Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Đề tài " Lạm phát ở Việt Nam " pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.3 KB, 16 trang )

Luận văn
Lạm phát ở Việt Nam
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 2
I.Lạm phát

2
1.Định nghĩa

2
2 Các loại lạm phát

2
II.Nguyên nhân gây ra lạm phát

3
III.Hậu quả của lạm phát 4
1. Tác động tích cực của lạm phát 4
2. Tác động tiêu cực của lạm phát 5
IV. Lạm phát ở Việt Nam thời kỳ 1988 – 1991 7
1. Phân tích, đánh giá sơ bộ tình hình lạm phát trong giai đoạn 1988 -
1991 7
2. Một số biện pháp được Việt Nam áp dụng để kiềm chế lạm phát
trong thời kỳ này 9
V.Một số biện pháp kiềm chế lạm phát 9
1. Siết chặt cung tiền tệ 9
2. Kiềm chế giá cả 10
3. Ấn định mức lãi suất cao 10
2
2


4. Hạn chế tăng tiền lương 10
5. Thực hiện một chiến lược thị trường cạnh tranh hoàn hảo 10
6. Biện pháp lạm phát chống lạm phát 10
KẾT LUẬN 11
3
3
LỜI MỞ ĐẦU
Trong lịch sử của mình, các nước trên thế giới đều trải qua lạm phát
với những mức độ khác nhau. Do mỗi quốc gia có một nền kinh tế và chế độ
chính trị – xã hội riêng nên sự tác động của lạm phát lên từng quốc gia có
mức độ khác nhau. Hầu hết các nước trên thế giới đều đã từng bị lạm phát
làm điêu đứng và biết được lạm phát có sức huỷ hoại nền kinh tế ghê gớm
như thế nào nên các nước đều rất quan tâm đến tình hình lạm phát của nước
mình. Lạm phát đã trở thành một hiện tượng phổ biến ở trên thế giới và là
mục tiêu kinh tế vĩ mô của các nước. Việc tăng hay giảm tỷ lệ lạm phát đều
có những ảnh hưởng tới các hoạt động của nền kinh tế của đất nước.
Lạm phát thường được phân loại theo mức độ gia tăng của nó.
Nguyên nhân gây ra lạm phát có rất nhiều như do chi phí đẩy, bội chi ngân
sách, … . Do vậy, các biện pháp để kiềm chế lạm phát cũng rất phong phú.
Mỗi biện pháp được đưa ra để kiềm chế lạm phát đều phải xuất phát từ
những nguyên nhân làm cho lạm phát gia tăng riêng. Vì một số lợi ích kinh
tế – xã hội mà lạm phát đem lại nên các nước thường đưa ra các chính sách
để kiềm chế lạm phát ở mức thấp chứ không triệt tiêu hoàn toàn lạm phát.
4
4
NỘI DUNG
I. LẠM PHÁT
1. Định nghĩa
Lạm phát là hiện tượng phát hành thừa tiền giấy so với lượng cần thiết
cho lưu thông làm cho giá cả mọi thứ hàng hoá tăng lên. Lạm phát càng cao

