BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
Đề tài
Tình hình hoạt động xuất
khẩu tư bản của Vịêt Nam
trong thời gian qua
1
MỤC LỤC
Lời mở đầu
Trong xu thế hội nhập kinh tế hiện nay, xuất khẩu tư bản là xu hướng
tất yếu của các nước trên thế giới. Đó không chỉ là đặc quyền của các nước có
nền kinh tế phát triển, có tiềm lực tài chính mạnh, có khoa học công nghệ hiện
đại, có trình độ quản lý tiên tiến mà ngay cả đối với các nước có nền kinh tế
đang và kém phát triển thì dòng đầu tư ra cũng đã phát triển một cách mạnh
mẽ. Sự tham gia của các nước đang phát triển làm phong phú, đa dang thêm
môi trường hoạt động đầu tư quốc tế. Vịêt Nam không nằm ngoài xu thế
2
chung đó, trong những năm gần đây, hoạt động xuất khẩu tư bản của các
doanh nghiệp Vịêt Nam ngày càng phát triển, không chỉ đầu tư sang các nước
đang và kém phát triển mà còn đầu tư sang các quốc gia phát triển như Hoa
Kỳ, Nhật Bản, Anh, Pháp… Hoạt động xuất khẩu tư bản giúp các doanh
nghiệp khai thác được những lợi thế cạnh tranh cũng như có thể vượt qua các
rào cản thương mại của nước nhận đầu tư để có thể mở rộng thị trường sản
xuất, tạo điều kiện thu được nhiều hiệu quả hơn từ hoạt động sản xuất kinh
doạnh
Vì đây là một lĩnh vực rất mới đối với Vịêt Nam nên trong phạm vi đề
án môn học này em xin được tìm hiểu một cách có hệ thống hơn khái quát
Tình hình hoạt động xuất khẩu tư bản của Vịêt Nam trong thời gian qua và
những đánh giá một cách có khoa học những báo cáo nghiên cứu mới nhất về
tình hình xuất khẩu tư bản của Việt Nam.
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN XUẤT KHẨU TƯ BẢN
1. Bản chất của xuất khẩu tư bản :
Xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài ( đầu tư tư bản ra
nước ngoài) nhằm mục đích bóc lột giá trị thặng dư và các nguồn lợi khác ở
các nước nhập khẩu tư bản. Lênin khẳng định rằng , xuất khẩu tư bản khác về
nguyên tắc với xuất khẩu hàng hóa và là quá trình ăn bám bình phương. Vào
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, xuất khẩu tư bản trở thành phổ biến vì:
Một là , trong một số ít nước phát triển đã tích luỹ được một khối lượng
lớn tư bản kếch xù và một bộ phận đã trở thành “ tư bản thừa ” do không tìm
được nơi đầu tư có tỷ suất lợi nhuận cao ở trong nước.
3
Hai là, khả năng xuất khẩu tư bản xuất hiện do nhiều nước lạc hậu về kinh
tế bị lôi cuốn vào sự giao lưu kinh tế thế giới, nhưng lại rất thiếu tư bản. Các
nước đó giá ruộng đất lại tương đối hạ , tiền lương thấp , nguyên liệu rẻ, nên
tỷ suất lợi nhuận cao.
Ba là, chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì mâu thuẫn kinh tế – xã hội càng
gay gắt. Xuất khẩu tư bản trở thành biện pháp làm giảm mức gay gắt đó.
2. Các hình thức và hậu quả của xuất khẩu tư bản :
Xuất khẩu tư bản tồn tại dưới nhiều hình thức, nếu xét cách thức đầu tư
thì có đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp
• Đầu tư trực tiếp là hình thức xuất khẩu tư bản để xây dựng những xí
nghiệp mới hoặc mua lại những xí nghiệp đang hoạt động ở nước nhận đầu tư,
biến nó thành một chi nhánh của công ty mẹ. Các xí nghiệp mới được hình
thành thường tồn tại dưới dạng hỗn hợp song phương, nhưng cũng có những
xí nghiệp mà toàn bộ số vốn là của một công ty nước ngoài
• Đầu tư gián tiếp là hình thức xuất khẩu tư bản dưới dạng cho vay thu lãi.
Thông qua các ngân hàng tư nhân hoặc các trung tâm tín dụng quốc tế và
quốc gia, tư nhân hoặc các nhà tư bản cho các nước khác vay vốn theo nhiều
hạn định khác nhau để đầu tư vào các đề án phát triển kinh tế. Ngày nay, hình
thức này còn được thực hiện bằng việc mua trái khoán hay cổ phiếu của các
công ty ở nước nhập khẩu tư bản.
Nếu xét theo chủ sở hữu, có xuất khẩu tư bản nhà nước và xuất khẩu tư
bản tư nhân
• Xuất khẩu tư bản nhà nước là hình thức xuất khẩu tư bản mà nhà nước tư
sản lấy tư bản từ ngân quỹ của mình đầu tư vào nước nhập khẩu tư bản, hoặc
viện trợ hoàn lại hay không hoàn lại để thực hiện những mục tiêu về kinh tế,
chính trị và quân sự.
Về kinh tế, xuất khẩu tư bản nhà nước thường hướng vào các ngành
thuộc kết cấu hạ tầng để tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư tư bản tư nhân.
4
Về chính trị, viện trợ của nhà nước tư sản nhằm cứu vãn chế độ chính
trị thân cận đang bị lung lay hoặc tạo ra mối liên hệ phụ thuộc lâu dài.
Về quân sự , viện trợ của nhà nước tư sản nhằm lôi kéo các nước phụ
thuộc vào các khối quân sự hoặc buộc các nước nhận viện trợ phải đưa quân
tham chiến chống nước khác, cho nước xuất khẩu lập căn cứ quân sự trên lãnh
thổ của mình hoặc đơn thuần để bán vũ khí.
• Xuất khẩu tư bản tư nhân là hình thức xuất khẩu tư bản do tư bản tư
nhân thực hiện. Ngày nay, hình thức này chủ yếu do các công ty xuyên quốc
gia tiến hành thông qua hoạt động đầu tư kinh doanh. Hình thức xuất khẩu tư
bản tư nhân có đặc điểm là thường được đầu tư vào các ngành kinh tế có vòng
quay tư bản ngắn và thu được lợi nhuận độc quyền cao. Xuất khẩu tư bản tư
nhân là hình thức chủ yếu của xuất khẩu tư bản, có xu hướng tăng nhanh ,
chiếm tỷ lệ cao trong tổng tư bản xuất khẩu . Nếu những năm 70 của thế kỷ
XX, xuất khẩu tư bản tư nhân đạt trên 50% thì đến những năm 80 của thế kỷ
này nó đã đạt tỷ lệ 70% trong tổng tư bản xuất khẩu.
Nếu xét về cách thức hoạt động , có các chi nhánh của các công ty
xuyên quốc gia , hoạt động tài chính tín dụng của các ngân hàng hay các trung
tâm tín dụng và chuyển giao công nghệ, trong đó, hoạt động dưới hình thức
chuyển giao công nghệ là biện pháp chủ yếu mà các nước xuất khẩu tư bản
thường sử dụng để khống chế nền kinh tế của các nước nhập khẩu tư bản.
