tiết xấu, điều này giúp cho giá gạo xuất khẩu ở các nước Châu Áđược lợi. Những nước nhập
khẩu lớn năm 2002 là Iran, Ni-giê- ria, Ả-Rập-XêUt, Irắc, Philippin, Nhật Bản. Bảy nước này nhập
khẩu tới 6,42 triệu tấn, chiếm 27,5% lượng gạo giao dịch thế giới. Điều khá ngạc nhiên là giá gạo
tăng trong khi nguồn cung lại khá dồi dào. Các nhà kinh doanh giải thích rằng giá gạo được nâng đỡ
bởi các thương nhân đang tranh giành mua gạo để thanh toán các hợp đồng đã ký trước đó. Năm
2001 Việt Nam trúng thầu hai đợt gạo xuất sang Philippin với tổng sản lượng 400 nghìn tấn, ngoài ra
7
7
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
Việt Nam còn tiếp tục thanh toán các hợp đồng xuất gạo sang Châu Phi, Inđônêsia, CuBa. Các hợp
đồng này đã nâng mức xuất khẩu của Việt Nam trong 5 tháng đầu năm lên 1,792 triệu tấn, trị giá
280,2 triệu USD, giá bình quân bằng 81% so với cùng kỳ năm trước.
Có thể nói 2002 là năm nhu cầu gạo của nhiều khu vực nhập khẩu chính. Theo FAO, năm nay
Trung Quốc tăng gấp 6 lần lượng gạo nhập khẩu so với năm 2001 do sản xuất nội địa giảm và theo
yêu cầu của Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO), khi gia nhập tổ chức này Trung Quốc buộc phải
mở rộng cửa nhập khẩu gạo từ năm 2002 và tăng dần hạn ngạch qua mỗi năm đểđến năm 2004 mở

cửa cho 4 triệu tấn gạo nhập vào đây với thuế suất rất thấp chỉ 1%. Cũng theo cam kết với WTO,
Đài Loan sẽ tăng nhập khẩu gạo 31 lần so với năm 2001. Cả khu vực Châu Á tăng lượng nhập 1,2
triệu tấn so với năm trước. Các nước tăng nhập mạnh là: Inđônêsia 600 nghìn tấn, Iran 100 nghìn
tấn, Trung Quốc 900 nghìn tấn, Yê-men 100 nghìn tấn, Đài Loan trên 100 nghìn tấn… Trên phạm vi
toàn cầu, lượng gạo mậu dịch đạt tới 23,3 triệu tấn, tăng mạnh so với năm 2001 và tăng 700 nghìn
tấn so với dự báo trước đây của FAO. Điểm thuận lợi cho các nước xuất khẩu gạo năm 2002 là ngoài
Trung Quốc, Đài Loan mở rộng cửa thị trường, mới đây chính phủ Inđônêsia lại tuyên bố không
đánh thuế giá trị gia tăng đối với gạo nhập khẩu. Tin này được nhiều hãng thông tấn của Châu Á và
Châu Âu cùng đưa vì Inđônêsia là nước tiêu thụ gạo lớn thứ 3 thế giới, hơn nữa mức thuế giá trịđối
với gạo đang ở mức khá cao. Trong bối cảnh mậu dịch gạo thế giới có nhiều diễn biến thuận lợi,
xuất khẩu và giá gạo Việt Nam mở ra nhiều triển vọng tươi sáng. Hầu như các nước tăng lượng nhập
khẩu cũng là những bạn hàng chính đã quen ăn gạo của Việt Nam. Ngay trong tháng 1/2002 Bộ
trưởng thương mại IRắc cho biết, theo kế hoặch đổi dầu lấy lương thực, Irắc sẽ nhập 900 nghìn tấn
gạo, chủ yếu mua của 4 nước: Thái Lan, Việt Nam, Ai Cập và Pakixtan. Trong đó riêng Việt Nam
chiếm tới 500 nghìn tấn.
Hiện nay trên thế giới, gạo xuất khẩu của Việt Nam chiếm 15 - 18% thị phần thế giới. Với xu thế
phát triển của nền nông nghiệp, Việt Nam sẽđáp ứng được nhu cầu nhập khẩu gạo của các nước trên
thế giới. Tuy nhiên trong bối cảnh cạnh tranh bám đuổi mạnh mẽ giữa các nước thì việc tăng thêm
thị phần trong thời kỳ tới là một thách thức lớn đối với Việt Nam.
8
8
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
Chương 2
THỰCTRẠNGXUẤTKHẨUGẠOCỦA
VIỆT NAMTRONGNHỮNGNĂMGẦNĐÂY
2.1. Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo.
Lúa là cây lương thực chính của Việt Nam, từ khi đổi mới (1986) đến nay (2002) sản xuất lúa
tăng trưởng liên tục cả diện tích, năng suất và sản lượng. Năm 1986, diện tích gieo trồng lúa chỉ có
5688,6 nghìn ha, năng suất bình quân 28,1 tạ/ha/vụ và sản lượng là 16,9 triệu tấn thìđến năm 2002
con số tương ứng là: 7463 nghìn ha, 45,1ta/ha và 35,9 triệu tấn. Xu hướng này còn tiếp tục tăng

trong những năm tới vì tiềm năng tăng năng suất vẫn còn. Tốc độ tăng sản lượng lương thực luôn
luôn cao hơn tốc độ tăng dân số, nên lương thực bình quân đầu người của Việt Nam tăng dần. Nếu
như năm 1990 lương thực bình quân đầu người mỗi năm là 324,4 kg thìđến năm 1995 là 372 kg và
năm 2002 là 435 kg. Đây là xu hướng ít thấy trong lịch sử sản xúât lúa gạo của các nước Châu Á, và
lần đầu tiên xuất hiện trong lịch sử nước ta. Theo Tổ chức nông lương Liên hợp quốc (FAO), trong
17 năm qua (1986-2002) sản lượng lúa gạo thế giới tăng thêm khoảng 70 triệu tấn, thì Việt Nam
đãđóng góp 10 triệu tấn. Chính sự tăng nhanh vàổn định của sản lượng lúa gạo Việt Nam đã góp
phần tích cực giảm sự căng thẳng về thiếu lương thực trên thế giới. Đối với nước ta xu hướng này đã
khắc phục một cách cơ bản tình trạng thiếu đói giáp hạt kéo dài nhiều thập kỷ trước đổi mới, tạo đà
cho việc ổn định an ninh lương thực quốc gia, đẩy mạnh được hoạt động xuất khẩu gạo với vị trí
nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới (chỉ sau Thái Lan) và dẫn đầu thế giới về tăng sản lượng
lương thực. Điều này được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 1: Sản lượng gạo của một số nước xuất khẩu chính trên thế giới.
( Đơn vị tính: triệu tấn)
Năm 1999-2000 2000-2001 2001-2002
Việt Nam 20,93 20,53 21,00
Thái Lan 16,50 16,83 16,83
Ấn Độ 89,48 86,30 88,00
Pakistan 5,16 4,70 4,50
(Nguồn: Tạp chí ngoại thương 21-2002)
9
9
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
Các con sốở bảng 1 cho ta thấy rằng trong khi sản lượng gạo của các nước xuất khẩu gạo như:
Thái Lan, Ấn Độ, Pakistan giữ nguyên hoặc giảm xuống thì sản lượng gạo của Việt Nam tính chung
lại tăng lên qua từng vụ thu hoạch, trong niên vụ 2001 – 2002 sản lượng gạo của Việt Nam đạt 21
triệu tấn, tăng khoảng 1 triệu tấn so với niên vụ 2000 – 2001 và vươn lên dẫn đầu thế giới về tốc độ
tăng sản lượng gạo.
Do sản xuất tăng nhanh vàổn định, mức sản xuất lúa gạo liên tục tăng nên trong 14 năm xuất
khẩu gạo, sản lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam ngày càng tăng nhanh hơn. Điều