thì đồng tiền mất giá càng nhiều.
2. Các loại lạm phát
Có nhiều cách phân loại lạm phát, nhưng người ta thường phân biệt
lạm phát thành 3 loại: lạm phát vừa phải, lạm phát phi mã và siêu lạm phát.
a. Lạm phát vừa phải
Lạm phát vừa phải (lạm phát với một con số 1- 9%) nhìn chung là
không ảnh hưởng nhiều tới đời sống của người dân cũng như toàn nền kinh
tế. Trong điều kiện lạm phát vừa phải, giá cả tăng tương đối chậm và không
khác mức bình thường bao nhiêu, lãi suất thực tế và lãi suất danh nghĩa
chênh lệch nhau không đáng kể, sự ảnh hưởng tới khả năng tiêu dùng của
người dân là rất thấp.
b. Lạm phát phi mã
Khi xuất hiện lạm phát phi mã thì sự ảnh hưởng tới đời sống của
người dân cũng như nền kinh tế bắt đầu tăng mạnh thậm chí là rất đáng lo
ngại. Lạm phát phi mã xuất hiện khi mà giá cả tăng với tỉ lệ hai hoặc ba con
số như 40%, 120%, 300% một năm. Đồng tiền nhanh chóng bị mất giá, nhân
dân tránh giữ nhiều tiền mặt mà tích trữ hàng tiêu dùng, cho vay với lãi suất
cao hơn bình thương hoặc đầu tư vào bất động sản, đổi lấy vàng và ngoại tệ
mạnh làm cho nền kinh tế rối loạn, mất ổn định. Vì vậy lạm phát phi mã có
tác động rất tiêu cực đối với đời sống của người dân cũng như toàn nền kinh
tế.
c. Siêu lạm phát
5
5
Lạm phát phi mã đã gây ra trở ngại đối với nền kinh tế nhưng vẫn có
thể khắc phục được, nhưng khi đã xảy ra siêu lạm phát tức là mức lạm phát
rất lớn, lạm phát với nhiều con số làm cho nền kinh tế khốn đốn. Các chính
sách được đưa ra để khắc phục lạm phát gần như vô hiệu do căn bệnh lạm
phát đã trở nên quá trầm trọng với tốc độ giá cả tăng nhanh vùn vụt không
thể kiểm soát nổi dẫn đến đồng tiền cũng mất giá rất nhanh chóng.

II. NGUYÊN NHÂN GÂY RA LẠM PHÁT
Lạm phát là kết quả của tổng hoà nhiều nguyên nhân kinh tế xã hội.
Mỗi loại lạm phát có những nguyên nhân của nó. Nguyên nhân lạm phát của
một nền kinh tế phát triển có hiệu quả, khác với nguyên nhân lạm phát của
một nền kinh tế suy thoái không có hiệu quả. Không những thế, lạm phát ở
các nước tư bản chủ nghĩa phát triển khác với lạm phát ở các nước đang phát
triển, cũng như là ở các nước có nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung cao.
Song dù khác nhau như thế nào đi nữa, các cuộc lạm phát đều có những
nguyên nhân có tính chất chung như:
- Những nguyên nhân có liên quan đến chính sách của nhà nước:
+ Sự kém hiệu quả của các chính sách điều tiết vĩ mô mà điển hình là
việc phát hành tiền quá mức là một trong những nguyên nhân gây ra lạm
phát. Trong thập niên 1980, Việt Nam đã bị lạm phát do thâm hụt ngân sách
của chính phủ ngày càng cao và do chính phủ bù đắp cho khoản thâm hụt đó
bằng cách phát hành tiền.
+ Chính sách thuế không hợp lý, không đảm bảo được các nguồn thu.
+ Chính sách cơ cấu không hợp lý, khuyến khích các ngành có chi
phí cao.
- Những nguyên nhân do chi phí sản xuất gia tăng.
+ Chi phí quản lý
+ Tiền lương lao động
+ Nguyên liệu, vật tư. (Một ví dụ điển hình là cú sốc dầu mỏ năm
1973-1974 và 1979-1980. Giá dầu từ 2,9 đôla vào cuối năm 1972 đã được
6
6
OPEC đẩy lên đến 9 rồi đến 13 đôla vào năm 1974 và 30 đôla vào năm
1980. Một số nước nhập khẩu dầu mỏ nhiều đã xảy ra lạm phát và bị suy
thoái kinh tế).
- Những nguyên nhân liên quan đến điều kiện tự nhiên (bất khả
kháng) như: thiên tai, lũ lụt, hạn hán, động đất, khiến cung sụt giảm đột ngột