Xuất khẩu tư bản về thực chất là hình thức mở rộng quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa trên phạm vi quốc tế, là sự bành trường thế lực của tư bản tài chính
nhằm bóc lột nhân dân lao động thế giới, làm cho các nước nhập khẩu tư bản
bị bóc lột gía trị thặng dư, cơ cấu kinh tế què quặt, lệ thuộc vào nền kinh tế
nước tư bản chủ nghĩa. Từ đó làm cho mâu thuẫn kinh tế – xã hội gia tăng.
3. Những biểu hiện mới của xuất khẩu tư bản trong giai đoạn phát triển hiện
nay của chủ nghĩa tư bản
Ngày nay, trong điều kiện lịch sử mới, xuất khẩu tư bản đã có sự biến
đổi lớn .
5
Thứ nhất là hướng xuất khẩu tư bản đã có sự thay đổi cơ bản. Trước kia,
luồng tư bản xuất khẩu chủ yếu từ các nước tư bản phát triển sang các nước
kém phát triển ( chiếm tỷ trọng trên 70% ). Nhưng những thập kỷ gần đây đại
bộ phận dòng đầu tư lại chảy qua lại giữa các nước tư bản phát triển với nhau.
Tỷ trọng xuất khẩu tư bản giữa ba trung tâm tư bản chủ nghĩa tăng nhanh, đặc
biệt dòng đầu tư chảy mạnh theo hướng từ Nhật Bản vào Mỹ và Tây Âu, cũng
như từ Tây Âu chảy sang Mỹ làm cho luồng xuất khẩu tư bản vào các nước
đang phát triển giảm mạnh, thậm chí chỉ còn 16,8%(1996) và hiện nay
khoảng 30%.
Trước tình hình đó, nhiều nhà lý luận tư sản cho rằng, xuất khẩu tư bản
không còn là thủ đoạn và phương tiện mà các nước giàu dùng để bóc lột các
nước nghèo. Theo họ, xuất khẩu tư bản đã trút bỏ bản chất cũ của nó và trở
thành hình thức hợp tác cùng có lợi trong mối quan hệ quốc tế.Sự hợp tác này
diễn ra chủ yếu giữa các nước tư bản phát triển với nhau. Đó là quan niệm
hoàn toàn sai lầm.
Như đã biết, cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã tạo ra những biến
đổi nhảy vọt trong sự phát triển của lực lượng sản xuất. Vào những năm 80
của thế kỷ XX, nhiều ngành công nghiệp mới ra đời và phát triển thành các
ngành mũi nhọn như : ngành công nghệ sinh học, ngành chế tạo vật liệu mới,
ngành bán dẫn và vi điện tử, ngành vũ trụ và đại dương Những ngành này có
thiết bị và quy trình công nghệ hiện đại, tiêu tốn ít nguyên , nhiên vật liệu.
Trong nền kinh tế giữa các nước tư bản phát triển đã diễn ra sự biến đổi cơ
cấu các ngành sản xuất mũi nhọn có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao. Sự
xuất hiện những ngành nghề mới đã tạo ra nhu cầu đầu tư hấp dẫn vì trong
thời gian đầu nó tạo ra lợi nhuận siêu ngạch rất cao. Việc tiếp nhận kỹ thuật
mới chỉ diễn ra ở các nước tư bản phát triển vì các nước đang phát triển có hạ
tầng kinh tế xã hội lạc hậu , không phù hợp, tình chính trị kém ổn định, sức
mua kém, tỷ suất lợi nhuận của tư bản đầu tư không còn cao như trước ( còn
với nước đang phát triển nhưng đã trở thành Nics thì tỷ trọng của luồng tư bản
6
xuất khẩu vẫn lớn: chiếm 80% tổng tư bản xuất khẩu của các nước đang phát
triển). Mặt khác thời gian này, xu hướng liên kết các nền kinh tế ở các trung
tâm tư bản chủ nghĩa phát triển rất mạnh. Hệ qủa của hoạt động này bao giờ
cũng hình thành các khối kinh tế với những đaọ luật bảo hộ rất khắt khe. Để
nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường, các công ty xuyên quốc gia đã biến các
doanh nghiệp chi nhánh của mình thành một bộ phận cấu thành của khối kinh
tế mới nhằm tránh đòn thuế quan nặng của các đạo luật bảo hộ. Nhật và Tây
Âu đã tích cực đầu tư vào thị trường Mỹ bằng cách đó.
Sự biến động về địa bàn và tỷ trọng đầu tư của các nước tư bản phát
triển không làm cho bản chất của xuất khẩu tư bản thay đổi , mà chỉ làm
cho hình thức và xu hướng của xuất khẩu tư bản thêm phong phú và phức
tạp hơn. Sự xuất hiện các ngành mới có hàm lượng khoa học- công nghệ
cao ở các nước tư bản phát triển bao giờ cũng dẫn đến cấu tạo hữu cơ của
tư bản tăng cao và điều đó tất yếu dẫn đến tỷ suất lợi nhuận có xu hướng
giảm xuống. Hiện tượng thừa tư bản tương đối, hệ quả của sự phát triển đó
là không thể tránh khỏi. Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ của các thiết
bị quy trình công nghệ mới đã dẫn đến sự loại bỏ các thiết bị và công nghệ
lạc hậu ra khỏi quá trình sản xuất trực tiếp ( do bị hao mòn hữu hình và vô
hình ). Đối với nền kinh tế thế giới đang phát triển, những tư liệu sản xuất
này rất có ích và vẫn là kỹ thuật mới mẻ. Nhằm mục đích thu lợi nhuận độc
quyền cao, các tập đoàn tư bản độc quyền đưa các thiết bị đó sang các nước
đang phát triển dưới hình thức chuyển giao công nghệ. Rõ ràng, khi chủ
nghĩa đế quốc còn tồn tại thì xuất khẩu tư bản từ các nước tư bản phát triển
sang các nước đang phát triển là điều không tránh khỏi. Xét trong một giai
đoạn phát triển nhất định , có thể diễn ra sự thay đổi tỷ trọng tư bản đầu tư
vào khu vực nào đó của thế giới, nhưng phân tích một thời kỳ dài hơn của
quy mô thế giới cho thấy: xuất khẩu tư bản vẫn là vũ khí chủ yếu mà tư bản
độc quyền sử dụng để bành trướng ra nước ngoài. Tình trạng nợ nần của
7
các nước đang phát triển ở châu á, Phi , Mỹ Latinh là thực tế chứng minh
cho kết luận trên.
Thứ hai là chủ thể xuất khẩu tư bản có sự thay đổi lớn , trong đó vai trò
các công ty xuyên quốc gia trong xuất khẩu tư bản ngày càng to lớn, đặc biệt
là trong FDI . Mặt khác, đã xuất hiện nhiều chủ thể xuất khẩu tư bản từ các
nước đang phát triển mà nổi bật là các Nics châu á.
Thứ ba là hình thức xuất khẩu tư bản rất đa dạng, sự đan quyện giữa xuất
khẩu tư bản và xuất khẩu hàng hoá tăng lên. Chẳng hạn, trong đầu tư trực tiếp
xuất hiện những hình thức mới như BOT,BT sự kết hợp giữa xuất khẩu tư
bản với các hợp đồng buôn bán hàng hoá, dịch vụ, chất xám không ngừng
tăng lên.
Thứ tư là sự áp đặt mang tính thực dân trong xuất khẩu tư bản đã được
gỡ bỏ dần và nguyên tắc cùng có lợi được đề cao.
