BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
Đề tài
“Vốn kinh doanh và một số giải pháp chủ
yếu nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh
doanh ở công ty Điện tử công nghiệp”
1
1
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn tiến hành hoạt động sản xuất
kinh doanh đều phải có một lượng vốn nhất định, vốn là yếu tố không thể
thiếu. Có vốn doanh nghiệp mới có điều kiện đầu tư mua sắm máy móc
thiết bị, nguyên vật liệu, thuê nhân công…tiến hành sản xuất kinh doanh.
Nhưng chỉ có vốn thôi thì chưa đủ. Nền kinh tế thị trường với những quy
luật khắc nghiệt của nó ảnh hưởng rất lớn tới sự tồn tại và phát triển của
các doanh nghiệp. Do đó, một doanh nghiệp muốn đứng vững và khẳng
2
2
định vị trí của mình trên thị trường thì doanh nghiệp đó phải hoạt động đạt
hiệu quả cao. Muốn như vậy thì trước hết doanh nghiệp phải tổ chức quản
lý và sử dụng vốn đó sao cho hiệu quả để vừa bảo toàn được vốn, đồng thời
vừa phát triển vốn mang lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp.
Tuy nhiên, trên thực tế rất nhiều doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là
các doanh nghiệp Nhà nước đang sử dụng vốn kém hiệu quả, gây thất thoát
vốn, thậm chí dẫn đến giải thế, phá sản doanh nghiệp, làm giảm khả năng
cạnh tranh trên thị trường; từ đó ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển
chung của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, việc tổ chức quản lý và sử
dụng vốn một cách hiệu quả đang là vấn đề cấp bách đặt ra không chỉ đối
với mỗi doanh nghiệp mà còn đối với cả Nhà nước và toàn bộ nền kinh tế;
đặc biệt là khi nước ta đã trở thành một thành viên chính thức của tổ chức
WTO.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, cùng với kiến thức
thu thập được trong quá trình học tập tại trường và quá trình thực tập ở
công ty điện tử công nghiệp, em đã quyết định chọn đề tài: “Vốn kinh
doanh và một số giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh
doanh ở công ty Điện tử công nghiệp”
3
3
Kết cấu Báo cáo gồm 3 chương:
- Chương I: Vốn kinh doanh và sự cần thiết nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
- Chương II: Thực trạng tổ chức quản lý và hiệu quả sử dụng vốn
kinh doanh ở công ty điện tử công nghiệp.
- Chương III: Một số giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn kinh doanh ở công ty điện tử công nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo Đào
Tuấn Hải cùng các cô, các chị trong phòng Tài chính-Kế toán của công ty
Điện tử công nghiệp đã tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thành báo cáo này.
Tuy nhiên, đây là một vấn đề rộng lớn, thời gian thực tập ngắn mà
trình độ của em còn hạn chế nên báo cáo không tránh khỏi những thiếu sót
nhất định. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo
cùng tập thể các cô, các chị công tác tại công ty Điện tử công nghiệp và các
bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2007
Sinh viên
Phan Huyền Trang
4
4
CHƯƠNG I
VỐN KINH DOANH VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO HIỆU
QUẢ SỬ DỤNG VỐN KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. Vốn kinh doanh:
1.1.1. Khái niệm về vốn kinh doanh:
1.1.1.1. Khái niệm vốn kinh doanh:
Để tiến hành bất kỳ một quá trình sản xuất kinh doanh nào cũng cần
phải có vốn. Vốn là điều kiện tiên quyết, có ý nghĩa quyết định tới các bước
tiếp theo của quá trình sản xuất kinh doanh.
Theo định nghĩa cuả nhiều nhà kinh tế học thì vốn kinh doanh trong
các doanh nghiệp là một quỹ tiền tệ đặc biệt. Ở đây cần có sự phân biệt
giữa tiền và vốn. Tiền được coi là vốn phải đồng thời thỏa mãn những điều
kiện sau đây:
- Thứ nhất: Tiền phải đại diện cho một lượng hàng hóa nhất định ( tiền
phải được đảm bảo bằng một lượng tài sản có thực )
- Thứ hai: Tiền phải được tích tụ và tập trung đến một lượng nhất
định, đủ sức để đầu tư cho một dự án kinh doanh.
- Thứ ba: Khi đã đủ về số lượng, tiền phải được vận động nhằm mục
đích sinh lời.
Sự vận động của quỹ tiền tệ này trong sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp được biểu diễn theo sơ đồ sau:
TLSX
T- H ….SX….H’ – T’
SLĐ
Doanh nghiệp sẽ dùng vốn để mua sắm các yếu tố của quá trình sản
xuất kinh doanh như sức lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động.
5
5
Do sự tác động của lao động vào đối tượng lao động thông qua tư liệu lao
động mà hàng hóa dịch vụ được tạo ra và tiêu thụ trên thị trường. Cuối
cùng các hình thái vật chất khác nhau đó được chuyển hóa về hình thái tiền
tệ ban đầu. Để đảm bảo sự tồn tại phát triển của doanh nghiệp, số tiền thu
được do tiêu thụ sản phẩm đảm bảo bù đắp toàn bộ các chi phí đã bỏ ra và
có lãi. Như vậy, số tiền đã ứng ra ban đầu không những chỉ được bảo tồn
mà nó còn được tăng thêm do hoạt động kinh doanh mang lại. Toàn bộ giá
trị ứng ra ban đầu và các quá trình tiếp theo cho sản xuất kinh doanh được
gọi là vốn. Vốn được biểu hiện cả bằng tiền lẫn cả giá trị vật tư, tài sản và
hàng hóa của doanh nghiệp, tồn tại dưới hình thái vật chất cụ thể và không
có hình thái vật chất cụ thể.