so với cầu.
Các nguyên nhân gây ra lạm phát rất đa dạng và bao quát trong cả lĩnh
vực cung cầu, cả sản xuất, lưu thông, phân phối và tiêu dùng, cả chính sách
tài chính- tiền tệ lẫn các yếu tố tâm lý, cả nhân tố bên trong lẫn các nhân tố
bên ngoài, các nhân tố khách quan và chủ quan…, mà tuỳ theo điều kiện cụ
thể, lạm phát nảy sinh với tư cách là kết quả trực tiếp và gián tiếp của tổ hợp
các nguyên nhân trên hoặc chỉ do vài nguyên nhân trong số đó.
III. HẬU QUẢ CỦA LẠM PHÁT
1. Tác động tích cực của lạm phát
Nếu chúng ta có thể giữ mức lạm phát với mức độ vừa phải (thường là
2% đến 5%/ năm ở những nước kém phát triển và dưới 10%/ năm ở những
nước kém phát triển), và với việc “chỉ số hoá” lạm phát cùng các chỉ số kỹ
thuật tương ứng khác thì lạm phát sẽ đem lại một số lợi ích:
- Lạm phát tựa như dầu mỡ giúp “Bôi trơn” nền kinh tế. Trong điều
kiện nào đó, có thể thông qua lạm phát từ 2-4%/ năm để bỏ ngỏ khả năng có
những lãi suất thực âm, có tác dụng kích thích tiêu dùng, vay nợ đầu tư, do
đó giảm bớt thất nghiệp xã hội, kích thích tăng trưởng kinh tế. Lạm phát, phá
sản và thất nghiệp dường như là những căn bệnh đặc trưng vốn có của mọi
nền kinh tế thị trường và giữa chúng có mối quan hệ hữu cơ với nhau (Lạm
phát tỷ lệ nghịch với thất nghiệp và tỷ lệ thuận với tăng lương).
- Cho phép chính phủ có thêm khả năng lựa chọn các công cụ kích
thích đầu tư vào những lĩnh vực kém ưu tiên thông qua việc mở rộng tín
dụng và tài trợ lạm phát. Giúp phân phối lại thu nhập và các nguồn lực xã
hội theo các định hướng mục tiêu và trong khoảng thời gian nhất định có
7
7
chọn lọc. Điều này sẽ càng cần thiết khi có sự suy thoái chung và lạm phát
đang ở mức thấp như tình hình kinh tế thế giới thời gian 1997-1998. Theo
Palu Krugman, nhà kinh tế mỹ, thì các ngân hàng trung ương cần duy trì tỷ
lệ lạm phát ở mức 3-4% để có lợi cho sự phát triển kinh tế và giảm tỷ lệ thất

nghiệp.
2. Tác động tiêu cực của lạm phát
Nếu các nước mà để xảy ra lạm phát phi mã hoặc siêu lạm phát thì
lạm phát sẽ tác động tiêu cực đối với nền kinh tế. Lạm phát có thể gây ra
những tác động như sau:
a) Tác động làm phân phối lại thu nhập
Việc phân phối thu nhập thường kém đồng đều trong các thời kỳ lạm
phát. Một số người nắm giữ các hàng hoá có giá cả tăng đột biến trở nên
giàu có nhanh chóng, và ngược lại, những người có các hàng hoá, tài sản mà
giá cả không tăng hoặc tăng chậm bị nghèo đi, mức lương thực tế cũng sụt
giảm làm tổn hại đến mức sống thực tế của người có thu nhập thấp và cố
định. Khi dự đoán có lạm phát các người ta thường dự trữ vàng, đầu tư vào
bất động sản và ngồi chờ lạm phát xảy ra. Ví như trong khoảng thời gian
1987-1988 và đầu năm 1989 nhiều người đầu cơ vàng và bất động sản ở Việt
Nam đã giàu lên nhanh chóng. Còn những người làm công ăn lương thì
nghèo đi cũng nhanh chóng như vậy. Khi giá vàng bị đẩy lùi trở lại kẻ dự
trữ vàng vẫn không bị thiệt hại gì bởi vì giá vàng so sánh với các loại hàng
hoá cao cấp (tivi, tủ lạnh,v…v…) và ngoại tệ thì vẫn không suy giảm chút
nào cả. Trong thời kỳ này những người gửi tiết kiệm bị thiệt nhiều nhất.
b) Tác động đến đời sống người dân
- Những người làm công ăn lương tự do:
Những người làm việc tự do, thu nhập của họ chịu sự chi phối của tốc
độ gia tăng của lạm phát rất rõ nét:
Ví dụ: Trong năm 1990, một người làm công tự do, nếu có ai thuê với
mức tiền công 3.000đ đến 3.500đ/ ngày , họ sẽ chấp nhận làm việc ngay. Bởi
8
8
vì, tổng thu nhập bình quân của người lao động phổ thông trong tháng
khoảng 90.000đ đến 100.000đ/ tháng. Nhưng đến năm 1995, do lạm phát
tăng 2,6694 lần, nếu cứ giữ mức thuê cũ sẽ không có ai làm. Do đó, tiền