Ngày nay , xuất khẩu tư bản luôn thể hiện kết quả hai mặt. Một mặt, nó
làm cho các quan hệ tư bản chủ nghĩa được phát triển và mở rộng ra trên địa
bàn quốc tế, góp phần thúc đẩy nhanh chóng quá trình phân công lao động và
quốc tế hoá đời sống kinh tế của nhiều nước; là một trong những nhân tố cực
kỳ quan trọng tác động từ bên ngoài vào làm cho quá trình công nghiệp hoá
và tái công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở các nước nhập khẩu tư bản phát triển
nhanh chóng . Song mặt khác, xuất khẩu tư bản vẫn để lại cho các quốc gia
nhập khẩu tư bản, nhất là với các nước đang phát triển những hậu quả nặng nề
như: nền kinh tế phát triển mất cân đối và lệ thuộc, nợ nần chồng chất do bị
bóc lột quá nặng nề. Song điều này tuỳ thuộc một phần rất lớn vào vai trò
quản lý của nhà nước ở các nước nhập khẩu tư bản. Lợi dụng mặt tích cực của
xuất khẩu tư bản , nhiều nước đã mở rộng việc tiếp nhận đầu tư để đẩy mạnh
quá trình công nghiệp hoá ở nứơc mình. Vấn đề đặt ra là phải biết vận dụng
mềm dẻo,linh hoạt , nguyên tắc cùng có lợi, lựa chọn phương án thiết thực, để
khai thác nguồn lực quốc tế có hiệu quả.
8
4. . Những điều kiện cần thiết để các DN tiến hành hoạt động xuất khẩu tư bản
A. Về phía doanh nghiệp
Khi thực hiện bất kỳ một hoạt động đầu tư nào, nhà đầu tư đều mong
muốn thu được một kết quả kinh doanh tốt nhất, cũng như vậy khi tham gia
vào hoạt động xuất khẩu tư bản thì nhà đầu tư cần phải xét xem hoạt động
đầu tư của mình có thể mang lại hiệu quả hay không, có thể tồn tại và phát
triển trong điều kiện môi trường kinh doanh mới hay không, có thể khai thác
được những lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp một cách có lợi nhất nhằm
thu được lợi nhuận cao nhất hay không. Như vậy, nhà đầu tư sẽ xem xét xem
doanh nghiệp có đáp ứng đủ những yêu cầu cần thiết sau hay không:
- Trước hết các doanh nghiệp cần có tiềm lực tài chính mạnh :
Như chúng ta đã biết, xuất khẩu tư bản thực chất là 1 quá trình di chuyển
vốn từ nước đầu tư tới nước nhận đầu tư. Vốn đầu tư bao gồm các nguồn lực
tài chính và nguồn lực hiện vật để sử dụng trong quá trình sản xuất kinh
doanh, xây dựng thêm nhà máy mới, duy trì và mở rộng hoạt động sản xuất
kinh doanh Vốn là một yếu tố không thể thiếu đối với bất kì một hoạt động
đầu tư nào. Do đó muốn cạnh tranh trên thị trường thì các doanh nghiệp phải
đủ mạnh, nghĩa là phải có một nguồn vốn dồi dào, có đủ năng lực thực hiện
các hoạt động đầu tư nhằm thu được lợi nhuận.
- Các doanh nghiệp cần có KHCN có thể cạnh tranh trên thị trường nước
nhận đầu tư hoặc có bí quyết riêng trong sản xuất sản phẩm.
Cạnh tranh là 1 tất yếu trên thị trường, năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp thể hiện chủ yếu ở hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh ở hiện
tại cũng như trong tương lai, các sản phẩm của doanh nghiệp tạo ra có khả
năng cạnh tranh cao, được người tiêu dùng chấp nhận và bảo đảm được thị
trường tiêu thụ, doanh nghiệp được tổ chức hợp lý, năng động, áp dụng công
nghệ tiên tiến, có đội ngũ cán bộ và công nhân có trình độ chuyên môn cao,
có khả năng tiếp cận với các nguồn vốn cho việc đầu tư theo chiều rộng và
chiều sâu. Để có thể thắng được đối thủ cạnh trạnh thì việc áp dụng nhiều
phương pháp quản lý mới nhằm rút gọn bộ máy, tái cấu trúc quá trình kinh
9
doanh, giảm chi phí, nâng cao hiệu quả hoạt động là cần thiết để xoá bỏ
những bất lợi. Tuy nhiên những cải thiện đó chỉ giúp cho các doanh nghiệp
tồn tại trong cạnh tranh mà chưa đảm bảo chiến thắng trong cạnh tranh. Muốn
có thể đánh bại được đối thủ trong cạnh tranh thì các doanh nghiệp phải tạo ra
được lợi thế cạnh tranh cho mình và luôn thay đổi để tạo ra thị trường chứ
không chỉ tìm cách nâng cao thị phần, vượt qua những bất lợi. Bấtkỳ một
doanh nghiệp nào cũng đều có khả năng cạnh tranh, chỉ khác nhau là ở mức
độ mạnh hay yếu. Theo quy luật tất yếu của thị trường thì doanh nghiệp nào
có khả năng cạnh tranh mạnh hơn thì doanh nghiệp đó sẽ chiến thắng không
những ở thị trường trong nước mà cả ở ngoài nước. Năng lực cạnh tranh
mạnh mẽ bảo đảm cho doanh nghiệp có thể tồn tại và chiến thắng ở nơi mà
doanh nghiệp tiến hành đầu tư sản xuất. Như vậy khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp chính là điều kiện cần thiết cho doanh nghiệp tiến hành đầu tư ở
bất cứ đâu. Đối với các doanh nghiệp đến từ các nước đang phát triển, với
xuất phát điểm thấp, thiếu vốn, thiếu trình độ tổ chức quản lý, công nghệ chưa
cao,… thì cần có một chiến lược cạnh tranh hợp lý, tạo ra nội lực từ trong
chính doanh nghiệp, như vậy mới có thể tiến hành hoạt động xuất khẩu tư
bản.
Đối với các nước đang phát triển như Vịêt Nam, trình độ KHCN không
cao nên khi thực hiện hoạt động xuất khẩu tư bản một cách trực tiếp thì việc
sản xuất các sản phẩm truyền thống, các sản phẩm sử dụng bí quyết riêng
trong sản xuất là một giải pháp phù hợp và mang lại hiệu quả cao. Như vậy do
đặc điểm riêng có đó mà sản phẩm sẽ có tính cạnh tranh cao và dễ được chấp
nhận trên thị trường bởi vì đó là những sản phẩm mang đậm nét truyền thống
của dân tộc, lạ và độc đáo.
- Doanh nghiệp cần có nguồn nhân lực đủ năng lực quản lý, sản xuất kinh
doanh, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của sản xuất kinh doanh.