Từ sự phân tích trên, có thể đưa ra định nghĩa tổng quát về vốn kinh
doanh như sau:
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ
tài sản hữu hình và tài sản vô hình được đầu tư vào sản xuất kinh doanh
nhằm mục đích sinh lời
1.1.1.2 Đặc điểm và vai trò của vốn kinh doanh:
Để quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, trước hết doanh
nghiệp cần phải nhận thức đầy đủ về những đặc trưng và vai trò của vốn.
• Những đặc trưng của vốn kinh doanh:
Thứ nhất: Vốn phải đại diện cho một lượng giá trị tài sản. Điều đó có
nghĩa là vốn được biểu hiện bằng giá trị của những tài sản hữu hình và vô
hình như nhà xưởng, máy móc, đất đai, bản quyền, bằng phát minh sáng
chế…. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, với sự tiến bộ của
khoa học công nghệ thì những tài sản vô hình ngày càng phong phú, đa
dạng và giữ vai trò quan trọng trong việc tạo ra khả năng sinh lời của doanh
nghiệp.
Thứ hai: Vốn phải vận động sinh lời. Vốn được biểu hiện bằng tiền
nhưng tiền chỉ là dạng tiềm năng của vốn, để biến thành vốn thì đồng tiền
6
6
phải được vận động sinh lời. Trong quá trình vận động, đồng vốn có thể
thay đổi hình thái biểu hiện, nhưng điểm xuất phát và điểm cuối cùng của
vòng tuần hoàn phải là giá trị - là tiền, đồng tiền phải quay về nơi xuất phát
có giá trị lớn hơn.
Thứ ba: Trong nền kinh tế thị trường, vốn là một loại hàng hóa đặc
biệt. Nói vốn là một loại hàng hóa vì nó có giá trị, giá trị sử dụng như mọi
loại hàng hóa khác. Giá trị sử dụng của vốn là để sinh lời. Khác với những
hàng hóa khác, quyền sử hữu vốn và quyền sử dụng vốn có thể được gắn
với nhau nhưng cũng có thể được tách rời nhau.
Thứ tư: Vốn phải được tích tụ, tập trung đến một lượng nhất định
mới có thể phát huy được tác dụng. Do đó các doanh nghiệp không chỉ có
nhiệm vụ khai thác các tiềm năng về vốn mà còn phải tìm cách thu hút các
nguồn vốn để đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
Thứ năm: Vốn phải có giá trị về mặt thời gian. Điều này có ý nghĩa
khi bỏ vốn vào đầu tư phải xét tính hiệu quả của đồng vốn mang lại. Trong
nền kinh tế thị trường, do ảnh hưởng của giá cả, lạm phát và lãi suất nên
sức mua của đồng tiền ở thời điểm khác nhau cũng khác nhau.
Thứ sáu: Vốn phải gắn liền với chủ sở hữu nhất định và phải được
quản lý chặt chẽ. Nếu không xác định được chủ sở hữu thì việc sử dụng
vốn và tài sản sẽ gây lãng phí, thất thoát và kém hiệu quả.
• Vai trò của vốn kinh doanh:
Vốn là điều kiện tiền đề để doanh nghiệp có thể tiến hành hoạt động
sản xuất kinh doanh của mình. Mỗi doanh nghiệp khi bắt đầu tiến hành sản
xuất đều phải cần đến vốn. Nếu không có vốn doanh nghiệp sẽ không thể
mua sắm tài sản cố định, thuê mướn nhân công để phục vụ cho hoạt động
sản xuất kinh doanh.
Vốn là điều kiện duy trì sản xuất, đổi mới thiết bị công nghệ, mở
rộng sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng việc làm cho người
lao động. Từ đó tạo điều kiện cho doanh nghiệp tăng cường khả năng trên
7
7
thị trường, mở rộng xuất khẩu, nâng cao hiệu quả họat động sản xuất kinh
doanh. Nếu doanh nghiệp thiếu vốn quá trình sản xuất sẽ bị đình trệ, không
đảm bảo được các hợp đồng đã ký với khách hàng dẫn đến mất thị phần,
mất khách hàng; doanh thu và lợi nhuận giảm sút và không đạt được các
mục tiêu đã đề ra.
Vốn kinh doanh có vai trò như một đòn bẩy, thúc đẩy hoạt động sản
xuất kinh doanh cuả doanh nghiệp phát triển, là điều kiện để taọ lợi thế
cạnh tranh, khẳng định vai trò cuả doanh nghiệp trên thị trường.
Vốn kinh doanh còn là công cụ phản ánh và đánh giá quá trình vận
động của tài sản, kiểm tra, giám sát quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp thông qua các chỉ tiêu tài chính. Qua đó, các nhà quản trị
doanh nghiệp biết được thực trạng khâu sản xuất, đánh giá hiệu quả sản
xuất kinh doanh, phát hiện được các tồn tại, tìm ra nguyên nhân và đưa ra
các biện pháp khắc phục.
