Tải bản đầy đủ (.pdf) (40 trang)

Ảnh hưởng của văn học chữ Hán pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.71 KB, 40 trang )

Ảnh hưởng của văn học chữ Hán Trung Quốc đối với thơ ca
dân gian người Việt


1. Vài nét về văn học của người Việt

Văn học Việt Nam là nền văn học của nhiều dân tộc, trong đó văn
học của người Việt (Kinh) đóng vai trò rất quan trọng. Văn học
của người Việt có hai bộ phận: văn học dân gian và văn học cao
nhã (tức văn học viết). Văn học dân gian ra đời sớm hơn, dồi dào
về số lượng, đa dạng về thể loại. Văn học cao nhã chính thức
được xây dựng từ thế kỷ X trở đi. Từ thế kỷ X đến đầu thế kỷ XX,
trong bộ phận văn học cao nhã, xét về mặt văn tự, có hai loại tác
phẩm: một loại viết bằng chữ Hán, một loại viết bằng chữ Nôm.
Các tác giả nổi tiếng như Nguyễn Trãi (1380-1442), Đoàn Thị
Điểm (1705-1748), Nguyễn Du (1765-1820), Hồ Xuân Hương (thế
kỷ XVIII-XIX), Cao Bá Quát (1808-1855), Nguyễn Khuyến (1835-
1909) đều sử dụng cả chữ Hán và chữ Nôm khi sáng tác. Cả văn
học chữ Hán và văn học chữ Nôm của người Việt đều chịu ảnh
hưởng của văn học dân gian. Có thể dẫn ra tập truyện viết bằng
chữ Hán Truyền kì mạn lục được sáng tác vào thế kỷ XVI của
Nguyễn Dữ và bài thơ chữ Nôm Thác lời trai phường nón của
Nguyễn Du làm minh chứng cho nhận xét này.

Văn học chữ Hán và chữ Nôm của người Việt đều chịu ảnh
hưởng đậm nét của văn học Trung Quốc: từ tư liệu, điển cố văn
chương, thể thơ, thể văn đến cả lối khắc bản gỗ để in sách.

Văn học dân gian của người Việt cũng chịu ảnh hưởng của văn
học chữ Hán Trung Quốc, văn học chữ Hán của người Việt và
văn học chữ Nôm. Trong khuôn khổ của chủ đề hội thảo, ở báo


cáo này, chúng tôi chỉ bàn về ảnh hưởng của văn học chữ Hán
Trung Quốc đối với thơ ca dân gian người Việt.

2. Hai dạng ảnh hưởng trực tiếp và ảnh hưởng gián tiếp của
văn học Trung Quốc đối với thơ ca dân gian người Việt

2.1. Ảnh hưởng trực tiếp

Thơ ca dân gian người Việt (còn gọi là ca dao) được sáng tác từ
rất sớm, song việc ghi chép lại mới chỉ được tiến hành từ cuối thế
kỷ XVIII trở lại đây. Căn cứ vào những tài liệu đã sưu tầm được,
hiện có khoảng 13.000 bài ca dao. Ca dao người Việt có khi chịu
ảnh hưởng của văn học Trung Quốc một cách trực tiếp. Thí dụ,
đây là lời của một chàng trai ở Nam Bộ:

Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền
Ai hỏi đón chi đó giống in tiếng con bạn hiền
Đây anh lo phản mại kiếm tiền nuôi thân(1).