Trong bất kỳ một hoạt động đầu tư nào, nhà đầu tư cũng đều mong muốn
có một kết quả kinh doanh tốt nhất. Và để có thể hoạt động đầu tư có hiệu quả
10
thì nhân tố con người luôn đựoc đánh giá rất quan trọng. Điều đó được thể
hiện ở các yếu tố như trình độ chuyên môn, trình độ tổ chức quản lý, …Trong
tiến trình hội nhập kinh tế hiện nay thì hoạt động đầu tư nước ngoài cũng từng
bước đi vào chiều sâu trong cơ chế thị trường luôn nhiều biến động. Vì vậy
cần thiết phải có một đội ngũ cán bộ tiếp nhận và hướng dẫn đầu tư có trình
độ năng lực sâu sát để phân tích tình hình, lựa chọn đối tác đầu tư đúng như
mục tiêu đề ra. Đặc bịêt điều quan trọng nhất trong đội ngũ lao động của
doanh nghiệp là những nhà quản lý và điều hành phải có trình độ hiểu biết,
trước hết là ở lĩnh vực mà mình đang kinh doanh, biết khai thác triệt để mọi
nguồn lực trong doanh nghiệp và tận dụng mọi cơ hội đầu tư…Bên cạnh đó
đội ngũ công nhân viên làm việc cho doanh nghiệp cũng phải có trình độ kỹ
thuật cao, tác phong làm việc công nghiệp… các thành viên trong doanh
nghiệp phải biết đoàn kết đưa doanh nghiệp trở thành một lực lượng vững
mạnh trên thị trường. Mặt khác do sự khác biệt về ngôn ngữ, khác biệt về văn
hoá, tập quán, luật pháp mà các doanh nghiệp khi xuất khẩu tư bản phải nhận
thức được sâu sắc về nhiều mặt, tính độc lập cao. Và kỹ năng xử lý các tình
huống, nhận thức được tầm quan trọng của nguồn nhân lực. Trước khi xuất
khẩu tư bản các doanh nghiệp cần phải xem xét kỹ trình độ của công nhân
viên rồi mới tiến hành hoạt động đưa họ ra nước ngoài, làm sao để họ có thể
thích ứng được với môi trường làm việc mới. Có như vậy thì hoạt động sản
xuất kinh doanh mới có thể thành công, đem lại hiệu quả.
B. Về nhà nước
- Tăng cường hoạt động thúc đẩy, hỗ trợ xuất khẩu tư bản của Nhà
nước bằng các biện pháp như ban hành các quy chế khuyến khích, hỗ trợ, tạo
điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thực hiện xuất khẩu tư bản .
- Tăng cường hợp tác quốc tế với các nước trên thế giới về mọi mặt để
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam thực hiện xuất khẩu tư bản một
cách thuận lợi hơn bằng việc ký kết các hiệp ước, các thoả thuận , cam kết về
11
hợp tác kinh tế giữa các nước. Như Hiệp định đầu tư song phương giữa Việt
Nam và Hoa Kỳ
12
Chương II
Thực trạng xuất khẩu tư bản tại Việt Nam
1. Những cơ hội và thách thức đối với doanh nghiệp Việt Nam trong hoạt động
xuất khẩu tư bản
- Việc gia nhập WTO
Ngày 7/11/2006 vừa qua, Vịêt Nam chính thức trở thành thành chính thức
thứ 150 của tổ chức WTO qua 11 năm và hơn 200 cuộc đàm phán. Dù lâu
nhất, nhiều nhất trong các đàm phán giữa Việt Nam với các tổ chức quốc tế,
nhưng chúng ta vẫn kiên trì cho mục đích gia nhập tổ chức thương mại này.
Bởi đây thực sự là sân chơi lớn mang tính toàn cầu. Sau khi gia nhập, Việt
Nam sẽ tăng vị thế của mình trên trường quốc tế; có điều kiện chủ động tham
gia chính sách thương mại toàn cầu; đồng thời tập trung xây dựng, điều chỉnh
hệ thống luật pháp minh bạch, phù hợp xu thế chung, thu hút các nhà đầu tư
trong nước và ngoài nước
Việt Nam đang phấn đấu cho mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. Muốn đạt được điều này, kim ngạch xuất khẩu của
chúng ta phải đạt 100 tỷ USD mỗi năm và kim ngạch nhập khẩu cũng tương
đương. Hiện nay, xuất khẩu của chúng ta tăng tương đối nhanh, nhưng kim
ngạch mới đạt 32,5 tỷ USD và hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu đang bị phân biệt
đối xử. Gia nhập WTO, chúng ta sẽ được bình đẳng tham gia thị trường toàn
cầu để phát triển kinh tế, thương mại, thu hút đầu tư và hàng hóa, dịch vụ sẽ
không bị phân biệt đối xử, sẽ dỡ bỏ được nhiều rào cản và được hưởng những
ưu đãi dành cho thành viên WTO. Như vậy cơ hội xuất khẩu tư bản sẽ được
mở rộng cửa đối với các doanh nghiệp Việt Nam.
- Kí kết hiệp định thương mại song phương với Mỹ
Hiệp định thương mại song phương Vịêt Nam- Hoa Kỳ có hiệu lực vào
ngày 10/12/2001, đã bình thường hóa quan hệ thương mại và đầu tư giữa Vịêt
Nam và Hoà Kỳ. Hiệp định đã mở ra thị trường Hoa Kỳ khổng lồ cho các nhà
xuất khẩu Vịêt Nam trên cơ sở cạnh tranh bình đẳng với các nước khác. Các
13
cam kết toàn diện trong hiệp định sẽ không những thức đẩy thươg mại 2 chiều
giữa 2 nước mà còn tăng thêm tính hấp dẫn của môi trường đầu tư tại Vịêt
Nam đối với các nhà đầu tư Hoa Kỳ và các nước khác.
Sau khi hiệp định thương mại có hiệu lực, 1 số nhà đầu tư như công ty
bánh kẹo Kinh Đô đã đầu tư vào thị trường Hoa Kỳ. Tuy nhiên tỷ trọng vốn
đầu tư thực hiện của Vịêt Nam tại Hoa Kỳ chỉ chiếm gần 1% tổng đầu tư thực
hiện ra nước ngoài của Vịêt Nam, và vốn đăng ký chỉ chiếm 3% trong tổng số
vốn đăng ký xuất khẩu tư bản của Vịêt Nam. Như vậy thực tế cho thấy việc
đầu tư vào Hoa Kỳ của các doanh nghiệp Vịêt Nam còn rất ít, chưa đáng kể.
Trong khi, đầu tư vào Hoa Kỳ là 1 trong những cách để thâm nhập vào
thị trường Hoa Kỳ và các doanh nghiệp Vịêt Nam có thể tận dụng thêm cơ hội
đầu tư tại nước này. Con số thống kê cho thấy dường như các doanh nghiệp
Vịêt Nam chưa tận dụng hết các cơ hội đầu tư mà mới chỉ tận dụng cơ hội
xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Nhìn chung thị trường Hoa Kỳ là thị trường lớn và
việc thực hiện đầu tư tại Hoa Kỳ sẽ giúp doanh nghiệp Vịêt Nam tạo thế đứng
vững chắc trên thị trường này. Kinh nghiệm của các nước khác đã chỉ rõ điều
này. Như hãng Honda của Nhật Bản đã đầu tư rất nhiều vào các nhà máy lớn
ở Hoa Kỳ để không chỉ xuất khẩu xe hơi sang Hoa Kỳ mà còn coi đây là 1
trung tâm sản xuất của mình phục vụ cho thị trường Hoa Kỳ và các nước
khác. 1 ví dụ khác mà các doanh nghiệp Vịêt Nam có thể học hỏi , đó là
trường hợp hãng Haier của trung Quốc. Hãng này đã coi đầu tư vào Hoa Kỳ
là 1 cách làm có hiệu quả để củng cố vị thế của hãng tại Hoa Kỳ và là cách để
tránh các vụ kiện bán phá giá. Do đó các doanh nghiệp Vịêt Nam cần tìm hiểu
kỹ hơn cơ hội đầu tư vào Hoa Kỳ theo cam kết của hiệp định.