1.1.2. Phân loại vốn kinh doanh:
1.1.2.1. Vốn cố định:
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, việc mua sắm, xây dựng hay
lắp đặt các TSCĐ của doanh nghiệp đều phải thanh tóan, chi trả bằng tiền.
Số vốn đầu tư ứng trước để mua sắm, xây dựng hay lắp đặt các TSCĐ hữu
hình và vô hình được gọi là vốn cố định của doanh nghiệp. Đó là số vốn
đầu tư ứng trước vì số vốn này nếu được sử dụng có hiệu quả thì sẽ không
mất đi, doanh nghiệp sẽ thu hồi lại được sau khi tiêu thụ các sản phẩm,
hàng hóa hay dịch vụ của mình.
TSCĐ là biểu hiện về mặt hiện vật của vốn, còn VCĐ là biểu hiện về
mặt giá trị của TSCĐ. Do vậy, TSCĐ và VCĐ có mối quan hệ mật thiết với
nhau, chúng vừa là biểu hiện của nhau đồng thời vừa chi phối lẫn nhau.
VCĐ là số vốn đầu tư ứng trước hình thành nên TSCĐ của doanh
nghiệp nên quy mô vốn cố định sẽ quyết định đến quy mô của TSCĐ, ảnh
hưởng rất lớn đến trình độ trang bị kỹ thuật và công nghệ, năng lực sản
8
8
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Song ngược lại những đặc điểm kinh tế
của TSCĐ trong quá trình sử dụng lại có ảnh hưởng quyết định, chi phối
đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển của VCĐ. Do đó, VCĐ và TSCĐ là hai
phạm trù độc lập nhưng nằm trong một thể thống nhất. Vì vậy, để có thể
hiểu chi tiết về VCĐ, trước hết ta cần tìm hiểu về TSCĐ.
TSCĐ trong các doanh nghiệp là những tư liệu lao động chủ yếu có
giá trị lớn tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất, còn giá trị của nó thì được
dịch chuyển dần từng phần vào giá trị sản phẩm trong các chu kỳ sản xuất.
Thông thường một tư liệu lao động được coi là TSCĐ phải đồng thời thỏa
mãn hai tiêu chuẩn cơ bản sau:
- Một là phải có thời gian sử dụng tối thiểu, thường từ một năm trở
lên.
- Hai là phải đạt giá trị tối thiểu ở mức quy định. Tiêu chuẩn này được
quy định đối với từng nước và có thể được điều chỉnh cho phù hợp với mức
giá cả của từng thời kỳ.
Ở Việt Nam hiện nay tiêu chuẩn về mặt giá trị theo QĐ206/2003 của
Bộ Tài Chính ban hành ngày 12/12/2003 là từ 10 triệu đồng trở lên.
Ngoài hai tiêu chuẩn trên thì theo QĐ206 thì tài sản là TSCĐ phải
thỏa mãn thêm hai điều kiện nữa là:
- Chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ việc sử dụng tài
sản đó
- Nguyên giá tài sản phải được xác định một cách tin cậy.
Đặc điểm chung của TSCĐ trong doanh nghiệp là tham gia vào
nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm với vai trò là tư liệu lao động. Trong quá
trình đó hình thái vật chất và đặc tính sử dụng ban đầu của TSCĐ là không
thay đổi. Song giá trị của nó lại được chuyển dịch dần từng phần vào giá trị
sản phẩm sản xuất ra. Bộ phận giá trị chuyển dịch này cấu thành một yếu tố
chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và được bù đắp mỗi khi sản
phẩm được tiêu thụ. Để giúp cho công tác quản lý và sử dụng có hiệu quả
9
9
TSCĐ người ta tiến hành phân loại TSCĐ.
Thông thường có 4 tiêu thức phân loại TSCĐ (xem sơ đồ)
Mỗi cách phân loại trên cho phép xem xét, đánh giá kết cấu TSCĐ
của doanh nghiệp theo các tiêu thức khác nhau. Đối với mỗi doanh nghiệp,
việc phân loại TSCĐ là rất cần thiết, giúp doanh nghiệp chủ động điều
chỉnh kết cấu TSCĐ hợp lý nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ nói
riêng và VKD nói chung.
Từ đó có thể khái quát những nét đặc thù về sự vận động của vốn cố
định trong quá trình sản xuất kinh doanh như sau:
- Vốn cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh
- Vốn cố định được luân chuyển dần dần từng phần trong các chu kỳ
sản xuất.
Khi tham gia vào quá trình sản xuất, một bộ phận vốn cố định được
luân chuyển và cấu thành chi phí sản xuất sản phẩm (dưới hình thức chi phí
khấu hao) tương ứng với phần giá trị hao mòn của TSCĐ.
- Sau nhiều chu kỳ sản xuất vốn cố định mới hoàn thành một vòng
luân chuyển khi TSCĐ hết thời hạn sử dụng.
Sau mỗi chu kỳ sản xuất phần vốn được luân chuyển vào giá trị sản
phẩm tăng dần lên, song phần vốn đầu tư ban đầu vào TSCĐ lại dần giảm
xuống cho đến khi TSCĐ hết thời gian sử dụng, giá trị của nó được chuyển
dịch hết vào giá trị sản phẩm đã sản xuất thì vốn cố định mới hoàn thành
một vòng luân chuyển.