đóđược thể hiện trong bảng sau:
Bảng 2: Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam từ 1989- 2002.
Năm Sản lượng xuất khẩu Kim ngạch xuất khẩu
Sản lượng
( triệu tấn)
Thay đổi so
với năm trước(
%) .
Kim ngạch
(triệu USD)
Thay đổi so
vối năm
trước(%),
1989 1,420 __ 290,0 __
1996 3,003 +51,05 868,4 +63,82
1999 4,550 +19,74 1.012,0 - 1,84
2000 3,500 - 23,08 668,0 - 33,99
2001 3,729 +6,54 624,4 - 6,48
2002 3,24 - 13,11 725,5 +16,12
( Nguồn: Tổng cục thống kê - Bộ Thương mại)
Năm 1989, Việt Nam chính thức tham gia vào thị trường lúa gạo thế giới với số lượng khá lớn là
1,4 triệu tấn, thu về 290 triệu USD, giá bình quân 204 USD/tấn. Tuy sản lượng gạo xuất khẩu chưa
nhiều, giá còn thấp, chất lượng chưa phù hợp với thị hiếu thế giới, nhưng đối với nước ta kết
quảđóđánh dấu sự sang trang của sản xuất lúa gạo từ tự cấp tự túc sang nền kinh tế hàng hoá, gắn
10
10
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
với xuất khẩu. Các số liệu ở bảng 2 đã cho thấy rằng xuất khẩu gạo tăng tương đối qua các năm, với
1,6 triệu tấn gạo xuất khẩu trong năm 1990 đãđưa Việt Nam giành vị trí nứơc xuất khẩu gạo lớn thứ
3 trên thế giới.

Năm 1996, Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu gạo với mức lớn hơn. Lần đầu tiên kể từ năm 1989
khối lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam vượt mức 3 triệu tấn/năm, tăng 51% vàđưa kim ngạch xuất
khẩu đạt 868 triệu USD, tăng 63% so với năm 1995. Đặc biệt đến năm 1997 đãđánh dấu bước ngoặt
lớn đối với nền kinh tế và ngoại thương nước ta, Việt Nam xuất hiện trên thị trường gạo với vị trí là
nước xuất khẩu gạo thứ 2 (sau Thái Lan), với lượng gạo xuất khẩu là 3,6 triệu tấn, đạt kim ngạch
xuất khẩu gạo 900triệu USD; lý do là trong năm 1997 Việt Nam ký kết được nhiều Hiệp định
thương mại, điển hình là hiệp định với Iran về xuất khẩu gạo.
Bước vào năm 1998, có thể nói cơ hội đang mở ra cho Việt Nam khi hiện tượng El nino gây ảnh
hưởng nghiêm trọng đến mùa màng của một số nước Châu Á màđặc biệt là Inđônêsia và Philippin
đã gây ra cơn sốt gạo ở Châu Á. Và chính trong năm 1998, kim ngạch xuất khẩu của 3,8 triệu tấn
gạo đãđạt mức 1 tỉ USD. Tuy chỉ tăng 5,56% về lượng nhưng lại tăng 14,56% về giá trị. Điều này đã
củng cố vững hơn vị trí thứ 2 về xuất khẩu gạo của Việt Nam trên thế giới và tôđậm thêm hình ảnh
một nước Việt Nam xuất khẩu gạo đối với các nhà kinh doanh, người tiêu dùng gạo trên thế giới.
Điều đáng chúý là năm 1999, mặc dù chịu thiệt hại nặng nề của các đợt lũ lớn ở Miền Trung, sản
xuất lương thực vẫn đạt 31,4 triệu tấn và xuất khẩu 4,5 triệu tấn gạo, kim ngạch trên 1 tỷ 10 triệu
USD như vậy về số lượng so với năm 1998 tăng 20%, đây cũng là số lượng cao nhất từ trước đến
nay, nhưng xét về kim ngạch lại giảm 2%, xảy ra điều này là do trong năm 1999 các nước nhập khẩu
gạo truyền thống hạn chế khối lượng nhập khẩu, do đó làm cho giá gạo xuất khẩu trên thị trường thế
giới giảm xuống thấp. Chính điều đóđã làm cho giá trị xuất khẩu gạo của Việt Nam giảm.
Sang năm 2000, thời tiết diễn biến phức tạp, thiên tai lũ lụt xảy ra ở nhiều nơi trên phạm vi cả
nước, đặc biệt làĐBSCL nhưng nhờ có sự chỉđạo vàđiều hành sát sao của Chính Phủ, của các cấp,
các ngành cùng với sự nỗ lực của nhân dân các địa phương nên nhìn chung sản xuất nông nghiệp nói
chung và sản xuất lương thực nói riêng nhanh chóng được khôi phục vàđạt kết quả khá, đời sống
nhân dân sớm đi vào ổn định. Theo đánh giá của Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn, tổng
sản lượng lúa cả nước năm 2000 vẫn đạt 32,6 triệu tấn, tăng gần 1,2 triệu tấn so với năm 1999, điều
này đưa nguồn cung gạo cho xuất khẩu vẫn duy trìở mức cao 3,5 triệu tấn. Hơn nữa cuộc khủng
hoảng tài chính trong khu vực và cuộc khủng hoảng dầu lửa trong năm 2000 đãảnh hưởng phần nào
đến nhịp độ buôn bán các mặt hầng nguyên liệu thô trong đó có gạo. Các tác động này đã làm giá
gạo trên thị trường thế giới bắt đầu giảm xuống từđầu năm, cho đến cuối năm xuất khẩu gạo của
Việt Nam so với năm 1999 đã bị giảm đi 16% về giá, hạ kim ngạch xuất khẩu gạo 2000 xuống còn

668 triệu USD (giảm 34% so với năm 1999). Tuy nhiên cũng cần phải kểđến một nguyên nhân nữa
11
11
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
làm giảm giá gạo trên thế giới đó chính là ngành gạo của các nước nhập khẩu gạo lớn như:
Inđônêsia, Philippin, Trung Quốc… đang dần dần phục hồi sau 2 năm mất mùa vì biến động thời
tiết, các nước này đều tuyên bố có khả năng tự cung cấp tự cấp gạo.
Năm 2001 xuất khẩu gạo đạt trên 3,7 triệu tấn, trợ giá hơn 600 triệu USD, măc dù tăng khoảng
7% về lượng song cũng là thành công vìđã hoàn thành được những nhiệm vụ cơ bản: xuất khẩu vượt
chỉ tiêu 3,5 triệu tấn do chính phủđề ra, tiêu thụ hết thóc hàng hoá, chặn đà giảm sút giảm sút của
giá thóc, gạo trong nước. Tuy vậy xét về kim ngạch thì vẫn giảm 6%. Nguyên nhân là trong những
tháng đầu năm 2001 giá gạo vẫn giảm mạnh do ảnh hưởng từ năm 2000, các Doanh nghiệp của Việt
Nam vẫn ký hợp đồng bán gạo với giá thấp, nhưng bắt đầu từ tháng 6-2001 giá gạo tăng cao dần thì
ta lại không có gạo để xuất vì phải xuất gạo theo hợp đồng đã ký. Đó chính là lý do làm cho lượng
gạo xuất khẩu tăng mà gía trị xuất khẩu gạo lại giảm trong năm 2001.
Sản xuất nông nghiệp trong năm 2002 gặp nhiều khó khăn to lớn, có mặt gay gắt hơn 2001 đó là
thiên tai diễn ra trên diện rộng, kéo dài từđầu năm dến cuối năm: hạn hán gay gắt ởĐông Nam
Bộ,Tây Nguyên và Miền Trung, lũ lớn kéo dài và ngập sâu ở vùng ĐBSCL, mưa lớn, lốc xoáy và
lũ quét xảy ra gây thiệt hại nặng nề về tài sản, mùa màng và sinh mạng ở nhiều vùng vàđịa
phương.Tuy vậy sản xuất nông nghiệp vẫn đạt mức tăng trưởng khá, năng xuất lúa cả năm đạt 45,1
tạ/hecta, sản lượng đạt 35,9 triệu tấn. Nhờđó mà khối lượng gạo xuất khẩu đạt 3,24 triệu tấn (giảm
13%) vàđạt kim ngạch trên 700 triệu USD (tăng 16%) so với năm 2001. Đó là vì chất lượng gạo xuất
khẩu của Việt Nam trong năm 2002 đãđược nâng cao rõ rệt, do đó giá thành cũng cao hơn những
năm trước.
Trong những năm qua, kim ngạch xuất khẩu gạo đãđóng một vai trò quan trọng trong sản lượng
tích luỹ vốn cho quá trình phát triển đất nước. Từ năm 1989 dến năm 2002, Việt Nam đã xuất khẩu
trên 87 triệu tấn gạo đạt kim ngạch xuất khẩu gần 8 tỉ USD. Gạo đã trở thành một trong 10 mặt hàng
xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu gạo chiếm một tỷ trọng đáng kể trong kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Dưới đây là bảng tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam:
Bảng 3: Kim ngạch xuất khẩu gạo trong tổng kim ngạch xuất khẩu.