A Những cơ hội:
Doanh nghiệp Vịêt Nam có cơ hội lựa chọn địa chỉ đầu tư thích hợp, từ đó
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Trong bối cảnh xu hướng tự do hoá đầu tư đang diễn ra mạnh mẽ như hiện
nay các quốc gia trên thế giới hầu hết đều thực thi những biện pháp khuyến
14
khích nhằm kêu gọi vốn đầu tư từ bên ngoài. Điều kiện đó đã mở ra cho các
doanh nghiệp Vịêt Nam cơ hội nâng cao hiệu quả sử dụng vốn bằng việc đầu
tư vào những nơi có khả năng mang lại tỷ suất lợi nhuận cao. Điểm đến của
đầu tư không bị bó hẹp trong khuôn khổ địa lý một quốc gia mà được mở
rộng ra các nước trong khu vực cũng như trên toàn thế giới .
- Các doanh nghiệp Vịêt Nam có cơ hội mở rộng thị trường tiêu thụ.
Hoạt động thương mại là một trong những bước cơ bản đầu tiên trong lộ
trình xâm nhập thị trường nước ngoài, nhưng để thực sự tồn tại lâu dài tại thị
truơng các nước trên thế giới, doanh nghiệp nhất thiết phải thành lập các chi
nhánh ở nước ngoài thông qua các hình thức như doanh nghiệp liên doanh
hay doanh nghiệp 100% vốn. Đây chính là kinh nghiệm thành công và lớn
mạnh của các công ty xuyên quốc gia trên thế giới.
Vịêt Nam đang trong tiến trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, các
sản phẩm của Vịêt Nam bước đầu nhận được sự đánh giá khá cao của người
tiêu dùng nước ngoài. Nhưng trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt
như hiện nay, cùng với việc các quốc gia đặc biệt là các nước phát triển
thường sủ dụng những biện pháp thương mại rất tinh vi để hạn chế khả nâng
xâm nhập của hàng hoá nước ngoài vào thị trường nước họ, thì xuất khẩu tư
bản trở thành hoạt động kinh tế hữu ích giúp cho các doanh nghiệp mở rộng
thị trường tiêu thụ, tạo thế vững chắc và bổ sung cho sự phát triển của các chi
nhánh và công ty mẹ ở trong nước.
- Doanh nghiệp Vịêt Nam có điều kiện khai thác các nguồn lực sản xuất
của nước ngoài để từ đó phát huy được lợi thế so sánh của nước mình.
Thực tế cho thấy rằng, mỗi quốc gia đều có những nguồn lực sản xuất
nhất định và tổng nguồn lực là hữu hạn. Đây chính là một nguyên nhân cơ
bản khiến cho doanh nghiệp của quốc gia tìm kiếm cơ hội đầu tư ở quốc gia
khác nhằm khai thác nguồn lực của nước đó để phát triển. Đồng thời cùng với
quá trình khai thác là việc phát huy thế mạnh của mỗi doanh nghiệp. Những
15
lợi thế sẽ không đem lại lơị nhuận một khi chúng không được triển khai trong
thực tiễn.
- Các doanh nghiệp Vịêt Nam có điều kiện tiếp xúc trực tiếp với các thị
trường quốc tế về vốn, máy móc thiết bị, KHCN, từ đó có điều kiện tiếp thu
công nghệ mới, hiện đại hơn, có điều kiện đổi mới cơ cấu sản xuất của doanh
nghiệp.
- Các doanh nghiệp Vịêt Nam có điều kiện tiếp thu kinh nghiệm quản lý
tiên tiến, nâng cao trình độ tổ chức, quản lý sản xuất, nâng cao hiểu biết về
luật pháp và ý thức chấp hành luật pháp, nâng cao khả năng cạnh tranh công
bằng trên trường quốc tế và cả ở trong nước.
B Những thách thức.
Trở thành thành viên của tổ chức WTO, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có
rất nhiều cơ hội mới để phát triển sản xuất. Tuy nhiên, bên cạnh đó cho các
doanh nghiệp Việt Nam cũng phải đối mặt với rất nhiều thách thức.
Muốn có thị trường toàn cầu thì Việt Nam cũng phải mở cửa thị trường
nội địa cho các nước. Đây là thách thức trước tiên, bởi cả nước đang có số
lượng rất đông, hơn 230.000 doanh nghiệp, nhưng phần lớn là vừa và nhỏ,
năng lực cạnh tranh kém. Khi mở cửa hội nhập, vấn đề cạnh tranh giành
nguồn lực con người sẽ diễn ra khốc liệt. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt
Nam khá năng động và chuyển động rất nhanh khi môi trường kinh doanh
thay đổi. Vượt qua được thách thức của sự cạnh tranh, Việt Nam sẽ tạo được
môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng. Những doanh nghiệp nào trước
đây dựa dẫm vào sự hỗ trợ, ưu đãi của chính sách thì nay buộc phải vươn lên,
tự đứng bằng hai chân của mình
Các doanh nghiệp nước ngoài vào hoạt động ở Việt Nam sẽ dùng
lương, dùng các chính sách ưu đãi để thu hút lao động, nhất là lao động có
năng lực về làm việc cho mình. Thách thức này đòi hỏi các doanh nghiệp
trong nước phải có chiến lược đào tạo, có cơ chế phù hợp nhằm “chiêu hiền
đãi sĩ”, để giữ lao động. Đồng thời, phải có những đổi mới trong cách quản lý.
16
Xu thế hiện nay, Nhà nước tập trung quản lý ở tầm vĩ mô, xây dựng hệ thống
pháp luật, chính sách và kiểm tra việc thực hiện luật, chính sách đó; chuyển
quyền quản lý trực tiếp cho các hiệp hội ngành hàng, tạo điều kiện bảo vệ
được ngành hàng và hợp tác liên kết cùng phát triển. Thực tế đã cho thấy, khi
chúng ta chuyển quản lý trực tiếp việc xuất khẩu gạo cho hiệp hội thực hiện
đã tạo điều kiện để mọi thành phần đều có thể xuất khẩu gạo, thông qua sự
quản lý của hiệp hội. Xu thế này tạo nên sự hợp tác, liên kết rất quan trọng -
liên kết với nhau để tạo sức mạnh cho nhau và cùng phát triển.
Nếu biết và quyết tâm vượt qua tất cả những thách thức thì chúng ta sẽ
phát triển. Nhiều người cho rằng, thách thức cũng là cơ hội mới, cuộc sống
không có thử thách thì không còn là cuộc sống. Gia nhập WTO đem lại cho
chúng ta nhiều cơ hội và nhiều thách thức. Có tận dụng được cơ hội, có vượt
qua đựơc thách thức, biến thách thức thành cơ hội hay không hoàn toàn do sự
đổi mới trong nhận thức cũng như hành động của các cấp, các ngành, do sự
năng động của từng doanh nghiệp. Nhà nước mở cửa, có chính sách thu hút
đầu tư, nhưng các địa phương và các doanh nghiệp không tha thiết thu hút đầu
tư, thì chúng ta cũng không thể đạt mục tiêu đề ra.