Những đặc điểm luân chuyển trên đây của vốn cố định đòi hỏi việc
quản lý vốn cố định phải luôn gắn liền với việc quản lý hình thái vật chất
của nó là các TSCĐ của doanh nghiệp.
Từ những phân tích nêu trên có thể đưa ra khái niệm về vốn cố định
như sau:
Vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư ứng
trước về TSCĐ mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần từng phần
10
10
trong nhiều chu kỳ sản xuất và hoàn thành một vòng tuần hoàn khi TSCĐ
hết thời gian sử dụng.
1.1.2.2. Vốn lưu động:
Vốn lưu động là một bộ phận của vốn kinh doanh được ứng ra để
hình thành nên TSLĐ của doanh nghiệp nhằm đảm bảo cho quá trình sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành thường xuyên, liên tục.
Là biểu hiện bằng tiền của TSLĐ nên đặc điểm vận động của vốn lưu động
luôn chịu sự chi phối bởi những đặc điểm của TSLĐ. Trong các doanh
nghiệp thường chia TSLĐ thành hai loại: TSLĐ sản xuất và TSLĐ lưu
thông.
TSLĐ sản xuất bao gồm các loại nguyên nhiên vật liệu, phụ tùng
thay thế, bán thành phẩm, sản phẩm dở dang…đang trong quá trình dựu trữ
sản xuất hoặc sản xuất chế biến. Còn TSLĐ lưu thông bao gồm các sản
phẩm thành phẩm chờ tiêu thụ, các loại vốn bằng tiền, các khoản vốn trong
thanh tóan, các khoản chi phí chờ kết chuyển….Trong quá trình sản xuất
kinh doanh các TSLĐ sản xuất và TSLĐ lưu thông luôn vận động, thay thế
và chuyển hóa lẫn nhau, đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được
tiến hành liên tục.
Phù hợp với các đặc điểm của TSLĐ, vốn lưu độngcủa doanh nghiệp
cũng không ngừng vận động qua các giai đoạn của chu kỳ kinh doanh: Dự
trữ sản xuất, sản xuất và lưu thông. Quá trình này được diễn ra liên tục và
thường xuyên lặp lại theo chu kỳ và được gọi là quá trình tuần hoàn, chu
chuyển của vốn lưu động. Qua mỗi giai đoạn của chu kỳ kinh doanh vốn
lưu động lại thay đổi hình thái biểu hiện, từ hình thái vốn tiền tệ ban đầu
sang hình thái vốn vật tư hàng hóa dự trữ và vốn sản xuất, rồi cuối cùng lại
trở về với hình thái vốn tiền tệ. Sau mỗi chu kỳ tái sản xuất, vốn lưu động
hoàn thành một vòng chu chuyển.
Vốn lưu động có những đặc trưng cơ bản sau:
- Vốn lưu động tham gia toàn bộ một lần vào một chu kỳ sản xuất,
11
11
giá trị chuyển dịch toàn bộ một lần.
- Trong quá trình tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn lưu
động thường xuyên vận động và chuyển hóa các hình thái biểu hiện qua các
giai đoạn của chu kỳ kinh doanh.
Vậy, VLĐ và TSLĐ là một cặp phạm trù không thể tách rời. VLĐ là
biểu hiện giá trị cuả TSLĐ, TSLĐ là biểu hiện về mặt hiện vật của VLĐ.
Thông thường vốn lưu động được phân loại theo 3 cách khác nhau
(theo sơ đồ)
Mỗi cách phân loại có một tác dụng khác nhau nhưng mục đích
chung đều là giúp doanh nghiệp quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn lưu
động.
1.1.3. Nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp:
Nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp là toàn bộ các nguồn tài
chính mà doanh nghiệp có thể khai thác và sử dụng trong một thời kỳ nhất
định để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, vốn kinh doanh của doanh nghiệp được
hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Để tổ chức và lựa chọn hình thức
huy động vốn thích hợp, có hiệu quả, cần thiết phải có sự phân loại vốn.
Tùy từng tiêu thức nhất định mà nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp
được chia thành các loại khác nhau.
* Căn cứ vào quan hệ sở hữu vốn, nguồn vốn kinh doanh của doanh
nghiệp được chia làm hai loại:
- Nguồn vốn chủ sở hữu: là nguồn vốn thuộc sở hữu của chủ doanh
nghiệp. Khi doanh nghiệp mới được thành lập thì nguồn vốn chủ sở hữu
hình thành vốn điều lệ cho chủ doanh nghiệp, các nhà đầu tư góp vốn, được
sử dụng để đầu tư, mua sắm các loại tài sản của doanh nghiệp. Trong quá
trình họat động, nguồn vốn chủ sở hữu được bổ sung từ kết quả hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nguồn vốn liên doanh, liên kết. Vốn
chủ sở hữu được xác định là phần vốn còn lại trong tài sản của doanh
12
12
nghiệp sau khi trừ đi toàn bộ nợ phải trả.