Năm

KNXK
(triệu USD)
KNXK Gạo
(triệu USD)
Tỷ trọng (%)
1990 2.404 304,6 13
1997 9.185 900,0 9,8
1998 9.360 1.031,0 11
12
12
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
1999 11.540 1.012,0 8,8
2000 14.308 668,0 4,6
2001 15.027 624,4 4,2
2002 16.530 725,5 4,4
( Nguồn: Bộ Thương mại )
Từ bảng 3 cho thấy, trong những năm 90 kim ngạch xuất khẩu gạo luôn
chiếm một tỷ trọng tương đối (khoảng 8-12%) trong tổng kim ngạch xuất khẩu
của cả nước. Cóđược kết quảđó là do Việt Nam đã xuất khẩu gạo với số lượng
tương đối lớn cùng với giá cả khá cao. Nhưng qua bảng trên ta thấy rằng tỷ
trọng kim ngạch xuất khẩu gạo từ năm 2000 trở lại đây đã giảm trong tổng kim
ngạch xuất khẩu của cả nước so với những năm trước. Đó là do thị trường gạo
thế giới có nhiều biến động, cầu về gạo trên thế giới đã giảm, hiện nay thị hiếu
về gạo chất lượng cao ngày càng tăng mà gạo của Việt Nam thì vẫn chưa đáp
ứng được những yêu cầu khắt khe của quốc tế về chất lượng, vì vậy giá gạo
Việt Nam thấp làm cho kim ngạch xuất khẩu gạo giảm. Những năm gần đây
kim ngạch xuất khẩu của cả nước đang tăng dần, để nâng cao tỷ trọng kim
ngạch xuất khẩu gạo thì một trong những điều kiện cần là Việt Nam phải chú

trọng đến chất lượng gạo xuất khẩu, do đó dù gạo xuất khẩu của Việt Nam
khối lượng có giảm nhưng giá trị xuất lại cao.
2.2. Thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam.
Việt Nam chỉ thực sự là nước xuất khẩu gạo lớn từ năm 1989. Từđó việc xâm nhập và mở rộng
thị trường của Việt Nam trong những năm đầu đã gặp không ít khó khăn vì thường đụng đến những
khu vực là thị trường quen thuộc của các nước xuất khẩu truyền thống đặc biệt là Thái Lan. Những
năm qua Việt Nam đã tích cực mở rộng các mối quan hệ, tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế.
Trên thị trường xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam đã có những thay đổi rõ rệt theo hướng đa dạng
hơn.
Bảng 4: Quy mô và thị phần xuất khẩu gạo của Việt Nam giai đoạn 1991- 2002.
13
13
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
Năm Lượng gạo xuất khẩu
của Việt Nam ( triệu
tấn)
Lượng gạo mậu dịch
Thế Giới ( triệu
tấn)
Thị phần của
Việt Nam (%)
1991 1,033 12,700 8,1
1995 1,988 21,000 9,4
1998 3,800 25,600 14,8
1999 4,550 25,100 18,2
2000 3,500 22,300 15,7
2001 3,729 24,453 15,2
2002 3,240 24,949 13,0
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Ngay từ những năm đầu xuất khẩu gạo, Việt Nam đã chiếm một thị phần khá trong tổng lượng

gạo mậu dịch thế giới, thị phần gạo xuất khẩu của Việt Nam cũng tăng dần theo nhu cầu thế giới qua
các năm. Nhu cầu gạo trên thế giới ngày càng tăng do chịu ảnh hưởng chính tác động của yếu tố thời
tiết, các điều kiện kinh tế và tốc độ tăng dân số.Thị phần của Việt Nam tăng từ 8,1% năm 1991 tới
18% năm 1999 và năm 2002 là 13%. Trong thời gian đầu do gạo Việt Nam vẫn còn xa lạ so với thị
trường quốc tế vì vậy thị phần chưa cao. Những năm gần đây, gạo Việt Nam đã tạo được tên tuổi
bằng cách giữ vững vị trí nước xuất khẩu thứ 2 trên thị trường thế giới, do đó thị phần tăng lên đáng
kể. Đặc biệt năm 1999 do hậu quả của hiện tượng El nino mà lượng gạo mậu dịch trên thế giới đạt
mức kỷ lục là 25 triệu tấn trong đó thị phần của Việt Nam đạt mức cao nhất là 18%. Hiện nay lượng
gạo giao dịch trên thế giới vẫn duy trìở mức cao (23 – 24 triệu tấn), trong đó thị phần của Việt Nam
vẫn chiếm một tỷ trọng khá, vàổn định qua các năm.
Thị trường xuất khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam vẫn là khu vực Châu Á, kếđến là Châu Phi và
Châu Mỹ. Cơ cấu thị trường gạo Việt Nam được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 5: Cơ cấu giá trị kim ngạch phân theo thị trường.
( Đơn vị tính %)
Khu vực 1990 19
95
19
98
19
99
20
00
20
01
20
02
Châu Á 45,0 51,
0
52,
2

78,
0
76,
0
55,
0
70,
0
Châu Phi 39,0 32,
0
25,
0
14,
0
14,
0
18,
5
12,
0
14
14
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
Châu Mỹ 9,6 12,
0
16,
81
5,0 6,0 16,
5
3,0

Các thị trường
khác
6,4 5,0 5,9
9
3,0 4,0 10,
0
15,
0
Tổng cộng 100 10
0
10
0
10
0
10
0
10
0
10
0
( Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam số 95, 97-2001, số 75-2002).
Từ khi bắt đầu xuất khẩu gạo đến nay thì thị trường chủ yếu của Việt Nam vẫn là thị trường Châu
Á (chiếm khoảng 50% tổng giá trị kim ngạch). Thị trường này luôn được Việt Nam theo dõi chặt
chẽ, vì hầu hết các nước Châu Á thường có tập quán lâu đời tiêu dùng lúa gạo, đều coi lúa gạo là
lương thực chủ yếu của mình. Từđó Việt Nam chuẩn bị nguồn cung, sẵn sàng đáp ứng nhu cầu nhập
bổ sung đột xuất của khu vực này nhất là thị trường Inđônêsia, Philippin, Iran, Irăc, Trung Quốc…
Hiện nay các thị trường khác của Việt Nam cũng đang có sự thay đổi theo chiều hướng tích cực,
nhất là thị trường tiềm năng lớn như Châu Phi thì lượng gạo Việt Nam xuất khẩu vào tương đối ổn
định qua các năm. Vì vậy đối với thịtrường này Việt Nam luôn quan tâm, giữ vững và phát triển hơn
nữa. Ngoài ra, các thị trường nhập khẩu gạo Việt Nam thường xuyên như: Nam Mỹ, Trung Đông và