Bản thân việc gia nhập WTO không làm Việt Nam giàu lên hay nghèo
đi mà chỉ là tạo cơ hội. Chúng ta tranh thủ được cơ hội thì sẽ phát triển, vượt
qua đựơc thách thức thì sẽ tạo thêm cơ hội mới. Bởi vậy, đòi hỏi sự cố gắng
của tất cả các bộ, ngành, các địa phương, nhất là sự lao động sáng tạo, liên kết
chặt chẽ giữa các doanh nghiệp Việt Nam, tạo sức mạnh nội lực lớn hơn để
phát triển nhanh hơn, bền vững hơn. , Tuy nhiên doanh nghiệp Việt Nam còn
gặp phải nhiều thách thức lớn khi thực hiên hoạt động xuất khẩu tư bản .
- Tiềm lực tài chính của đại đa số các doanh nghiệp Vịêt Nam còn yếu
Theo kết quả điều tra về doanh nghiệp được tổng cục thống kê công bố,
tính đến cuối năm 2003, cả nước có khoảng 72.016 doanh nghiệp, với tổng
lượng vốn đầu tư là 1.709 nghìn tỷ đồng, trung bình quy mô vốn đầu tư của 1
doanh nghiệp đạt 23,73 tỷ đồng, như vậy quy mô là rất nhỏ. Tiềm lực tài
17
chính yếu là nguyên nhân chính làm lượng vốn xuất khẩu tư bản của các
doanh nghiệp Vịêt Nam chưa cao, nên sức cạnh tranh của các dự án này thấp
hơn nhiều so với doanh nghiệp bản địa, cũng như doanh nghiệp đến từ các
quốc gia khác. Tiềm lực tài chính yếu làm cho các doanh nghiệp chưa xây
dựng được chiến lược kinh doanh dài hạn. Đa phần các dự án triển khai ở
nước ngoài hiện nay còn mang tính chất thăm dò, thời gian thực hiện dự án
ngắn. Nhiều dự án đã được bên nước ngoài cấp giấy phép nhưng không được
triển khai do phía Vịêt Nam chưa tìm được nguồn vốn thực hiện.
- Các doanh nghiệp Vịêt Nam còn thiếu kinh nghiệm xuất khẩu tư bản .
Vịêt Nam bắt đầu chính thức cho phép các doanh nghiệp xuất khẩu tư bản
kể từ năm 1999, nhưng hoạt động này mới được quan tâm đến trong vòng 2, 3
năm trở lại đây và trên thực tế có rất ít các biện pháp của nhà nước khuyến
khích cho hoạt động này. Trong khi đó một số nước trong khu vực như
Singapore, Thailand, Malaysia lại khuyến khích các doanh nghiệp nước mình
xuất khẩu tư bản từ cuối thập kỷ 80 của thế kỷ 20. Vì vậy doanh nghiệp các
quốc gia đó đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm kinh doanh quốc tế và hiện
đang là chủ đầu tư lớn của khu vực. Việc thiếu kinh nghiệm trong triển khai
dự án ở nước ngoài khiến cho các nhà đầu tư Vịêt Nam lúng túng và gặp
nhiều khó khăn.
- Năng lực cạnh tranh tổng hợp cả các doanh nghiệp Vịêt Nam còn thấp
khiến khả năng xuất khẩu tư bản chưa cao.
Ngoài tiềm lực tài chính yếu, doanh nghiệp Vịêt Nam còn bộc lộ một số
hạn chế như mức độ áp dụng công nghệ tiên tiến vào sản xuất chưa cao, hệ
thống đại lý phân phối sản phẩm mỏng, chưa tạo dựng được thương hiệu có
danh tiếng… nhũng tồn tại này.khiến khả năng cạnh tranh của các doanh
nghiệp Vịêt Nam xét về tổng thể được các tổ chức quốc tế đánh giá không
cao. Năng lực cạnh tranh yếu kém của doanh nghiệp là nguyên nhân chính
khiến năng lực cạnh tranh tổng thể của nền kinh tế Vịêt Nam thấp. Theo công
bố của diễn đàn kinh tế thế giới, năng lực cạnh tranhh của cả nền kinh tế Vịêt
18
Nam đứng ở thứ hạng thấp và thiếu ổn định, năm 2000 là thứ 53/59, năm
2001 là 62/75, năm 2002 là 65/80. Năng lực cạnh tranh thấp khiến cho hiệu
quả kinh doanh cuả doanh nghiệp Vịêt Nam cả trong và ngoài nước chưa cao.
2 Cơ chế chính sách khuyến khích xuất khẩu tư bản của Việt Nam
Trong quá trình hội nhập kinh tế hiện nay, thì các quốc gia đều phải
quan tâm đến hoạt động đầu tư. Tuy nhiên với các nước đang phát triển trong
đó có Vịêt Nam thì vấn đề quan tâm là làm sao có thể thu hút được nhiều vốn
đầu tư nước ngoài nhất và ít quan tâm hỗ trợ đến vốn đầu tư ra. Trong khi đó
thực tiễn chứng tỏ rằng hoạt động xuất khẩu tư bản càng tăng thì thị trường
sản xuất kinh doanh càng được mở rộng, cơ hội kinh doanh càng tăng và làm
động lực cho nền kinh tế trong nước phát triển. Do đó ở Vịêt Nam, tư duy về
hoạt động xuất khẩu tư bản ngày càng thay đổi theo hướng ngày càng hợp lý
hơn, đánh giá đúng mức hơn tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu tư bản ,
điều đó được thể hiện qua đường lối chính sách và các biện pháp hỗ trợ từ
phía nhà nước.
Trước hết là ảnh hưởng của các chính sách kinh tế vĩ mô đến hoạt động
xuất khẩu tư bản . Bao gồm các chính sách như: chính sách tài chính- tiền tệ,
chính sách xuất nhập khẩu và quản lý ngoại hối… các chính sách này liên
quan trực tiếp đến hiệu quả hoạt động đầu tư, nếu các nhà đầu tư nhận thấy
rằng đầu tư trong nước mang lại nhiều hiệu quả hơn so với xuất khẩu tư bản
thì các nhà đầu tư sẽ không thực hiện hoạt động xuất khẩu tư bản nữa, mà
thay vào đó sẽ tập trung đầu tư trong nước, khả năng xuất khẩu , khả năng
nhập khẩu cũng ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động đầu tư của doanh nghiệp.
Sự thay đổi các chính sách tài chính - tiền tệ từ thắt chặt sang nới lỏng hoặc
ngược lại sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả đầu tư của các doanh nghiệp.
Khi chuyển chính sách thắt chặt tiền tệ- nới lỏng tài chính sang chính sách nới
lỏng tiền tệ - thắt chặt tài chính sẽ làm cho mức lãi suất thực tế giảm, do đó
làm cho đầu tư trong nước trở nên khó khăn hơn và do đó sẽ khuyến khích
xuất khẩu tư bản . Mặt khác sự thay đổi chính sách tài chính -tiền tệ có ảnh
19
hưởng đến lạm phát, qua đó tác động làm giảm xuất khẩu tư bản . Khi lạm
phát cao, đồng nội tệ bị mất giá so với đồng ngoại tệ, như vậy cùng 1 đồng
tiền ở trong nước sẽ mua được ít dịch vụ hơn ở nước ngoài và do đó xuất
khẩu tư bản sẽ hạn chế và ngược lại.