- Nợ phải trả: là nguồn vốn mà doanh nghiệp khai thác, huy động từ
các chủ thể khác qua vay nợ, thuê mua, ứng trước tiền hàng…Doanh
nghiệp được quyền sử dụng tạm thời trong một thời gian sau đó phải hoàn
trả cho chủ nợ. Bao gồm: vay ngắn hạn, vay dài hạn, phải trả cho người
bán, người mua trả tiền trước, thuế và các khoản phải nộp Nhà nước, phải
trả công nhân viên, phải trả nội bộ…
Ta có: Tổng tài sản của DN = Nguồn vốn chủ sở hữu + Nợ phải trả
Thông thường một doanh nghiệp phải phối hợp cả hai nguồn vốn
nói trên để đảm bảo nhu cầu vốn cho họat động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Sự kết hợp giữa hai nguồn vốn này được xem là hợp lý phụ
thuộc vào đặc điểm mà doanh nghiệp đang hoạt động, tình hình phát triển
của nền kinh tế cũng như tình hình thực tế của doanh nghiệp.
* Căn cứ vào thời gian huy động và sử dụng vốn có thể chia nguồn
vốn của doanh nghiệp thành hai loại:
- Nguồn vốn thường xuyên: là nguồn vốn có tính chất ổn định, dài
hạn mà doanh nghiệp có thể sử dụng. Nguồn vốn này được dành cho việc
đầu tư mua sắm TSCĐ và một bộ phận TSLĐ tối thiểu thường xuyên cần
thiết cho họat động kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn vốn thường
xuyên được xác định như sau:
Nguồn vốn thường xuyên = Nợ dài hạn + Nguồn vốn chủ sở hữu
- Nguồn vốn tạm thời: Là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn (dưới một
năm) mà doanh nghiệp có thể sử dụng để đáp ứng các nhu cầu có tính chất
tạm thời, bất thường phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Nguồn vốn này bao gồm các khoản vay ngắn hạn ngân hàng
và các tổ chức tín dụng, các khoản vốn chiếm dụng…
Việc phân loại này giúp cho người quản lý xem xét, huy động các
nguồn vốn một cách phù hợp với thời gian sử dụng, đáp ứng đầy đủ kịp
thời vốn cho sản xuất kinh doanh và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của
13
13
doanh nghiệp.
* Căn cứ vào phạm vi huy động vốn, nguồn vốn kinh doanh của
doanh nghiệp được chia thành hai loại:
- Nguồn vốn bên trong: là nguồn vốn được huy động từ nội bộ doanh
nghiệp, bao gồm tiền khấu hao hàng năm, lợi nhuận để lại, các khoản dự
phòng…nguồn vốn này có tính chất quyết định trong hoạt động của doanh
nghiệp.
- Nguồn vốn bên ngoài: Là nguồn vốn có thể huy động từ bên ngoài
doanh nghiệp để đáp ứng nhu cầu về vốn cho hoạt động sản xuất kinh
doanh của mình. Loại vốn bao gồm: vốn vay ngân hàng và các tổ chức kinh
tế tín dụng, các tổ chức kinh tế cá nhân trong và ngoài nước…Nguồn vốn
bên ngoài doanh nghiệp có vai trò quan trọng đối với doanh nghiệp nhất là
trong điều kiện thực tế của nước ta hiện nay. Sử dụng nguồn vốn này,
doanh nghiệp có thể khai thác ảnh hưởng tích cực của đòn bẩy tài chính để
khuyếch đại doanh lợi vốn chủ sở hữu, nhưng phải tính đến chi phí sử dụng
vốn và kết quả sản xuất kinh doanh phải bù đắp được chi phí sản xuất và có
lãi.
Từ việc phân loại nguồn vốn kinh doanh theo các tiêu thức trên ta có
thể rút ra kết luận:
+ Việc phân loại giúp cho người quản lý doanh nghiệp biết được cơ
cấu nguồn vốn kinh doanh từ đó lựa chọn nguồn vốn bổ sung thích hợp và
hiệu quả nhất.
+ Phân loại nguồn vốn còn xác định đúng các trọng điểm và biện
pháp quản lý sử dụng nguồn vốn hiệu quả hơn, phù hợp với điều kiện cụ
thể của doanh nghiệp nhằm nâng cao chất lượng sản xuất kinh doanh.
1.2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của
doanh nghiệp:
1.2.1. Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp:
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp buộc phải tiến hành
14
14
hoạt động sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường, xuất phát từ quan hệ
cung cầu. Sản xuất cái gì? Sản xuất cho ai? Sản xuất như thế nào? không
xuất phát từ chủ quan của doanh nghiệp hay từ mệnh lệnh của cấp trên mà
xuất phát từ nhu cầu thị trường, từ quan hệ cung cầu và lợi ích của doanh
nghiệp.
Mục đích của mọi doanh nghiệp trong nền kinh tế trường là sản xuất
kinh doanh đem lại hiệu quả cao. Lấy hiệu quả làm thước đo cho mọi hoạt
động của doanh nghiệp. Hiệu quả là lợi ích kinh tế đạt được sau khi đã bù
đắp hết các khoản chi phí bỏ ra cho hoạt động kinh doanh. Do đó, nhiệm vụ
của các doanh nghiệp là phải phân bổ, sử dụng nguồn vốn của doanh
nghiệp vào quá trình sản xuất kinh doanh sao cho hợp lý và có hiệu quả.
Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh có ảnh hưởng quyết định đến sự
tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng vốn là chỉ
tiêu biểu hiện một mặt về hiệu quả kinh doanh. Phản ánh trình độ quản lý
và sử dụng vốn của doanh nghiệp trong việc tối đa hóa kết quả, lợi ích hoặc
tối thiểu hóa lượng vốn và thời gian sử dụng theo các điều kiện về nguồn
lực xác định phù hợp với mục tiêu kinh doanh.