công phải được nâng lên từ 6.000đ đến 10.000đ/ ngày. Bởi vì tổng thu nhập
bình quân 1 tháng của người lao động phổ thông từ 180.000 đến 300.000/
tháng, đủ đảm bảo mức sống tối thiểu so với thời điểm giá của năm 1995
(gần tương ứng với tốc độ tăng lạm phát từ năm 1991-1995 là: 2,6694 x
100.000đ/ tháng của năm 1990 = 266.940đ/ tháng của năm 1995 ).
- Đối với công nhân viên chức nhà nước, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ
trang, những người nghỉ hưu, nghỉ mất sức hưởng trợ cấp xã hội với số tiền
lương cố định hàng tháng.
Nếu hàng tháng những người này không được trợ cấp tiền trượt giá,
mức thu nhập của các viên chức sẽ giảm dần theo tốc độ tăng của lạm phát
hàng năm. Với tốc độ gia tăng vùn vụt của giá cả mà đồng lương của họ lại
không đổi làm cho mức sống của họ bị sụt giảm.
C) Tác động đến sản xuất kinh doanh
Lạm phát làm biến dạng hành vi kinh doanh, đặc biệt là hành vi đầu
tư, do làm mất khả năng tính toán hợp lý về lợi nhuận. Lạm phát kìm hãm
các đầu tư dài hạn, nhất là trong lĩnh vực sản xuất, kích thích đầu tư ngắn
hạn thương là vào các các tài sản mang lại lãi vốn, có tính đầu cơ (các bất
động sản, kim loại quý…), gây ra tình trạng khan hiếm hàng hoá không bình
thường và lãng phí. Các nhà kinh doanh tiêu phí nhiều nỗ lực vào hoạt động
dự báo và đầu cơ theo tỷ lệ lạm phát hay ngăn ngừa những bất ổn kèm theo.
Vì lạm phát làm rối loạn chức năng thước đo giá trị của tiền tệ, nên
lạm phát bóp méo, làm biến dạng các yếu tố và tín hiệu thị trường, làm cho
toàn bộ các hoạt động các toàn bộ các hoạt động kinh tế- xã hội, đặc biệt là
các hoạt động sản xuất - kinh doanh không thể tiến hành bình thường được.
D) Tác động đến toàn nền kinh tế
9
9
Lạm phát làm suy yếu, thậm chí phá vỡ thị trường vốn và tín dụng. Sự
bất ổn đinh giá cả trong tương lai làm suy giảm lòng tin, động cơ và gây khó
khăn cho sự lựa chọn các quyết định của cả người gửi tiền lẫn của các thể