3 Tình hình xuất khẩu tư bản các doanh nghiệp Việt Nam thời gian qua
A Xuất khẩu tư bản được cấp giấy phép năm 1989 - 2005
Đơn vị: triệu USD
Stt Năm Số DA ĐTRNN
VĐT
RNN
Số DA FDI Số Vốn FDI Tổng VĐT
Tỷ trọng
VĐTRNN/
TVĐT(%)
TỔNG SỐ
154 621.8 6106 43209.8 43831.6 1.419
1 1989 1 0.6 67 525.5 526.1 0.114
2 1990 3 0.0 107 735.0 735.0 0.000
3 1991 3 4.0 152 1291.5 1295.5 0.309
4 1992 4 5.4 196 2208.5 2213.9 0.244
5 1993 5 0.7 274 3037.4 3038.1 0.023
6 1994 3 1.3 372 4188.4 4189.7 0.031
7 1998 2 1.9 285 5099.0 5100.9 0.037
8 1999 10 12.3 327 2565.4 2577.7 0.477
9 2000 15 6.9 391 2838.9 2845.8 0.242
10 2001 13 7.7 555 3142.8 3150.5 0.244
11 2002 15 172.8 808 2998.8 3171.6 5.448
12 2003 26 28.2 791 3191.2 3219.4 0.876
13 2004 17 11.6 811 4547.6 4559.2 0.254
14 2005 37 368.5 970 6839.8 7208.3 5.112
(Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
Qua bảng số liệu về tình hình xuất khẩu tư bản của Việt Nam trong
những năm qua, chúng ta thấy hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày
càng có xu hướng gia tăng cả về số dự án đầu tư và qui mô vốn đầu tư. Năm
2005 số dự án xuất khẩu tư bản nhiều nhất trong những nămqua là 37 dự án,
và cũng chiếm nhiều số vốn đăng ký nhất là 368.5 triệu USD, tiếp đến là năm
2003, có 26 dự án được cấp giấy phép đầu tư ở nước ngoài, với số vốn là 28.2
triệu USD, năm 2004 với 17 dự án, với số vốn đầu tư đăng kí là 11.6 triệu
USD . Như vậy, trong mấy năm gần đây tình hình xuất khẩu tư bản ngày
càng gia tăng cả về số lượng dự án lẫn qui mô vốn đầu tư cho dự án. Bên cạnh
20
đó, Việt Nam cũng ngày càng thu hút được nhiều vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài, số dự án đầu tư và số vốn đầu tư FDI gia tăng theo từng năm Cụ thể là
năm1989 mới chỉ có 67 dự án FDI vào Việt Nam với số vốn là 525.5 triệu
USD, nhưng đến năm sau ( năm 1990) Việt Nam đã thu hút được 107 dự án
với số vốn đầu tư là 735 triệu USD, và đến năm 1999 số dự án FDI vào Việt
Nam là 327 dự án vói số vốn đăng ký là 2565.4 triệu USD. Như vậy sau 10
năm, số dự án FDI vào Việt Nam đã tăng gấp 5 lần và quy mô vốn tăng gần 5
lần. Cho ta thấy sự gia tăng mạnh mẽ của dòng đầu tư trực tiếp từ nước ngoài
vào Việt Nam và hiệu quả từ các chính sách thu hút vốn mà Nhà nước ta đã
thực hiện trong những năm vừa qua, từ đó mà Việt Nam ngày càng trở thành
điểm đến cho các nhà đầu tư trên thế giới.Tuy nhiên, qua đó ta cũng thấy
được tương quan giữa dòng vốn đầu tư ra của các nhà đầu tư Việt Nam so với
dòng FDI của các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam có sự chênh lệch rất
lớn.
Năm 1989, trong tổng số 526.1 triệu USD vốn đầu tư ra và vào Việt
Nam, thì vốn xuất khẩu tư bản của Việt Nam là 0.6 triệu USD, chiếm 0.144%
trong tổng số vốn đầu tư ra và vào Việt Nam. Năm 1999, vốn xuất khẩu tư
bản chiếm 0.477% tổng vốn đầu tư.Và gần đây, năm 2005, vốn xuất khẩu tư
bản chiếm 5.122% tổng số vốn đầu tư. Qua đó ta thấy vốn xuất khẩu tư bản
của Việt Nam là quá nhỏ so với số vốn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Điều
này có thể giải thích là do hoạt động xuất khẩu tư bản ở Việt Nam còn quá
mới, kinh nghiệm hoạt động đầu tư quốc tế hầu như còn ít, tiềm lực kinh tế,
khoa học công nghệ , trình độ quản lý của các doanh nghiệp Việt Nam còn
yếu, kém nên hoạt động xuất khẩu tư bản chưa thực sự hấp dẫn các nhà đầu
tư Việt Nam vì nguy cơ rủi ro rất cao. Trong khi đó nhà nước cũng chưa thực
sự quan tâm đến lĩnh vực đầu tư mới mẻ này, nên chưa có các cơ chế, chính
sách hướng dẫn, hỗ trợ, khuyến khích các nhà đầu tư Việt Nam một cách hợp
lý, kịp thời, đầy đủ. Chưa thực sự tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt
Nam tham gia vào hoạt động đầu tư quốc tế. Tuy nhiên thông qua tỷ trọng
21
vốn xuất khẩu tư bản so với tổng số vốn đầu tư qua các năm, ta thấy rõ xu
hướng gia tăng của tỷ trọng vốn xuất khẩu tư bản , từ 0,114% năm 1989; đến
năm 1999 là 0,477%; đến năm 2005 là 5,112%. Qua đó cho thấy xu hướng
xuất khẩu tư bản ngày càng được đẩy mạnh., môi trường đầu tư quốc tế ngày
càng hấp dẫn đối với các nhà đầu tư Việt Nam.