Như vậy có thể hiểu là với một lượng vốn nhất định bỏ vào họat
động sản xuất kinh doanh sẽ đem lại lợi nhuận cao nhất và làm cho đồng
vốn không ngừng sinh sôi nảy nở, tức là hiệu quả sử dụng vốn thể hiện ở
hai mặt: bảo toàn được vốn và tạo ra được các kết quả theo mục tiêu kinh
doanh, trong đó đặc biệt là kết quả về sức sinh lời của đồng vốn. Bên cạnh
đó, phải chú ý cả mặt tối thiểu hóa lượng vốn và thời gian sử dụng vốn của
doanh nghiệp. Kết quả sử dụng vốn phải thỏa mãn được lợi ích của doanh
nghiệp và các nhà đầu ở mức độ mong muốn cao nhất, đồng thời nâng cao
được lợi ích của toàn bộ nền kinh tế.
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề hiệu quả sử dụng VKD
của doanh nghiệp. Nhưng dù đứng trên quan điểm nào, thì về bản chất hiệu
quả sử dụng vốn kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử
15
15
dụng các nguồn nhân tài lực của doanh nghiệp để đạt được kết quả cao nhất
trong quá trình sản xuất kinh doanh với chi phí bỏ ra thấp nhất.
1.2.2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
trong doanh nghiệp:
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, vốn kinh doanh vận động liên
tục và nhu cầu vốn ở mỗi thời điểm khác nhau là khác nhau. Đồng vốn bỏ
ra có khả năng sinh lời có liên quan trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp. Nếu sử dụng đồng vốn không có hiệu quả, không bảo đảm
được vốn, không làm cho nó sinh lời thì doanh nghiệp sẽ không tồn tại và
dẫn đến nguy cơ phá sản. Vì vậy việc tổ chức và đảm bảo kịp thời, đầy đủ
vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh là mục tiêu và là yêu cầu
khách quan đối với tất cả các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh
doanh. Việc tăng cường công tác tổ chức và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
trong các doanh nghiệp xuất phát từ những nguyên nhân sau:
* Xuất phát từ mục đích kinh doanh của doanh nghiệp:
Bất kỳ một doanh nghiệp nào khi tham gia vào hoạt động sản xuất
kinh doanh đều hướng tới mục tiêu là tối đa hóa giá trị tài sản của chủ sở
hữu dựa trên cơ sở nâng cao lợi nhuận. Lợi nhuận là chỉ tiêu chất lượng
tổng hợp liên quan đến tất cả các mặt trong hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp, là nguồn tích lũy cơ bản để tái sản xuất mở rộng. Đặc
biệt trong nền kinh tế thị trường hiện nay, doanh nghiệp có tồn tại và phát
triển được hay không thì điều kiện quyết định là doanh nghiệp có tạo ra
được lợi nhuận hay không? Vì thế lợi nhuận được coi là một trong những
đòn bẩy quan trọng, đồng thời là một chỉ tiêu cơ bản để đánh giá hiệu quả
sản xuất kinh doanh. Do đó, sản xuất như thế nào để thu được lợi nhuận
cao là mục tiêu phấn đấu của doanh nghiệp.
* Xuất phát từ vai trò của vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp:
Vốn là tiền đề, là xuất phát điểm cho mọi hoạt động sản xuất kinh
16
16
doanh; là điều kiện quyết định và ảnh hưởng xuyên suốt đến toàn bộ quá
trình họat động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài ra vốn kinh
doanh là điều kiện để sử dụng các nguồn tiềm năng khác với mục đích phát
triển kinh doanh, phục vụ cho quá trình tái sản xuất mở rộng. Trên thực tế,
đã có không ít các doanh nghiệp có khả năng về nhân lực, có cơ hội đầu tư
nhưng thiếu khả năng tài chính mà đành bỏ lỡ mất cơ hội kinh doanh. Với
vai trò quan trọng đó, đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn quan tâm đến
việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Đó cũng chính là mục tiêu cần đạt tới
của việc sử dụng vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
* Xuất phát từ tình hình quản lý và sử dụng vốn kinh doanh của
doanh nghiệp:
Trong cơ chế bao cấp, hầu hết các doanh nghiệp Nhà nước được Nhà
nước bao cấp toàn bộ vốn sản xuất kinh doanh hoặc là được ưu tiên vay
vốn với lãi suất thấp. Việc khai thác thu hút vốn không được đặt ra như một
yêu cầu cấp bách, có tính sống còn đối với doanh nghiệp. Điều này đã vô
tình “triệt tiêu” tính chủ động, sáng tạo và tính linh hoạt của các doanh
nghiệp.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế
cùng đan xen hoạt động, các doanh nghiệp Nhà nước chỉ còn là một bộ
phận song song cùng tồn tại với các doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế khác. Các doanh nghiệp phải tự trang trải mọi chi phí và đảm bảo
kinh doanh có lãi, phải tổ chức sử dụng vốn tiết kiệm và có hiệu quả.Nếu
không thực hiện được các yêu cầu trên, các doanh nghiệp rất dễ lâm vào
tình trạng phá sản. Hơn nữa để tồn tại và phát triển trong cơ chế mới đòi
hỏi các doanh nghiệp phải năng động, nắm bắt nhu cầu thị trường, đầu tư
đổi mới máy móc thiết bị, cải tiến quy trình công nghệ, đa dạng hóa sản
phẩm. Những đòi hỏi đó buộc các doanh nghiệp phải quản lý đồng vốn một
cách chặt chẽ hơn. Mặt khác, việc quản lý và sử dụng vốn của doanh
17
17
nghiệp Nhà nước hiện nay còn khác trước, là các doanh nghiệp phải bảo
toàn được số vốn được giao, kể cả khi trượt giá và phải đầu tư mở rộng
phát triển quy mô sản xuất kinh doanh. Do đó, vấn đề nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn kinh doanh càng trở nên cấp bách.