chế tài chính - tín dụng; lạm phát có thể gây tác động xấu đến các ngân hàng
tiết kiệm, cộng đồng những người để dành, thị trường trái phiếu, các quỹ an
sinh xã hội, hưu trí, bảo hiểm và các công cụ nợ của chính phủ. Lạm phát
thường tạo ra tình huống lãi suất thực tế âm, khiến tiền tiết kiệm giảm sút và
chuyển hướng ra đầu tư sản xuất. Bởi vậy, lạm phát thường kèm theo suy
thoái kinh tế.
Lạm phát làm tăng nguy cơ phá sản do vỡ nợ và làm tăng chi phí dịch
vụ nước ngoài tính bằng ngoại tệ của cả doanh nghiệp và chính phủ, do lạm
phát thường kéo theo việc nâng tỷ giá và lãi suất đồng bản tệ với tư cách là
các giải pháp nhằm thích nghi và kiềm chế lạm phát.
Một nghiên cứu mới đây của ngân hàng thế giới (WB) về quan hệ
giữa lạm phát và tăng trưởng : nếu lạm phát vừa phải hoặc tăng dần đến dưới
25%/ năm, thì tốc độ tăng GDP bình quân vẫn duy trì tích cực (nhất là thời
kỳ 1960 – 1972 khi có sức ép đầu tư mở rộng của thời kỳ khôi phục sau
Chiến tranh thế giới thứ hai) hoặc chỉ giảm nhẹ; tốc độ tăng GDP bình quân
giảm mạnh. Lạm phát thực sự nguy hiểm ở mức 40%/ năm và cao hơn, đồng
thời kéo dài nhiều năm. Nhìn chung, lạm phát cao là nguyên nhân dẫn đến
tăng trưởng thấp. Thực tiễn các nước đang phát triển những năm 80 cho thấy
rõ điều đó.
Chương trình nghiên cứu của Ngân hàng canada đối với 62 nước
trong vòng 25 năm gần đây khẳng định, việc làm giảm lạm phát ở các nước
đi 1% sẽ làm tỷ lệ tăng trưởng hàng năm tăng lên 0,1%. Tổ chức hợp tác và
Phát triển kinh tế (OECD) cũng đưa ra kết quả nghiên cứu của mình: nếu
một nước giảm được lạm phát từ 5% xuống xấp xỉ 0% thì trong vòng 20
năm tổng sản lượng sẽ tăng thêm 10% so với trường hợp không có lạm phát.
IV. LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM THỜI KỲ 1988 – 1991
10
10
1. Phân tích, đánh giá sơ bộ tình hình lạm phát trong giai đoạn
1988-1991

Đây là thời kỳ đầu tiên lạm phát được chính thức thừa nhận bằng nghị
quyết số 11 của Uỷ ban Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam về đấu tranh
với lạm phát. Việt Nam bước vào thời điểm thử thách khó khăn nhất của đất
nước kể từ năm 1975.
Năm Tốc độ cả năm Năm Tốc độ cả năm
1988
1989
1990
1991
308,2
134,9
167,5
167,6
1992
1993
1994
1995
117,4
105,2
114,5
112,7
Chỉ số tăng giá bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng trên thị
trường trong thời kỳ 1988-1995
Nguồ
Nguồn tổng cục thống kê và tạp chí “thông tin kinh tế kế
hoạch” tháng 5-1995
Lạm phát ở Việt Nam, lạm phát chuyển từ dạng “ẩn” sang dạng “mở”
với tốc độ cao và không ổn định trong suốt cả một thời kỳ dài tới hàng chục
năm. Lạm phát xảy ra trong hoàn cảnh mất ổn định của nền kinh tế, đồng
thời chính là tác nhân khá mạnh gây ra sự bất ổn định đó. Lạm phát được