Hai dòng đầu của bài ca dao là hai câu thơ trong bài Phong Kiều
dạ bạc (Đêm đỗ thuyền ở Phong Kiều) của Trương Kế (đời
Đường), có nghĩa là: Ngoài thành Cô Tô có ngôi chùa Hàn Sơn,
nửa đêm tiếng chuông vẳng đến thuyền khách. Hai dòng này gợi
lên tính chất khuya khoắt về mặt trời gian và chỉ liên hệ với hai
dòng sau của bài ca dao về mặt vần (thuyền vần với hiền). Có thể
nói đây là trường hợp vận dụng văn học chữ Hán không thật
nhuần nhuyễn, bởi vì xét cho kĩ nội dung giữa hai dòng đầu với
hai dòng sau không có mối liên hệ hữu cơ. Nhiều nhà nghiên cứu
đã nhận xét rằng, trong các cuộc hát đối đáp ngày trước, nhiều

câu mở đầu chỉ có tính chất bắt vần đưa đẩy để cho cuộc hát
không bị gián đoạn.

Một thí dụ khác, ở bài ca dao sau, tác giả dân gian đã sử dụng
các điển tích Trung Hoa rất thành công trong việc thể hiện nội
dung bài ca:

Chẳng thà em chịu đói chịu rách
Học theo cách bà Mạnh, bà Khương
Không thèm như chị Võ Hậu đời Đường
Làm cho bại hoại cang thường hư danh(2).
Bài ca dao đã nhắc đến nhiều điển tích văn học Trung Quốc:

+ Bà Mạnh: Mạnh mẫu, là thân mẫu Mạnh Tử (372-289 trước
Công nguyên). Bà Mạnh là người hiền đức.

+ Bà Khương: Khương Hậu, vợ hiền của Chu Tuyên Vương.
Tuyên Vương thường ngủ muộn, Khương Hậu muốn can ngăn
liền bỏ trâm cài đầu, ngọc đeo tai rồi tự giam mình trong cung để
chịu tội (ý nói lỗi của Tuyên Vương là do mình). Tuyên Vương
cảm động, từ bỏ thói xấu, chuyên cần công việc.

+ Võ Hậu: Võ Tắc Thiên sinh năm 662, vợ Đường Cao Tông. Khi
Cao Tông chết, bà lập và phế hai vua rồi sau tự làm vua.

2.2. Ảnh hưởng gián tiếp

Ca dao người Việt còn chịu ảnh hưởng của văn học Trung Quốc
một cách gián tiếp. Quá trình này diễn ra như sau: Lúc đầu
những điển tích, tên đất, tên người của tác phẩm văn học Trung

Quốc đi vào những tác phẩm lớn của văn học viết của người Việt,
sau đó các tác giả thơ ca dân gian người Việt đã tiếp thu những
điển tích này. Thí dụ, Kim Vân Kiều truyện là tác phẩm của Thanh
Tâm Tài Nhân (đời Thanh, Trung Quốc). Tác phẩm này đã vào
Việt Nam khoảng những năm 60, 70 của thế kỷ XVIII(3). Dựa
theo nó, Nguyễn Du đã viết Truyện Kiều với 3.254 câu thơ lục
bát. Ca dao người Việt đã tiếp thu văn học Trung Quốc qua
Truyện Kiều. Đây là bài ca dao, là lời chàng trai dặn dò người yêu
hãy gìn giữ mối tình chung thuỷ:

Đất Liêu Dương anh về tang chú
Mối tình chung lặn lội lao đao
Dặn Kiều dù sóng gió ba đào
Cũng giữ lời thề non hẹn biển, chớ lúc nào lãng quên(4).

Còn đây là cuộc hát đối đáp thử tài văn học giữa nam và nữ:

Đồn em hay truyện Thuý Kiều
Lại đây mà giảng mấy điều cho minh
Vì đâu Kiều gặp Kim Sinh?
Vì đâu Kiều phải bán mình chuộc cha?
Vì đâu Kiều phải đi xa?
Vì đâu Kiều phải vào nhà lầu xanh?
Hoa trôi bèo dạt đã đành
Vì đâu mắc phải Sở Khanh nói lừa?
Vì đâu kết tóc xe tơ?
Vì đâu Kiều phải lên chùa làm sư?
Vì đâu Kiều gặp họ Từ?
Báo ân báo oán trả thù sạch không?
Vì đâu Kiều bị mất chồng?