Bắc Mỹ, Việt Nam đang từng bước nghiên cứu để không chỉ xuất sang đây loại gạo phẩm cấp trung
bình mà là gạo phẩm cấp cao sẽ chiếm ưu thế hơn.
Qua nhiều năm xuất khẩu gạo, Việt Nam đã từng bước củng cố và giữ vững được thị trường các
nước như: Malaysia, Singapore, Hồng Kông, Hàn Quốc, hiện nay Việt Nam đang từng bước thâm
nhập vào thị trường khó tính nhưng lại đầy tiềm năng như Nhật Bản.
Năm 1998 là năm thị trường lúa gạo quốc tế biến động lớn do 2 nguyên nhân: Hiện tượng El nino
và khủng hoảng tiền tệ Châu Á. Trong năm 1998 cũng một phần từảnh hưởng của El nino làm cho
nhu cầu nhập khẩu gạo thế giới tăng, Việt Nam lần đầu tiên đãđạt kim ngạch xuất khẩu gạo vượt
ngưỡng 1 tỉ USD. Sang năm 1999, thị trường xuất khẩu gạo của ta tiếp tục được mở rộng so với năm
1998, trong đó có thể kểđến các thị trường trước đây và trong năm 1998 không nhập khẩu hoặc nhập
khẩu ít như: BaLan, các Tiểu Vương Quốc Ả Rập thống nhất, Tây Ban Nha, Thổ Nhĩ Kỳ, Inđônêsia
vẫn là thị trường xuất khẩu chủ yếu cho gạo Việt Nam, với lượng gạo xuất khẩu vào thị trường này
đạt gần 1,15 triệu tấn trong năm 1999, chiếm 42,5% lượng gạo nhập khẩu của nước này và một
trong những nước nhập khẩu gạo nhiều nhất thế giới. Cũng trong năm này nước ta xuất khẩu gạo
vào Iran và Irắc khoảng 2,6%, vào thị trường Châu Phi chiếm 23,67% tổng lượng gạo nhập khẩu.
15
15
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
Trong năm 2000, cơ cấu thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam vẫn ổn định, các thị trường lớn
vẫn nhập khẩu gạo đó là: Philippin, Inđônêsia, Malaysia và Hồng Kông. Trong đó thị trường nhập
khẩu gạo lớn nhất là Irắc, riêng tháng 11 năm 2000 ta xuất sang Irắc 57,5 nghìn tấn gạo. Cũng trong
tháng này, thị trường mới xuất khẩu gạo là Thổ Nhĩ Kỳ (22 tấn).
Năm 2001, công việc tìm hiểu và mở rộng thị trường được thực hiện khá thành công, nhiều đoàn
công tác cấp Chính Phủ, cấp Bộđãđược cửđi các thị trường Đông Nam Á, Châu Phi, Trung Đông,
Châu Mỹ… Kết quả là nhiều thoả thuận Chính phủ về xuất khẩu gạo đãđược ký, các hiệp định
thương mại được ký với một số nước nhập khẩu gạo lớn ở Châu Phi. Đây cũng chính là cơ sở pháp
lý, tạo điều kiện thuận lợi cho các Doanh nghiệp xuất khẩu của ta thâm nhập vào các thị trường tiềm
năng này, qua đóđẩy mạnh việc xuất khẩu trực tiếp tới các nhà nhập khẩu của họ. Việc xuất khẩu
gạo vào các thị trường truyền thống như Nga và một số nước Đông Âu được phục hồi và có mức
tăng khá. Trong năm 2001 Việt Nam trúng thầu 2 đợt gạo xuất sang Philippin với tổng sản lượng

400 nghìn tấn, thời hạn giao hàng từ tháng 4 đến tháng 7 năm 2001. Ngoài ra, Việt Nam tiếp tục
thanh toán các hợp đồng xuất khẩu gạo sang Châu Phi, Inđônêsia, Cuba. Các hợp đồng này đã nâng
mức xuất khẩu gạo của Việt Nam 5 tháng đầu năm 2001 lên 1,8 triệu tấn, trị giá 280,2 triệu USD,
tăng gần 64,4% về lượng và 24,4% về giá trị so với cùng kỳ.
Với phương châm lượng giảm- chất tăng, năm 2002 nước ta đã xuất khẩu 3,24 triệu tấn gạo thu
về 725,500 triệu USD. Trong đó, thị trường Châu Á là 1580 triệu USD; Trung Đông: 900 USD;
Châu Phi: 287 triệu USD; Châu Mỹ: 254 triệu USD; Châu Âu: 180 triệu USD. Thị trường xuất khẩu
gạo năm nay của Việt Nam được mở rộng hơn, giá cả cũng được cải thiện hơn.
Đến nay tuy gạo Việt Nam đã có mặt trên 80 nước thuộc tất cả các Đại lục, nhưng số lượng gạo
do các tổ chức Việt Nam trực tiếp ký kết với các thị trường còn chiếm tỷ lệ thấp, số bán qua trung
gian nước ngoài vẫn chiếm tỷ lệ lớn, đặc biệt là thị trường Châu Phi – nơi tiêu thụ khối lượng lớn
gạo Việt Nam thì hầu hết do các trung gian nước ngoài đứng ra thực hiện, vì vậy gạo của Việt Nam
luôn bịép bán với gía thấp hơn giá thực tế, điều đóđã làm ảnh hưởng tới kim ngạch xuất khẩu gạo
của Việt Nam. Cho đến nay Việt Nam chưa xây dựng được cho mình một hệ thống bạn hàng trực
tiếp tin cậy, có mối quan hệ chặt chẽ, chưa có chính sách thích hợp về bạn hàng và thị trường quốc
tế. Hiện nay thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam vẫn là vấn đề bức xúc đòi hỏi sự nỗ lực từ phía
Nhà nước và các Doanh nghiệp. Thị trường là yếu tố quan trọng quyết định sự phát triển của sản
xuất. Trong những năm tới nước ta cần tiếp tục củng cố và khai thác các thị trường truyền thống
đồng thời tìm kiếm thị trường mới.
2.3. Khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam trên thị trường thế giới .
2.3.1. Về chất lượng.
16
16
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
Mặc dù gạo xuất khẩu của Việt Nam được xếp vào hàng “Top ten” một số mặt hàng nông sản
nhưng đó chỉ là về phương diện sản lượng. Thực tế giá trị xuất khẩu của mặt hàng gạo so với sản
phẩm cùng loại của nhiều nước khác thì vẫn ở mức thấp. Có thể thấy rằng thách thức lớn nhất đối
với gạo xuất khẩu của Việt nam là chất lượng và công nghệ chế biến. Chất lượng gạo được đánh giá
theo tỷ lệ tấm trong gạo và kỹ thuật đánh bóng. Hiện tại trong cơ cấu sản xuất gạo chất lượng cao
của ta còn ít chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong sản lượng, do đó mới chỉđáp ứng được nhu cầu xuất

khẩu. Trong cùng thời gian Thái Lan xuất khẩu gạo phẩm cấp cao thường chiếm tới 60 – 62% còn
Việt Nam chỉở 40 – 45% tổng lượng gạo xuất khẩu. Chính vì hạn chế này mà gạo Việt Nam chưa
vào được các thị trường cao cấp mà gạo Mỹ, Thái Lan đang chiếm lĩnh.
Bảng 6: Phân loại chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam.(%)
Loại
gạo
Năm
Phẩm cấp cao
(5-10% tấm)
Phẩm cấp trung
bình (15-
20% tấm)
Phẩm cấp
thấp (>25%
tấm)
Tổn
g số
1993 27,3 21,5 51,2 100
1995 23,6 22,4 54,0 100
1997 39,2 8,4 52,4 100
1998 40 12 48 100
1999 47 15 44 100
2000 42 26 32 100
2001 41 17 42 100
2002 42 35 23 100
(Nguồn: Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn – Số 3/2003)
Trong những năm đầu xuất khẩu gạo Nam thường ít xuất khẩu trực tiếp mà xuất khẩu qua trung
gian, bởi chất lượng gạo không cao. Chúng ta bán gạo cho Thái Lan, Singapore, các nước này làm
trung gian thực hiện chế biến lại và sau đó tái xuất khẩu cho các nước khác. Năm 1989 là năm đầu
tiên đất nước ta trở lại xuất khẩu gạo chủ yếu là gạo cấp thấp chiếm 97,42% (tỷ lệ tấm 25%). Trong