tăng cường bởi sự thiếu hụt ngân sách, mất cân đối cán cân thanh toán, ngoại
thương, nợ nước ngoài nặng nề.
Lạm phát đó như là sản phẩm của cơ chế hành chính, mệnh lệnh, duy
ý chí. Lạm phát của một nền kinh tế kém phát triển và đang trong giai đoạn
chuyển đổi cơ chế, nơi độc quyền nhà nước còn mang đậm tính chất phi kinh
tế và được dung dưỡng bởi những chỉ thị của nhà nước và tồn tại thống trị
phổ biến trong tất cả các lĩnh vực.
11
11
Ngoài ra, lạm phát ở Việt Nam còn diễn ra trong một nền kinh tế đóng
cửa, phụ thuộc một chiều vào các nguồn viện trợ bên ngoài từ các nước xã
hội chủ nghĩa. Luồng viện trợ từ bên ngoài thì chủ yếu tập trung cho thực
hiện các dự án công nghiệp lớn, chậm hoàn vốn và đòi hỏi chi phí đối ứng to
lớn về vật chất và nhân lực trong nước càng làm tăng tình trạng thiếu hụt
ngân sách và tăng gánh nặng nợ nần Nhà nước kinh niên ở Việt Nam. Sự
thiếu hụt ngân sách còn bị làm sâu sắc thêm bởi những chi phí không nhỏ để
khắc phục hậu quả của những cuộc chiến tranh kéo dài ( bao gồm cả tiền
nuôi dưỡng quân đội khá đông đảo, trợ cấp hưu trí, trợ cấp nạn nhân chiến
tranh) và của những trận thiên tai thường xuyên hàng năm.
Trong suốt thời kỳ này, toàn bộ nền kinh tế bị chấn động mạnh, lưu
thông hàng hoá và tiền tệ bị rối loạn; các hoạt động kinh tế – xã hội trở nên
bất bình thường và định hướng vào các hoạt động mang tính đầu cơ. Tình
trạng phá sản và hoạt động cầm chừng của các doanh nghiệp là phổ biến.
Đời sống công nhân viên chức và những người có thu nhập thấp bị giảm sút
nghiêm trọng. Lạm phát lúc này thực sự là cơn bão có sức phá hoại khủng
khiếp và toàn diện đến đời sống kinh tế – xã hội và cả chính trị của đất nước.
2. Một số biện pháp được Việt Nam áp dụng để kiềm chế lạm phát
trong thời kỳ này
a. Nâng lãi suất tiền gửi và tiền cho vay tín dụng
Từ 1/ 4/ 1989, lãi suất tiền gửi thông thường vào ngân hàng đã được

tăng lên đến 9%/tháng, còn lãi suất tiền gửi có kỳ hạn 3 tháng là 12%/tháng
trong khi tỷ lệ lạm phát là 3,3%/tháng.
b. Thực hiện cơ chế giá cả thị trường bằng liệu pháp sốc có điều tiết.
c. Mở rộng quyền tự chủ kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước
và cho phép khu vực phi nhà nước tự do kinh doanh trong các lĩnh vực kinh
tế khác nhau.
d. Khuyến khích mở mang hoạt động xuất nhập khẩu, trước hết là
nhập khẩu những hàng tiêu dùng và máy móc vật tư khan hiếm.
12
12
Những biện pháp trên cũng đã nhanh chóng phát huy được tác dụng
một cách nhanh chóng với sự thành công của việc kéo được mức giá hàng
tiêu dùng – dịch vụ từ mức 3 con số của những năm 1986, 1987 và 1988
xuống chỉ còn ở mức 34,7% trong cả năm 1989.
V. MỘT SỐ BIỆN PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT
1. Siết chặt cung tiền tệ
Ngân hàng trung ương thắt chặt cung tiền tệ bằng các biện pháp:
- Nâng lãi suất tín dụng.
- Biện pháp phong toả các loại giá, kể vả phong toả phụ phí được áp
dụng khi chống lạm phát cấp bách, thường chỉ kéo dài 3 đến 6 tháng.
2. Kiềm chế giá cả
Để chống lại sự tăng giá của hàng hoá Nhà nước có thể thực hiện
chính sách kiềm giữ giá cả bằng nhiều biện pháp như:
- Nhập hàng hoá của nước ngoài để bổ sung cho khối lượng hàng hoá
trong nước tạo ra sự cân bằng cung cầu hàng hoá để kìm giữ giá.
- Xuất kho dự trữ vàng và ngoại tệ bán cho công chúng. Đối với các
nước nghèo thì biện pháp này khó thực hiện do khối lượng dự trữ vàng và
ngoại tệ của các nước này thường thấp.
- Kiểm soát giá cả: Nhà nước ấn định mức giá và kiểm soát giá. Biện
pháp này chỉ có tác động nhất thời và trong cơ chế thị trường, Nhà nước khó