B Xuất khẩu tư bản phân theo ngành kinh tế (*)
Đơn vị: Triệu USD
Stt Ngành
Số DA
ĐTRNN
Số
DA
FDI
VĐT
RNN
VĐT FDI Tổng VĐT
VĐTRN
N/TVĐT
(%)
TỔNG SỐ 154 7279 621.8 66244.4 66866.2 0.9
1
Nông nghiệp và lâm
nghiệp
6 489 60.3 3202.7 3263.0 1.8
2 Thủy sản 3 149 8.2 481.9 490.1 1.7
3
Công nghiệp khai thác
mỏ
12 95 168.9 3336.2 3505.1 4.8
4 Công nghiệp chế biến 57 4699 68.0 33191.8 33259.8 0.2
5
Sản xuất và phân phối
điện, khí đốt và nước
1 23 273.1 1928.1 2201.2 12.4
6 Xây dựng 4 141 7.1 5173.3 5180.4 0.1
7
Thương nghiệp; Sửa
chữa xe có động cơ, mô
tô, xe máy, đồ dùng cá
nhân và gia đình
19 82 8.7 370.9 379.6 2.3
8 Khách sạn và nhà hàng 7 233 2.6 5154.1 5156.7 0.1
9
Vận tải; kho bãi và thông
tin liên lạc
10 218 3.4 4663.5 4666.9 0.1
10
Các hoạt động liên quan
đến kinh doanh tài sản và
dịch vụ tư vấn
34 59 21.3 798.4 819.7 2.6
11 Hoạt động khác 1 1091 0.2 7943.6 7943.8 0.0
(*) Số liệu đã được chỉnh lý theo Công văn số 2338/BKH-ĐTNN ngày 06/04/2006
Bao gồm cả vốn tăng thêm của các dự án đã được cấp giấy phép từ các năm trước
22
Tỷ trọng xuất khẩu tư bản của từng ngành
Đơn vị : Triệu USD
Stt Ngành
Số DA
ĐTRNN
VĐTRNN
Tỷ trọng VĐT
từng ngành(%)
TỔNG SỐ 154 621.8
1 Nông nghiệp và lâm nghiệp 6 60.3 9.6977
2 Thủy sản 3 8.2 1.3188
3 Công nghiệp khai thác mỏ 12 168.9 27.1631
4 Công nghiệp chế biến 57 68 10.9360
5 Sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước 1 273.1 43.9209
6 Xây dựng 4 7.1 1.1418
7
Thương nghiệp; Sửa chữa xe có động cơ,
mô tô, xe máy, đồ dùng cá nhân và gia đình
19 8.7 1.3992
8 Khách sạn và nhà hàng 7 2.6 0.4181
9 Vận tải; kho bãi và thông tin liên lạc 10 3.4 0.5468
10
Các hoạt động liên quan đến kinh doanh tài
sản và dịch vụ tư vấn
34 21.3 3.4255
11 Hoạt động khác 1 0.2 0.0322
Như vậy, lĩnh vực các doanh nghiệp Vịêt Nam xuất khẩu tư bản nhiều
nhất là công nghiệp chế biến với 57 dự án, tiếp đến là các hoạt động liên quan
đến kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn với 34 dự án, thương nghiệp, sửa
chữa xe có động cơ, môtô, xe máy, đồ dùng cá nhân và gia đình với 19 dự án.
Các doanh nghiệp Vịêt Nam đầu tư chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp và
xây dựng như: thăm dò khai thác dầu khí, sản xuất chế biến hàng gia dụng,
vật liệu xây dựng, khai thác mỏ. Trong đó đáng lưu ý là các dự án sản xuất và
phân phối điện, khí đốt và nước, chỉ với 1 dự án đã chiếm tới 273.1 triệu USD
số vốn đầu tư đăng kí, chiếm 1 tỷ trọng rất lớn 43.9209% trong tổng số vốn
xuất khẩu tư bản . Ngoài ra công nghiệp khai thác mỏ chỉ với 12 dự án cũng
đã chiếm tới 168.9 triệu USD số vốn đầu tư đăng ký, chiếm tỷ trọng khá lớn
27.1631% tổng số vốn xuất khẩu tư bản . Còn vốn đầu tư đăng kí của các dự
án thuộc ngành công nghiệp chế biến chỉ đạt 68 triệu USD, chỉ chiếm 1 tỷ
trọng khá khiêm tốn 10.936% tổng vốn xuất khẩu tư bản . Nguyên nhân là do
23
tính chất của từng ngành nghề, ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt và
ngành công nghiệp khai thác mỏ là những ngành công nghiệp nặng, cần nhiều
máy móc công nghệ cao, hiện đại, với sự đầu tư nhiều vốn. Còn công nghiệp
chế biến là ngành công nghiệp nhẹ, sử dụng nhiều lao động là chủ yếu, nên
không cần phải đầu tư nhiều vốn vào lĩnh vực ngành nghề này
Ngành nông nghiệp và lâm nghiệp, thuỷ sản với 9 dự án, chiếm một tỷ
lệ khá khiêm tốn trong tổng số 154 dự án. Trong đó tập trung chủ yếu là nông-
lâm nghiệp với 6 dự án. Trong khi đó thuỷ sản chỉ chiếm 3 dự án. Tuy nhiên
quy mô vốn đăng ký đầu tư vào các dự án nông-lâm nghiệp khá lớn, chiếm
60.3 triệu USD, chiếm tỷ trọnglà 9.6977% tổng số vốn xuất khẩu tư bản .
Dich vụ cũng là ngành thu hút được nhiều dự án xuất khẩu tư bản . Tuy
nhiên, với số dự án là 34 mà tổng số vốn đầu tư chỉ đạt 21.3 triệu USD, chiếm
3.4255% tổng số vốn xuất khẩu tư bản . Như vậy quy mô trung bình của mỗi
dự án là khá nhỏ. Đặc biệt số dự án lại chủ yếu tập trung trong ngành kinh
doanh tài sản và dịch vụ tư vấn
Như vậy qua số liệu về hoạt động xuất khẩu tư bản của các doanh
nghiệp Vịêt Nam tính đến thời điểm 06/04/2006 trên đã cho thấy các doanh
nghiệp Vịêt Nam đã đa dạng hoá các lĩnh vực xuất khẩu tư bản .
C Xuất khẩu tư bản phân theo đối tác đầu tư chủ yếu
Đ
ơn vị: Triệu USD
24
St
t
Nước
Số DA
ĐTR
Số VĐT
RNN
Số DA FDI
của từng nước
vào VN
VĐT
FDI
Tổng số
VĐT
Tỷ trọng
VĐTRNN
/TVĐT
TỔNG SỐ 154 621.8 4072.0 93757.4 94379.2 0.659
1 Cam-pu-chia 9 15.1 4 4.0 19.1 79.06
2 Cộng hòa Séc 2 1.1 8 43.9 45.0 2.44
3 CHLB Đức 4 4.8 88 488.4 493.2 0.97
4 Hàn Quốc 2 1.1 1185
65145.
4
65146.5 0.00
5
Đặc khu hành chính
Hồng Công (TQ)
4 1.5 520 4707.3 4708.8 0.03
6 Hoa Kỳ 16 7.4 319 2304.8 2312.2 0.32
7 In-đô-nê-xi-a 2 9.4 21 286.0 295.4 3.18
8 I-rắc 1 100.0 2 27.1 127.1 78.68
9 Lào 50 367.0 6 16.1 383.1 95.81
10 Liên bang Nga 13 38.3 90 1840.0 1878.3 2.04
11 Ma-lai-xi-a 3 17.7 214 1772.2 1789.9 0.99
12 Nhật Bản 5 2.1 684 6907.2 6909.3 0.03
13 Trung Quốc 1 1.9 431 841.0 842.9 0.23
14 U-crai-na 5 4.3 10 30.4 34.7 12.39
15 Sin-ga-pore 12 4.6 484 9327.6 9332.2 0.05
(Nguồn: Cục ĐTNN- Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
Tỷ trọng xuất khẩu tư bản phân theo đối tác đầu tư
Đơn vị: triệu USD
Stt Nước Số DA ĐTRNN Số VĐT
Tỷ trọng
VĐTRNN
từng nước (%)
TỔNG SỐ 154 621.8
1 Cam-pu-chia 9 15.1 2.428
2 Cộng hòa Séc 2 1.1 0.177
3 CHLB Đức 4 4.8 0.772
4 Hàn Quốc 2 1.1 0.177
5
Đặc khu hành chính Hồng Công
(TQ)
4 1.5 0.241
6 Hoa Kỳ 16 7.4 1.190
7 In-đô-nê-xi-a 2 9.4 1.512
8 I-rắc 1 100 16.082
9 Lào 50 367 59.022
10 Liên bang Nga 13 38.3 6.160
11 Ma-lai-xi-a 3 17.7 2.847
12 Nhật Bản 5 2.1 0.338
13 Trung Quốc 1 1.9 0.306
25