Vì đâu Kiều phải xuống sông Tiền Đường
Bao nhiêu nghĩa thảm tình thương
Em ơi giảng hết mọi đường anh nghe!
- Em đây thông truyện Thuý Kiều
Em xin giảng hết mọi điều mọi tinh
Chơi xuân Kiều gặp Kim Sinh
Vì thằng hàng tấm, Kiều phải bán mình chuộc cha
Vì ba trăm lạng Kiều phải đi xa
Vì mụ Tú Bà, Kiều mắc lầu xanh
Hoa trôi bèo dạt đã đành
Sơ mưu mắc phải Sở Khanh nói lừa
Vì chàng Thúc kết tóc xe tơ
Vì Hoạn Thư, Kiều phải lên chùa làm sư
Ba năm Kiều gặp họ Từ
Báo ân báo oán trả thù đã xong
Vì lời nói, Kiều phải mất chồng
Vì Hồ Tôn Hiến, Kiều phải xuống sông Tiền Đường
Bao nhiêu nghĩa thảm tình thương
Em đã giảng hết mọi đường anh nghe(5).

Chúng tôi vừa trình bày hai dạng thức ảnh hưởng trực tiếp và
ảnh hưởng gián tiếp của văn học Trung Quốc đối với ca dao
người Việt. Trong thực tế có khi rất khó xác định đâu là ảnh
hưởng trực tiếp, đâu là ảnh hưởng gián tiếp. Thí dụ, ca dao xứ
Nghệ có bài:

Đồn đây là chốn Đào Nguyên
Trăng thanh gió mát cầm thuyền dạo chơi(6).

Đào Nguyên là tên ngọn núi ở phía tây nam huyện Đào Nguyên,

tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc. Dưới núi có động Đào Nguyên. Về
động này, trong bài Đào hoa nguyên ký, Đào Tiềm (365-427) có
kể rằng: “Một người đánh cá ở Vũ Lăng bơi thuyền ngược dòng
suối, hai bên bờ suối trồng đầy hoa đào. Đi mãi, người ấy đến
một nơi có dân cư ăn mặc theo y phục đời Tần. Người ấy hỏi
thăm mới biết họ tránh chế độ hà khắc của Tần Thuỷ Hoàng đến
đó ở đã nhiều đời rồi và sống ở đó rất sung sướng, hạnh phúc.
Người đánh cá về thuật chuyện lại với mọi người, về sau mấy lần
muốn vào lại Đào Nguyên nhưng không tìm được lối vào cửa
động”. Văn học cổ dùng Đào Nguyên để chỉ nơi có cảnh đẹp,
người đẹp ở, để chỉ cuộc sống hạnh phúc, sung sướng, hoặc cõi
tiên(7).

Trong Truyện Kiều có điển tích này:

Chào mừng đón hỏi dò la
Đào Nguyên lạc lối đâu mà đến đây.

Tuy vậy, khó mà nói rằng nhờ có Truyện Kiều của Nguyễn Du mà
các tác giả dân gian mới biết được điển tích Đào Nguyên, bởi
không ít nhà nho xứ Nghệ am hiểu văn học Trung Quốc. Mặt
khác, cũng không loại trừ khả năng người sáng tác lời ca dao
vừa dẫn đã tiếp thu điển tích Đào Nguyên từ Truyện Kiều.

3. Kiểu tiếp thu nguyên vẹn và kiểu tiếp thu có biến cải trong
ca dao người Việt

3.1. Tiếp thu nguyên vẹn

Nhiều khi ca dao người Việt chịu ảnh hưởng của văn học Trung

Quốc trong việc sử dụng các điển tích đúng như người Trung
Quốc quan niệm; chẳng hạn bà Mạnh, bà Khương dùng để chỉ
những người phụ nữ đức hạnh; Đào Nguyên dùng để chỉ nơi có
cảnh đẹp, người đẹp ở, chỉ cõi tiên; hình ảnh cây trúc biểu trưng
cho người quân tử. (Chúng tôi sẽ còn phân tích cách tiếp thu
nguyên vẹn này ở tiểu mục 4 dưới đây).