thời kỳ này gạo xuất khẩu của ta không có khả năng cạnh tranh với gạo Thái Lan và các nước có
17
17
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
truyền thống xuất khẩu gạo. Từ các năm sau đểđáp ứng nhu cầu cạnh tranh gay gắt trên thị trường
quốc tế nước ta đã tập trung lớn vào việc sản xuất các loại gạo có phẩm cấp cao, về sản xuất ta thu
thêm được giống mới, cải tạo giống tăng thêm lượng gạo hạt dài có hương vịđậm đà hơn, về chế
biến đã cải tiến đổi mới, tổ chức bảo quản tốt hơn từ năm 1998 đến nay, chất lượng gạo được cải
thiện rõ rệt, gạo cấp cao thường xuyên chiếm tỷ trọng khoảng 40% (năm 1999 đạt tới 47%) tỷ trọng
gạo cấp thấp giảm đáng kể, từ 51,2% năm 1993, xuống còn 44% năm 1999. Đến năm 2002, sự thay
đổi chất lượng gạo được thể hiện qua: tỷ trọng lượng gạo cao cấp 42%, tỷ trọng gạo cấp thấp là 23%.
Sở dĩ tỷ trọng gạo chất lượng cao và gạo chất lượng thấp chiếm phần lớn trong khối lượng gạo xuất
khẩu của Việt Nam là do thị trường gạo tập trung chủ yếu vào Châu Phi và Châu Á, nơi có nhu cầu
gạo phẩm cấp thấp, còn gạo phẩm cấp cao là thể hiện sự nhạy bén của Việt Nam theo nhu cầu thế
giới. Từ những con số trong bảng ta có thể thấy được những tiến bộ của ngành sản xuất lúa gạo nói
chung, lĩnh vực xuất khẩu gạo nói riêng, điều đóđược chứng minh qua chất lượng gạo xuất khẩu của
Việt Nam ngày càng được cải thiện tốt hơn.
Chúng ta đều biết chất lượng gạo có liên quan đến hàng loạt các yếu tố từ khâu sản xuất đến khâu
bảo quản, vận chuyển và chế biến thìở Việt Nam đa số nông dân có tập quán phơi mớ và kéo dài
thời gian thu hoặch …khiến hạt lúa dễ hút ẩm vào ban đêm, làm cho phân tử nước hấp thu mặt ngoài
của tinh thể bột sẽ chịu một lực cản không đều, dẫn đến hiện tượng nứt hạt gạo.
Ngoài ra trong quá trình tuốt lúa, lực va chạm của hạt gạo quá khô vào khung máy tuốt cũng tạo
điều kiện cho hiện tượng nứt hạt gạo xảy ra ở tần suất lớn; tỷ lệ thóc thất thoát do không được làm
khô và bảo quản kịp thời vào khoảng 10 - 15% thậm chí tới 15 - 20% khi thu hoặch vào vụ mưa.
Thiết bị và công nghệ chế biến gạo thì phần lớn là lạc hậu, ít đầu tư cải tiến, chi phí sản xuất cao,
chất lượng thành phẩm thấp; ở các tỉnh phía Bắc hiện có 278 cơ sở xay xát gạo quốc doanh, trong đó
có 4 nhà máy công suất 60 tấn/ca, 46 nhà máy công suất 15 - 30 tấn/ca và 13000 cơ sở xay xát ngoài
quốc doanh qui mô 3 - 5 tấn/ca. Còn ở các tỉnh phía Nam hiện có khoảng 348 cơ sở xay xát gạo
quốc doanh và trên 30.000 cơ sở tư nhân. Trong khi đó, gạo xuất khẩu cần phải có các cơ sở xay xát
lớn nhất (các cơ sở này có khả năng làm từ khâu đầu đến khâu cuối gạo xuất khẩu, tức là từ xay xát

đến làm bóng) thì số lượng lại thật khiêm tốn. Còn lại là các cơ sở nhỏ chỉ làm công việc xay xát lại
chiếm đa số.Có thể khẳng định, hiện nay, công nghệ thiết bị chế biến gạo của nước ta còn những bất
cập so với các nước tiên tiến trong khu vực, tỷ lệ thu hồi sau quá trình xay xát chỉđạt 60 - 62%, trong
đó 40 - 42% gạo nguyên; chỉ có một sốít nhà máy do Nhà Nước quản lý có tỷ lệ thu hồi đạt 75 -
76% (52 - 55% gạo nguyên). Hơn nữa, các nhà máy xay xát có máy phân hạt theo kích cỡ làkhông
phổ biến ở Việt Nam, chỉ có sốít nhà máy xay xát loại lớn có khả năng chọn màu vàđảm bảo với nhà
xuất khẩu là loại gạo mất màu đãđược loại. Vì vậy vấn đềđặt ra là nước ta không chỉđầu tư bổ sung
cho sự nghiên cứu các loại giống thích hợp với điều kiện Việt Nam mà còn cần đầu tư máy móc,
trang thiết bị và công nghệ hiện đại.
18
18
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
Những thực tế bức xúc đóđã dẫn đến chất lượng gạo xuất khẩu nước ta chỉđạt mức trung bình
trong khu vực, thể hiện qua các mặt sau: độđồng nhất kém, độ trắng và hình dạng, kích thước hạt
không đồng đều, độ bạc bụng cao, tỷ lệ hạt khác màu, hạt vàng, hạt hỏng, hạt đen, độẩm, hạt vỡ…
đều cao hơn gạo của các nước khác.
Về chủng loại, gạo xuất khẩu Việt Nam chủ yếu vẫn là gạo tẻ hạt dài được sản xuất hầu hết
ởĐBSCL. Còn loại gạo hạt trắng số 1 với 100% hạt nguyên, gạo đặc sản, gạo thơm còn rất ít. Việt
Nam chỉ mới bước đầu xuất khẩu gạo tám thơm được trồng ở Miền Bắc, gạo Nàng Hương, ChợĐáo
ở Miền Nam với số lượng nhỏ và không đều đặn qua các năm.
Nhìn chung chất lượng và chủng loại gạo xuất khẩu của nước ta trong chừng mực nào đó còn
thấp, nhất là so với gạo Thái Lan, chưa đáp ứng được đầy đủ nhu cầu, thị hiếu của khách hàng. Với
những cố gắng hiện nay của ngành trồng lúa trong việc cải tạo giống, công nghệ xay xát, đánh bóng,
chọn màu, chúng ta có thể hy vọng rằng phẩm cấp gạo xuất khẩu của Việt Nam sẽđược cải thiện
nhiều hơn trong vài năm tới.
2.3.2. Về giá.
Giá cả do chất lượng, điều kiện thương mại, quan hệ cung cầu quyết định. Hiện nay trên thị
trường thế giới có rất nhiều loại gạo, với mỗi loại gạo, sự biến động về giá cũng khác nhau, giá cả
biến động còn phụ thuộc vào thời vụ. Giá gạo của thế giới trong những năm qua thường xuyên biến
động, do đó giá gạo Việt Nam cũng có xu hướng dao động theo giá cả của thị trường thế giới. Mặc