* Xuất phát từ tầm quan trọng của việc tổ chức đảm bảo vốn và ý
nghĩa của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho sản xuất kinh doanh:
Tất cả các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp ở bất kỳ quy
mô nào đều cần đến một lượng vốn nhất định. Hơn nữa, việc mở rộng sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong điều kiện tiến bộ khoa học kỹ
thuật công nghệ phát triển với tốc độ cao, nhu cầu vốn đầu tư cho các hoạt
động này ngày càng lớn. Do vậy việc tổ chức huy động vốn ngày càng trở
nên quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp. Ngoài ra, việc huy động vốn đầy
đủ và kịp thời giúp cho doanh nghiệp có thể chớp thời cơ kinh doanh, tạo
lợi thế trong cạnh tranh. Việc lựa chọn các hình thức huy động vốn thích
hợp còn giúp giảm bớt chi phí sử dụng vốn, gây tác động rất lớn làm tăng
lợi nhuận ròng cho doanh nghiệp.
Từ những vấn đề nêu trên cho thấy nâng cao hiệu quả sử dụng VKD
có một ý nghĩa hết sức quan trọng trong công tác quản lý tài chính của
doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay. Nó quyết định sự sống còn, sự tăng
trưởng và phát triển của mỗi doanh nghiệp trong cơ chế mới.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh là vấn đề cấp bách đặt ra
cho các doanh nghiệp vì nó là các yếu tố cần thiết để thực hiện quá trình
sản xuất, quyết định giá thành sản phẩm. Trong các điều kiện kinh tế thị
trường hiện nay thì việc tiết kiệm triệt để vốn để giảm giá thành sản phẩm
là yếu tố lợi thế. Vậy việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là cần thiết đối
với mỗi doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn còn góp phần nâng cao
khả năng họat động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, mở rộng quy
mô hoạt động sản xuất, tăng nhanh tốc độ hoạt động của doanh nghiệp,
18
18
tăng khả năng cạnh tranh nhằm đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp; góp
phần tăng trưởng nền kinh tế xã hội.
1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh
nghiệp:
Để đánh giá được hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh
nghiệp, người ta có thể sử dụng một số chỉ tiêu sau:
1.2.3.1. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng toàn bộ vốn:
* Vòng quay toàn bộ vốn kinh doanh trong kỳ:
Là chỉ tiêu phản ánh vốn của doanh nghiệp trong một kỳ quay được
bao nhiêu vòng.
Doanh thu thuần
Vòng quay toàn bộ VKD =
VKD bình quân trong kỳ
Qua chỉ tiêu này ta có thể đánh giá được khả năng sử dụng tài sản
của doanh nghiệp hoặc doanh thu thuần được sinh ra từ tài sản mà doanh
nghiệp đã đầu tư.
* Tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh:
Phản ánh khả năng sinh lời của mỗi đồng vốn đầu tư vào hoạt động
kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp.
Lợi nhuận trước hoặc sau thuế
Tỷ suất lợi nhuận VKD =
VKD bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn bình quân được sử dụng
trong kỳ tạo ra mấy đồng lợi nhuận.
* Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu:
Mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp là tạo ra lợi nhuận ròng cho
các chủ nhân của doanh nghiệp đó. Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu là chỉ
tiêu đánh giá mức độ thực hiện mục tiêu này.
19
19
Lợi nhuận sau thuế
Tỷ suất lợi nhuận VCSH =
Vốn chủ sở hữu bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu, đó là
trong kỳ cứ đầu tư một đồng vốn chủ sở hữu thì sẽ thu được bao nhiêu
đồng lợi nhuận sau thuế.
1.2.3.2. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định:
Các chỉ tiêu tổng hợp:
* Hiệu suất sử dụng vốn cố định:
Doanh thu thuần
Hiệu suất sử dụng VCĐ =
Vốn cố định bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn cố định bình quân tham gia vào
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thì tạo ra bao nhiêu đồng doanh
thu thuần.
Trong đó, Vốn cố định bình quân trong kỳ được tính theo phương
pháp bình quân số học giữa vốn cố định đầu kỳ và cuối kỳ.
* Hàm lượng vốn cố định:
Vốn cố định bình quân
Hàm lượng VCĐ =
Doanh thu thuần
Chỉ tiêu này phản ánh để tạo ra một đồng doanh thu thì cần bao
nhiêu đồng vốn cố định. Chỉ tiêu này càng nhỏ thể hiện trình độ quản lý và
sử dụng vốn đạt hiệu quả cao.
* Tỷ suất lợi nhuận vốn cố định:
Lợi nhuân trước hoặc sau thuế
Tỷ suất lợi nhuận VCĐ =
Vốn cố định bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn cố định bình quân tham gia
20
20
vào hoạt động sản xuất kinh doanh thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận
trước hoặc sau thuế cho doanh nghiệp.