3.2. Tiếp thu có biến cải

Trong những trường hợp dưới đây, ý nghĩa của các hình ảnh
trong ca dao người Việt lại khác với ý nghĩa của các hình ảnh
cùng tên trong văn học Trung Quốc và văn học chữ Hán Việt
Nam. Trong văn học chữ Hán, rồng tượng trưng cho nhà vua,
tùng, trúc, mai tượng trưng cho những người quân tử có phẩm
cách cao cả. Ngược lại, trong ca dao người Việt, rồng, mây, tùng,
trúc, mai là những đôi bạn tình, tượng trưng cho nam nữ bình
dân người Việt:

+ Bây giờ rồng mới gặp mây
Sao rồng chẳng thở với mây vài lời
Đêm qua vật đổi sao dời
Tiếc công gắn bó nhớ lời giao đoan(8).

+ Đợi chờ trúc ở với mai
Đợi chờ anh ở với ai chưa chồng(9).
+ Mận chào tùng, cúc, liễu, mai
Mận chào đằm thắm một vài ba câu(10).

Theo thần thoại Trung Quốc, chim quạ (ô) và chim khách (thước)
khuân đá lấp sông Ngân Hà tạo nên cầu Ô Thước để Chức Nữ

qua gặp Ngưu Lang vào đêm mồng bảy tháng bảy âm lịch. Trong
văn học, cầu Ô Thước trở thành biểu tượng tình yêu. Có khi tác
giả dân gian có ý thức dùng đúng tên gọi của điển tích này:

Cầu Ô Thước trăm năm giữ vẹn
Sông Ngân Hà giữ trọn đừng phai
Sợ em ham chốn tiền tài
Dứt đường nhân ngãi lâu dài bỏ anh(11).

Cũng là thể hiện tình yêu, nhưng có khi khác, người bình dân lại
dân gian hoá điển tích này:

Cầu Ô chín thước vật thường
Tìm nơi kiếm chốn, tìm đường giả ơn
Mưa sầu gió thảm từng cơn
Lấy ai chắc phận thờn bơn một bề(12).

Thế là với “cầu Ô chín thước” thì không còn cái ý nghĩa tên chim
quạ (ô) và tên chim khách (thước) hợp lại thành tên cầu Ô Thước
nữa.

Như vậy, khi chịu ảnh hưởng của văn học chữ Hán, có khi tác giả
dân gian người Việt đã tiếp thu khá nguyên vẹn, có khi họ tiếp thu
bằng cách biến cải. Ở đây, vai trò của các trí thức bình dân người
Việt là rất quan trọng.

4. Một “nghịch lý” của hiện tượng chịu ảnh hưởng văn học
chữ Hán

“Nghịch lý” này thể hiện ở các vùng văn hoá với các truyền thống

Nho học khác nhau.

Trong tập sách của nhiều tác giả Các vùng văn hoá Việt Nam do
GS. Đinh Gia Khánh và nhà thơ Cù Huy Cận đồng chủ biên, các
tác giả phân Việt Nam thành chín vùng văn hoá lớn. Đó là: vùng
văn hoá đồng bằng miền Bắc, vùng văn hoá Việt Bắc, vùng văn
hoá Tây Bắc, vùng văn hoá Nghệ Tĩnh, vùng văn hoá Thuận Hoá
- Phú Xuân (hay là xứ Huế), vùng văn hoá Nam Trung Bộ, vùng
văn hoá Tây Nguyên, vùng văn hoá đồng bằng miền Nam. Thăng
Long - Hà Nội có vai trò đặc biệt trong lịch sử văn hoá Việt Nam
nên được xếp thành một vùng văn hoá lớn(13).