dù chúng ta đạt kết quả cao trong xuất khẩu gạo nhưng hiệu quả chưa cao. Giá gạo của Việt Nam
thường thấp hơn so với giá gạo xuất khẩu bình quân trên thế giới (FOB - Thái Lan). Trong 5 năm
qua giá gạo bình quân của Việt Nam là 262,6 USD/tấn, còn của Thái Lan bán cùng kỳ là 295
USD/tấn. Như vậy giá gạo của Thái Lan luôn cao hơn giá gạo của Việt Nam 10 – 13%, nhưng không
phải do Việt Nam tựđộng hạ giá mà buộc phải chấp nhận mức giá thấp, cách biệt khá xa so với mặt
hàng gạo quốc tế vì chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn nghiêm ngặt của thị trường như: chất lượng
sản phẩm còn thấp và không đồng đều, cơ sở hạ tầng phụcvụ xuất khẩu gạo vừa thiếu vừa kém, năng
lực bốc xếp thấp, chi phí cao, thiếu ổn định trong việc cung ứng hàng. Bảng dưới đây cho thấy sự
thua thiệt về gía gạo xuất khẩu của Việt Nam so với Thái Lan.
Bảng7: Giá gạo của Việt Nam và Thái Lan trên thị trường thế giới.
(Đơn vị: USD/tấn).
Năm Giá FOB Thái
Lan- loại 5% tấm
Giá FOB Việt
Nam- loại 5% tấm
Chênh lệch
1989 311 236 - 75
19
19
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
1997 265 245 - 20
1998 285 270 -15
1999 240 232 - 8
2000 190 174 -16
2001 181 198 +17
2002 200 197 - 3
(Nguồn: Ngoại thương 1 – 2002)
Từ thập kỷ 60 trở lại đây người ta thường dựa vào giá xuất khẩu gạo của Thái Lan (điều kiện giao
hàng FOB – Băngkok) làm giá quốc tế mặt hàng gạo, giá này được xem là giá chuẩn mực, phản ánh
được thực chất quan hệ cung – cầu và quy luật vận động của giá cả trên thị trường gạo thế giới. Giá

gạo thế giới trong những năm qua thường xuyên thay đổi và có xu hướng giảm. Trong thập kỷ 90,
cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á và yếu tố thời tiết đã làm giảm nhu cầu gạo trên thị trường, gây
ra việc giảm giá gạo quốc tế. Có thể dẫn ra đây giá gạo FOB – Bangkok, loại gạo 5% tấm: năm 1989
là 311 USD/tấn, thìđến năm 1999 là 240 USD/tấn. Tuy nhiên từ năm 2000 trở lại đây, giá gạo trên
thị trường thế giới đã “khởi sắc” hơn do các nước Đông Á nền kinh tếđang đi vào giai đoạn phục hồi
nên nhu cầu nhập khẩu gạo tăng lên, cộng với tốc độ tăng thu nhập bình quân trên đầu người cao ở
một số nước Châu Á dẫn đến nhu cầu gạo tăng đặc biệt là gạo phẩm cấp cao.
Cho đến nay Việt Nam hầu như chỉ xuất khẩu gạo theo điều kiện FOB là chính, thêm vào đó xuất
khẩu gạo của Việt Nam còn mang tính chất từng chuyến, từng đợt nên khó tìm được bạn hàng và thị
trường ổn định. Phần lớn gạo xuất khẩu của Việt Nam phải xuất sang Singapore để tái xuất khẩu vì
không tìm được thị trường trực tiếp. Đây cũng là nguyên nhân làm cho giá gạo Việt Nam thua thiệt
rất nhiều. Mặt khác nước ta nằm trong khu vực Châu Á, nơi có nhiều nước cũng xuất khẩu gạo nên
thường bị cạnh tranh, chèn ép giá trên thị trường xuất khẩu. Việc thiếu hụt thông tin thị trường và
kinh nghiệm kinh doanh đã làm cho giá gạo xuất khẩu của Việt Nam thấp hơn các nước láng giềng.
Một trong những nguyên nhân chính của sự chênh lệch giữa giá gạo Thái Lan và giá gạoViệt
Nam vẫn là yếu tố chất lượng. Giá gạo Việt Nam cũng tăng dần cùng xu hướng tăng của chất lượng
gạo và quan hệ cung cầu với thị trường lúa gạo thế giới. Khoảng cách giữa giá gạo Việt Nam với giá
gạo Thái Lan đã giảm dần: từ 40 - 55 USD/tấn những năm 1989 - 1994 xuống còn 20 - 25 USD/tấn
những năm 1995 - 2000. Năm 1998 do đồng Batt Thái Lan mất giá, nên giá gạo Việt Nam đã tiếp
cận giá gạo Thái Lan. Do nhu cầu giảm so với cùng kỳ năm 1998 giá thị trường thế giới năm 1999
luôn ở mức thấp, vì vậy nên giá gạo xuất khẩu của Việt Nam không cao, giá xuất khẩu cả năm trung
20
20
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
bình chỉở mức xấp xỉ 221 USD/tấn. Đây là mức giá thấp nhất so với giá trung bình từ năm 1995 trở
lại đây.
Sang năm 2000 tổng lượng xuất khẩu đạt 3,5 triệu tấn, tổng kim ngạch đạt 668 triệu USD, so với
năm 1999 thì lượng giảm 1,17 triệu tấn và giá trị giảm 360 triệu USD. Với kết quả xuất khẩu như
trên, tính toán cho thấy giá xuất khẩu bình quân năm 2000 đạt 188 USD/tấn, thấp hơn mức giá bình
quân năm 1999 là 3USD/tấn và năm 1998 tới trên 87 USD/tấn. Nguyên nhân là do lượng gạo

giao dịch trên thị trường thế giới giảm liên tục từ 25 triệu tấn năm 1999, xuống còn 22,3 triệu tấn
năm 2000. Sự sút giảm liên tục như vậy đã làm cho giá thị trường gạo thế giới giảm mạnh và cạnh
tranh ngày càng gay gắt hơn.
Cuối năm 2000 vàđầu năm 2001 giá gạo thế giới liên tục giảm, nhưng bắt đầu tăng từ tháng 6 đến
tháng 11 năm 2001. Cụ thể giá gạo FOB tại Việt Nam vào tháng 5/2001, loại 5% tấm là 158
USD/tấn, loại 25% tấm là 137 USD/tấn. Song từ tháng 8/2001giá gạo Việt Nam đột ngột tăng, lần
đầu tiên kể từ nhiều năm nay giá gạo Việt Nam đắt hơn giá gạo Thái Lan trên thị trường quốc tế, giá
gạo 5% tấm của Việt Nam giá 175 USD/tấn trong khi đó giá gạo Thái Lan cùng loại là 169 USD/tấn.
Tính đến cuối tháng 12/2001 giá gạo Việt Nam cao hơn trên 20 USD/tấn so với giá gạo xuất khẩu
cùng loại của Thái Lan, trong khi thông thường giá gạo Việt Nam rẻ hơn 15 – 25 USD/tấn. Nguyên
nhân là do trong năm 2001 lũ lụt lại xảy ra ởĐBSCL, mặc dù không gây thiệt hại nhiều tới sản lượng
nhưng việc thu gom, phơi sấy và vận chuyển gạo gặp nhiều khó khăn, đẩy chi phí lên cao. Cùng với
chi phí cao là việc Việt Nam khan hiếm nguồn cung gạo xuất khẩu do các nhà xuất khẩu đã mua gạo
bằng mọi giáđể gấp rút hoàn thành những hợp đồng đã ký với Irăc, Châu Phi, Philippin và Cuba,
trong khi đó nông dân lại không muốn bán thóc ra vì chưa biết tiến triển lũ lụt và sản lượng vụ thu
hoạch sau thế nào.
Bước sang 2002, chất lượng gạo được nâng cao, các loại gạo cao cấp, gạo tám thơm, gạo đồ của
DNTN khi đưa mẫu chào hàng đãđược các công ty nước ngoài đặt mua ngay với giá cao. Năm 2002,
Việt Nam tuy xuất khẩu gạo với khối lượng thấp hơn 2001 nhưng lại thu về giá trị cao hơn.
Như vậy trong cạnh tranh xuất khẩu gạo thì vấn đề chất lượng và giá cả có mối quan hệ hữu cơ
với nhau. Hiện trạng của gạo xuất khẩu trên thị trường thế giới là không khả quan, giá gạo không ổn
định và bị cạnh tranh khốc liệt thường ở mức thấp so với các nước khác đặc biệt là Thái Lan. Điều
này lý giải tại sao kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam chưa tương xứng với khối lượng xuất
khẩu.
Để xuất khẩu đạt hiệu quả cao chúng ta cần cóđầy đủ thông tin, nhu cầu khách hàng, xu hướng biến
động giá cả trên thị trường đồng thời phải thay đổi chiến lược phương thức kinh doanh, cần phải tính
toán nên xuất khẩu một khối lượng nào mà tương ứng với nó là quy môđầu tư tối ưu.
2.3.3.Phương thức thanh toán.
21
21