lòng có thể kiểm soát được mức giá.
3. Ấn định mức lãi suất cao
Nhà nước ấn đinh mức lãi suất tiền gửi tăng lên để thu hút bớt khối
lượng tiền trong lưu thông. Khi mức lãi suất tiền gửi tăng lên các người có
tiền sẽ thấy có lợi khi gửi tiền vào ngân hàng.
4. Hạn chế tăng tiền lương
Ở đây là có sự tự nguyện giảm tiền lương. Sự gia tăng tiền lương có
thể sẽ đẩy chi phí sản xuất tăng lên và do đó giá cả tăng lên. Tiền lương tăng
13
13
lên có nghĩa là khối lượng tiền trong lưu thông tăng lên. Vì vậy, việc hạn chế
tăng tiền lương là cần thiết để giảm lạm phát.
5. Biện pháp lạm phát chống lạm phát
Nhà nước tăng việc phát hành tiền để chi phí cho việc mở rộng đầu tư,
sản xuất và hy vọng chúng mang lại hiệu quả để chặn đứng lạm phát. Tuy
nhiên, việc đầu tư phải mang lại hiệu quả chắc chắn. Nếu không nó sẽ càng
đẩy lạm phát lên cao hơn nữa.
6. Thực hiện một chiến lược thị trường cạnh tranh hoàn hảo
Việc cạnh tranh hoàn hảo sẽ tạo ra một sự giảm giá tất yếu (do cạnh
tranh). Cạnh tranh giúp thúc đẩy các nhà sản xuất cải tiến kỹ thuật, cải tiến
quản lý và do đó chi phí sản xuất sẽ giảm đi dẫn đến giá cả hàng hoá sẽ giảm đi.

KẾT LUẬN
Lạm phát ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển kinh tế của một đất nước.
Nếu chúng ta không khắc phục được thì nó sẽ làm cho nền kinh tế có thể sẽ
lâm vào khủng hoảng trầm trọng, tăng trưởng âm. Không có phương thức
chung duy nhất nào cho điều trị căn bệnh lạm phát ở các nước, các nền kinh
tế khác nhau, bao gồm cả nền kinh tế chuyển đổi bởi vì lạm phát ở mỗi nước
có do những nguyên nhân khác nhau xuất phát từ hoàn cảnh của mỗi nước.
Tuy nhiên, các chính sách chống lạm phát cần phải được thực hiện theo một

nguyên tắc chung đó là: các biện pháp chống lạm phát cần phải nằm trong
tổng thể, đồng bộ, nhất quán và triệt để và chống nguy cơ tái lạm phát trong
tương lai. Chúng ta cũng không nên quá nhấn mạnh hoá tới việc đấu tranh
với lạm phát vì nó có thể dẫn đến suy thoái kinh tế. Lạm phát ở mức thấp
vừa phải và được kiểm soát sẽ không nguy hiểm, thậm chí là lành mạnh và
cần thiết cho tăng trưởng kinh tế.
Nước ta là một nền kinh tế mới chuyển đổi và cũng đạt được một số
thành tựu trong việc kiềm chế lạm phát và giữ mức tăng trưởng cao. Tuy
14
14
nhiên để đảm bảo sự tăng trưởng bền vững cần: một mặt, coi trọng sử dụng
các kinh nghiệm và công cụ kiềm chế lạm phát có tính phổ biến trên thế giới
như tôn trọng yêu cầu của quy luật lưu thông tiền tệ; không phát hành tiền
bù đắp thâm hụt ngân sách… mặt khác, cần đặc biệt lưu ý đến sự phát sinh
và tác động của những chiếc bẫy lạm phát, hay tính hai mặt của những giải
pháp và công cụ đấu tranh với lạm phát, cần tuỳ theo những mục tiêu kinh tế
– xã hội ưu tiên trong từng thời kỳ cụ thể của quá trình cải cách thị trường
mà cân nhắc sử dụng những biện pháp chống lạm phát với những điều chỉnh
cụ thể, linh hoạt cần thiết.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Tài Chính – Trường Đại học Quản Lý Và Kinh Doanh Hà
Nội
2. Lý thuyết lạm phát, giảm lạm phát và thực tiễn ở Việt Nam – Nguyễn
Minh Phong
3. Tiền và hoạt động Ngân hàng – Lê Vinh Danh
4. Báo Tin tức số 23/2004
5. Báo Thanh Niên 34/2003
15
15
6. Trang web:


16
16

×