Nhìn một cách khác, văn hoá của người Việt có thể chia thành ba
vùng lớn hơn: Bắc (trung tâm là văn hoá đồng bằng miền Bắc),
Trung (với các vùng Nghệ Tĩnh (còn gọi là xứ Nghệ), xứ Huế, xứ
Quảng), Nam (tức Nam Bộ).

So với các vùng khác, vùng Thăng Long - Hà Nội nói riêng và cả
vùng văn hoá đồng bằng miền Bắc nói chung tiếp thu ảnh hưởng
của Nho học và văn học Trung Quốc sớm nhất. Sự phát triển của
nền văn hoá bác học gắn liền với sự phát triển của giáo dục. Ở
đây, từ năm 1070 đã có Văn Miếu và năm 1076 đã có Quốc Tử
Giám, việc giáo dục Nho học có từ lâu đời và phát triển hơn các
vùng khác. “Trong thời kỳ Đại Việt, số người đi học, thi đỗ ở vùng
đồng bằng miền Bắc tính theo tỉ lệ dân số, thì cao hơn rất nhiều
so với các nơi khác. Trong lịch sử 854 năm (1065-1915) khoa cử
dưới các triều vua, cả nước có 56 trạng nguyên thì 52 người là ở
vùng đồng bằng miền Bắc”(14).

Vùng Nghệ Tĩnh có sự phát triển giáo dục đến mức người ta gọi

đây là “đất học”. Từ đời Lý đến hết đời Lê, Nghệ Tĩnh có 1/16 số
tiến sĩ toàn quốc. Từ thế kỷ XVIII, việc học hành ở nơi đây đã
đuổi kịp vùng đồng bằng miền Bắc. Từ đầu thế kỷ XIX đến đầu
thế kỷ XX, tức là dưới triều Nguyễn, khi kinh đô được đặt ở Huế,
số người đỗ tiến sĩ ở Nghệ Tĩnh chiếm hơn 1/6 tổng số tiến sĩ
của cả nước(15).

Nam Bộ là vùng đất mới, do các thế hệ lưu dân Việt trải qua vô
vàn gian khổ, hy sinh cùng với người Hoa, người Khơ Me chung
sức khai phá và xây dựng nên. Về giáo dục Nho học, từ giữa thế
kỷ XVIII ở đây có những trường tư thục. Đầu thế kỷ XIX, nhà
Nguyễn đã mở các trường công học gọi là nhà tỉnh học, nhà phủ
học. Khoa thi hương đầu tiên mở vào năm 1813; khoa thi hương
cuối cùng tổ chức vào năm 1862, sau đó cả Nam Bộ bị thực dân
Pháp thôn tính. Trong vòng 50 năm (1813-1862) cả Nam Bộ có
22 khoa thi hương, tuyển chọn được 296 cử nhân; trong số cử
nhân này có một số ra kinh đô Huế thi hội, trong số ra thi này có
năm người đỗ tiến sĩ(16). Như thế, Nho học ở Nam Bộ bắt đầu
muộn và kết thúc sớm hơn so với Nho học ở miền Bắc và miền
Trung.

Trong quá trình văn hoá Việt tiếp xúc, giao lưu với văn hoá Hán,
dần dần văn hoá Việt đồng văn với văn hoá Hán, nhiều từ ngữ
Hán đi vào tiếng Việt, được gọi là từ ngữ Hán Việt. Xét theo
nguồn gốc, các nhà ngôn ngữ học Việt Nam phân từ tiếng Việt
thành hai loại: từ thuần Việt và từ ngoại nhập; trong bộ phận từ
ngoại nhập, từ Hán Việt chiếm một số lượng rất lớn. Nếu được
sử dụng đúng lúc, đúng chỗ thì từ Hán Việt sẽ “góp phần làm cho
tiếng Việt trở thành phong phú hơn, với những khả năng phân

×