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
Trong những năm đầu của công cuộc đổi mới đất nước, Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn và thử
thách vì vậy chương trình xuất khẩu gạo của ta chủ yếu làđổi hàng và trả nợ, còn bán theo phương
thức thanh toán L/C chỉở mức độ nhỏ, do đó khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới của Việt
Nam thời gian này rất kém.
Qua nhiều năm xuất khẩu gạo phương thức thanh toán có nhiều tiến bộ, phương thức L/C dần
chiếm tỷ trọng cao hơn vàđã trở thành phương thức thanh toán chủ yếu. Điều đóđã từng bước nâng
cao khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam trên trường quốc tế.
Do khó khăn về thị trường, bạn hàng và giá cả nên trong những năm đầu Việt Nam quay lại thị
trường xuất khẩu thì phương thức đổi hàng vẫn còn chiếm tỷ trọng không nhỏ. Tuy nhiên trong
nhiều trường hợp hiện tượng này lại có tác dụng quan trọng đôí với Doanh nghiệp để có chỗđứng
trên thị trường gạo thế giới. Đến năm 1994 - 1995 thì hai phương thức thanh toán trực tiếp vàđổi
hàng không còn nữa mà thay vào đó là hình thức thanh toán qua L/C, gần như chiếm tỷ trọng tuyệt
đối.
Hiện nay trong phạm vi quy định chung của Nhà nước, phương thức kinh doanh và thanh toán
được vận dụng linh hoạt ở tầm Doanh nghiệp, đảm bảo nguyên tác thu hồi vốn và kinh doanh có
hiệu quả. Hiệp Hội Xuất khẩu lương thực Việt Nam cảnh báo, các Doanh nghiệp tham gia vào thị
trường gạo thế giới muốn làm ăn có lãi và tránh thua thiệt thì cần phải có phương thức kinh doanh và
thanh toán linh hoạt, đa dạng.
Phương thức thanh toán của hoạt động xuất khẩu gạo Việt Nam hiện nay kháđa dạng và linh hoạt
cụ thể là: bán trả chậm, đại lý, gửi bán, đổi hàng, tham gia đấu thầu bán lẻ cho các siêu thị, hợp tác
liên doanh với người tiêu thụ. Kết quảđóđã có tác động tích cực đến hoạt động xuất khẩu gạo của
nước ta.
Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt như hiện nay trên thị trường gạo quốc tế, các Doanh nghiệp
xuất khẩu gạo của Việt Nam đã luôn linh hoạt phương thức thanh toán để chiếm được nhiều thị
trường khác nhau. Ví dụ nhưở thị trường Châu Phi, hiện nay khối lượng gạo Việt Nam được tiêu thụ
nhiều hơn gạo Thái Lan đó là do Việt Nam đã xác định rằng, thị trường này tuy nhập khẩu nhiều gạo
nhưng lại có khả năng thanh toán kém, do đó Việt Nam đãáp dụng phương thức trả chậm, phương
thức trả sau và phương thức tuần hoàn cho thị trường này, nhờ vậy mà gạo Việt Nam cóưu thế hơn
gạo Thái Lan. Hay với thị trường Irắc, ngoài các hợp đồng mua bán gạo thông thường Việt Nam còn

xuất khẩu gạo sang nước này theo chương trình “Đổi dầu lấy lương thực”, qua đóViệt Nam không
chỉ bán được gạo mà còn giữ vững và mở rộng hơn thị trường này.
Trong giai đoạn hiện nay Việt Nam đang nghiên cứu và mở rộng phạm vi thanh toán nhằm đa
dạng hoá phương thức thanh toán. Đây cũng làđiều kiện để thu hút và giữ khách hàng, mở rộng thị
22
22
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
trường xuất khẩu, giúp gạo của Việt Nam có khả năng bán được và phù hợp với những đặc điểm mới
của thanh toán quốc tế.
2.4. Hệ thống tổ chức xuất khẩu gạo.
Từ năm 1989 Việt Nam bắt đầu xuất khẩu gạo với số lượng lớn, nhanh chóng chiếm được vị trí là
một trong những nước xuất khẩu gạo lớn nhất trên thế giới. Xuất khẩu gạo tăng nhanh cả về số
lượng và kim ngạch, chất lượng gạo đã có những tiến bộ. Một trong những yếu tố dẫn đến kết quả
trên là chúng ta đã có cơ chếđièu hành xuất khẩu gạo. Cơ chế này được hoàn thiện liên tục qua từng
năm. Trong đó, Nhà nước thực hiện tổ chức thu mua gạo xuất khẩu thông qua các đầu mối xuất
khẩu, và hạn ngạch xuất khẩu gạo, nhằm điều tiết lượng gạo xuất khẩu.
Nhà Nước phân bổđầu mối cho các tỉnh vùng lúa, Nhà Nước can thiệp trực tiếp vào hoạt động
xuất khẩu gạo nhằm thực hiện nguyên tắc ưu tiên hàng đầu cho mục tiêu an ninh lương thực quốc
gia. Ngoài ra Chính Phủ còn phân bổ hạn ngạch cho các tỉnh vùng lúa, uỷ nhiệm cho lãnh đạo các
tỉnh điều hành và quản lý nhằm đảm bảo cơ chế xuất khẩu gạo được linh hoạt hơn.
Nhiều năm qua đầu mối xuất khẩu gạo là một điểm nóng trong hoạt động xuất khẩu gạo. Thời
gian đầu, nhiều Doanh nghiệp nhà nước tìm mọi cách đểđược trực tiếp xuất khẩu gạo. Nhiều hoạt
động tranh mua tranh bán trong nước thương nhân nước ngoài lợi dụng đểép giá, ép cấp gây tổn hại
lợi ích quốc gia trong xuất khẩu gạo. Nhằm khắc phục tình trạng cạnh tranh tự phát hỗn loạn, năm
1992 Bộ Thương Mại không chỉ quyết định mức giá tối thiểu mà còn cùng Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn chủ trương tinh giảm số doanh nghiệp nhà nước được phép xuất khẩu gạo nhằm
nâng cao trình độ tập trung hoá và chuyên môn hoá xuất khẩu, tăng sức cạnh tranh trên thị trường
thế giới. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện có nhiều trở ngại phức tạp nảy sinh. Tuy Nhà Nước quy
tụđược phần lớn (khoảng 70%) lượng gạo xuất khẩu vào sốít doanh ngiệp đầu mối chính nhưng số
doanh nghiệp nhỏ vẫn còn kháđông. Do đó tổng số doanh nghiệp xuất khẩu gạo vẫn nhiều, thậm chí

còn tăng qua các năm như sau: năm 1989 : 23 đầu mối xuất khẩu gạo, 1991:26, 1992:43, 1993:43,
1994:45, 1996:15, 1997:16, 1998: 33, 1999:40
Sau khi sắp xếp lại hệ thống lương thực quốc doanh thành 2 Tổng Công ty lương thực Trung
Ương vào năm 1995, sang năm 1996 chính phủ lại rà soát kĩ các doanh nghiệp xuất khẩu gạo. Do
vậy lần đầu tiên vào năm 1996 cả nước chỉ còn 15 doanh nghiệp đầu mối xuất khẩu trực tiếp và cũng
là lần đầu tiên đảm bảo xuất khẩu gạo vượt ngưỡng 3 triệu tấn. Đến các năm gần đây sốđầu mối lại
có hướng tăng nhanh và thực tế lại xuất khẩu với không ít bất cập.
Hàng năm Chính phủ có quyết định riêng vềđiều hành xuất khẩu gạo và tiêu thụ lúa gạo. Nhà
nước còn hỗ trợ tài chính mua lúa gạo tạm trữ, lượng mua tạm trữ năm 1999 là 1,5 triệu tấn quy ra
thóc, năm 2000 là 1 triệu tấn quy gạo được hỗ trợ lãi vay Ngân hàng trong 6 tháng. Trong thời gian
23
23
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
gần đây, cùng với quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới, chính sách khuyến khích xuất khẩu, mức
thuế xuất khẩu của Việt Nam đã giảm dần và năm 1999 thuế xuất khẩu gạo được quy định: gạo 25%
tấm thuế suất 0%, các loại khác thuế suất 1%.
Từ cuối năm 1999 đến nay, giá gạo thị trường thế giới liên tục giảm làm cho giá gạo Việt Nam
xuất khẩu cũng phải giảm theo. Để tiêu thụ kịp thời lúa hàng hoá cho nông dân vàđể ngăn chặn tình
trạng giá lúa liên tục xuống thấp, Chính phủ quyết định giao cho tổng công ty lương thục Miền Nam
và công ty kinh doanh xuất khẩu gạo ở các tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long mua tạm trữ 1 triệu tấn
gạo và doanh nghiệp được hỗ trợ lãi vay ngân hàng trong 12 tháng, đồng thời áp dụng các giải pháp
kích cầu và hạn chế cung.
Đến năm 2001 Nhà nước thực hiện bãi bỏ qui định về hạn ngạch xuất khẩu gạo, để bất cứ Doanh
nghiệp nào cóđăng ký kinh doanh trong ngành lương thực cũng có thể xuất khẩu gạo trực tiếp. Bên
cạnh đó Chính phủ còn chủ trương quy hoạch gắn các công ty kinh doanh lương thực xuất khẩu vơí
từng vùng lúa gạo để công ty phối hợp với địa phương có nhiệm vụ bao tiêu sản phẩm, thu mua lúa
cho nông dân, trực tiếp hỗ trợ cho nông dân các yếu tốđầu vào của sản xuất, đảm bảo lợi ích của
người nông dân vàổn định thị trường các doanh nghiệp chế biến kinh doanh gạo đạt tiêu chuẩn xuất
khẩu.
Ngoài ra còn có một số trung tâm giao dịch ở những vùng lúa tập trung được xây dựng để người

sản xuất có thể giao dịch trực tiếp với các doanh nghiệp thu mua lương thực theo phương thức và giá
sàn qui định của Nhà nước.
Mục đích hệ thống tổ chức xuất khẩu gạo này là nhằm làm cho gạo Việt Nam có sức cạnh tranh
hơn trên thị trường thế giới.
2.5. Đánh giá về hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam thời gian qua.
2.5.1. Những thành tựu đạt được.
Tổng cộng 14 năm (1989 – 2002) sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam đãđạt được bốn thành
tựu nổi bật sau:
Thứ nhất: Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà Nước, kinh tế nông nghiệp và nông
thôn nước ta đã có những bước phát triển đáng kể. Sản xuất nông nghiệp tăng trưởng với nhịp độ
cao và kháổn định (tăng bình quân 4,5% một năm). Đặc biệt sản xuất lương thực tăng bình quân
khoảng 1 triệu tấn/năm, từ một đất nước thiếu lương thực, trở thành một nước không chỉ bảo đảm
đầy đủ các nhu cầu tiêu dùng trong nước, mà còn có khối lượng ngày một tăng, là nước đứng thứ 2
(sau Thái Lan) về xuất khẩu gạo.
24
24
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
Thứ hai: Góp phần quan trọng đưa đất nước vượt qua thời kỳ khó khăn, ổn định kinh tế, chính trị
và xã hội, tạo tiền đề bước vào giai đoạn phát triển mới CNH- HĐH. Từ năm 1989 đến nay, xuất
khẩu gạo của Việt Nam đãđạt được những thành tựu rực rỡ. Theo đánh giá tổng quát của các cơ
quan chức năng mặc dù trong cùng thời gian qua tỷ lệ tăng dân số vẫn ở mức khá cao với bình quân
từ 1,8 - 2%/năm, đồng thời những năm gần đây những thiệt hại do thiên tai bão lụt gây ra nặng nề
trên diện rộng song chúng ta vẫn có lượng gạo dư thừa cho xuất khẩu hằng năm. Những kết quả xuất
khẩu cho thấy đã tiêu thụ hết lúa hằng năm của nông dân khiến nông dân phấn khởi đẩy mạnh việc
sản xuất lương thực.
Thứ ba: Sau 14 năm xuất khẩu gạo (1989 - 2002), lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam đãđạt mức
trên 35 triệu tấn. Thu nhập từ xuất khẩu gạo đã gần 8 tỷ USD dù giá gạo thị trường thế giới không
ổn định. Xuất khẩu gạo có vai trò quan trọng đối với sự phát triển nông nghiệp – nông thôn, những
năm qua xuất khẩu gạo góp phần khai thông đầu ra cho sản phẩm thóc của nông dân ở thời vụ thu
hoạch, ngăn chặn sựép giá của tư thương nhằm giữ giá cho nông dân có lợi nhuận 25 - 40%. Do vậy

chính xuất khẩu gạo đang góp phần tích cực trong việc thúc đẩy sản xuất, thúc đẩy nông dân canh
tác hơn nữa.
Thứ tư: Xuất khẩu gạo góp phần tạo thêm việc làm ở khu vực nông thôn, sản xuất và dịch vụ
xuất khẩu gạo mở rộng nhanh chóng đang thu hút nhiều lao động nông thôn vào các khâu xay xát,
chế biến, kho tàng vận chuyển…Xuất khẩu gạo khai thác được lợi thế về phân công lao động, tranh
thủđược cơ hội trên thị trường gạo thế giới, có lợi cho người sản xuất và xuất khẩu gạo. Do vậy xuất
khẩu gạo mang lại nguồn ngoại tệ lớn cho tích luỹ và tiêu dùng, cải thiện đời sống và xoáđói giảm
nghèo. Đời sống ở nông thôn không ngừng được nâng cao, bình quân thu nhập năm 1998 đạt 9,8
triệu đồng/hộ/năm, 58% số hộ có máy thu hình. Tuổi thọ bình quân năm 1990 là 65 tuổi thìđến năm
1999 là 67 tuổi. Tỷ lệ hộđói nghèo giảm bình quân 2%/1 năm. Hộ giàu tăng từ 8,08% năm 1990 lên
20% năm 2000.
2.5.2. Hạn chế và nguyên nhân.
Bên cạnh những thành tựu đạt được hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam cũng có những hạn
chế như sau:
2.5.2.1.Thị trường xuất khẩu:
Trong thời gian qua, thị trường xuất khẩu của Việt Nam vẫn là thị trường có sức mua thấp thiếu
tính bền vững, tính rủi ro cao. Thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam chủ yếu vẫn là thị trường các
nước trong khu vực và thị trường Châu Á chiếm đến 6% đến 65% kim ngạch xuất khẩu. Thị trường
xuất khẩu tuy nhiều nhưng không vững chắc, gạo trong nhiều thời điểm còn phải xuất qua trung
gian, nên bịép cấp và bị thua thiệt về giá. Hơn nữa thị trường sức mua thấp hoặc tái chế, tái xuất
không phù hợp với định hướng chiến lược xuất khẩu các sản phẩm có giá trị gia tăng cao của Việt
25
25

×