Một số chỉ tiêu phân tích:
* Hệ số hao mòn TSCĐ:
Số tiền khấu hao lũy kế
Hệ số hao mòn TSCĐ =
Nguyên giá TSCĐ ở thời điểm đánh giá
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ hao mòn của TSCĐ trong doanh
nghiệp so với thời điểm đầu tư ban đầu. Hệ số càng lớn chứng tỏ mức độ
hao mòn TSCĐ càng cao và ngược lại.
* Hiệu suất sử dụng TSCĐ:
Doanh thu thuần
Hiệu suất sử dụng TSCĐ =
Nguyên giá TSCĐ bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng TSCĐ trong kỳ tạo được bao nhiêu
đồng doanh thu thuần. Hiệu suất càng lớn chứng tỏ hiệu suất sử dụng
TSCĐ càng cao.
* Hệ số trang bị TSCĐ cho một công nhân trực tiếp sản xuất: phản
ánh giá trị TSCĐ bình quân trang bị cho một công nhân trực tiếp sản xuất.
Hệ số này càng lớn phản ánh mức độ trang bị TSCĐ cho sản xuất của
doanh nghiệp càng cao.
Nguyên giá TSCĐ bình quân trong kỳ
Hệ số trang bị TSCĐ =
Số lượng công nhân trực tiếp sản xuất
1.2.3.3 . Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động:
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong các doanh nghiệp
có thể sử dụng các chỉ tiêu chủ yếu sau đây:
* Tốc độ luân chuyển vốn lưu động: có thể đo bằng hai chỉ tiêu là số
21
21
lần luân chuyển (số vòng quay vốn) và kỳ luân chuyển vốn (số ngày của
một vòng quay vốn).
- Số vòng quay vốn lưu động:
Doanh thu thuần trong kỳ
Số vòng quay VLĐ =
VLĐ bình quân
Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn lưu động bình quân bỏ ra có thể
tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu. Việc tăng vòng quay vốn lưu động
có ý nghĩa kinh tế rất lớn, giúp doanh nghiệp giảm được lượng vốn lưu
động cần thiết trong kinh doanh, từ đó giảm vốn vay, hạ thấp chi phí sử
dụng vốn.
- Kỳ luân chuyển vốn lưu động:
Số ngày trong kỳ
Kỳ luân chuyển VLĐ =
Số vòng quay VLĐ
Chỉ tiêu này cho biết số ngày để thực hiện một vòng quay vốn lưu
động. Vòng quay vốn lưu động càng nhanh thì kỳ luân chuyển vốn lưu
động càng được rút ngắn và chứng tỏ vốn lưu động càng được sử dụng có
hiệu quả.
Hai chỉ tiêu này chỉ cho biết hiệu quả sử dụng vốn kỳ sau so với kỳ
trước chứ không cho biết mức lợi nhuận mà doanh nghiệp thu được.
* Hàm lượng vốn lưu động (hay còn gọi là mức đảm nhận vốn lưu
động):
Chỉ tiêu này phản ánh để tạo ra một đồng doanh thu thuần thì cần
phải có bao nhiêu đồng vốn lưu động bình quân.
Số vốn lưu động bình quân
Hàm lượng VLĐ =
Doanh thu thuần
22
22
Đây là chỉ tiêu nghịch đảo của chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn lưu động
* Mức tiết kiệm vốn lưu động: chỉ tiêu này cho biết trong năm qua
đơn vị đã tiết kiệm được hoặc lãng phí bao nhiêu đồng vốn lưu động.
Tổng mức luân chuyển VLĐ
Mức tiết kiệm VLĐ = x ( K
1
– K
0
)
(Mtk) 360
Trong đó : K
1
là số ngày một vòng quay vốn lưu động hiện tại
K
0
là số ngày một vòng quay vốn lưu động năm trước
Mtk > 0 là lãng phí
Mtk < 0 là tiết kiệm
Mức tiết kiệm vốn lưu động có được là do tăng tốc độ luân chuyển
vốn. Do tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động nên có thể tăng tổng mức
luân chuyển song không cần tăng thêm hoặc tăng không đáng kể quy mô
VLĐ.
* Tỷ suất lợi nhuận vốn lưu động:
Lợi nhuận trước hoặc sau thuế
Tỷ suất lợi nhuận VLĐ =
Vốn lưu động bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn lưu động trong kỳ có thể tạo ra
bao nhiêu đồng lợi nhuận trước hoặc sau thuế. Tỷ suất lợi nhuận vốn lưu
động càng cao thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao.
1.3. Các biện pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của
doanh nghiệp:
1.3.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
của doanh nghiệp:
Vốn sản xuất kinh doanh chịu tác động của nhiều nhân tố; trong đó
có cả những nhân tố tích cực và nhân tố tiêu cực làm ảnh hưởng tới hiệu
quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Để phát huy được những nhân tố tích
cực và hạn chế những nhân tố tiêu cực tác động đến quá trình tổ chức và sử
23
23
dụng vốn của doanh nghiệp, đòi hỏi các doanh nghiệp nhất thiết phải nắm
bắt các nhân tố đó.
* Nhóm nhân tố khách quan:
- Cơ chế quản lý và chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước: Trong
nền kinh tế thị trường Nhà nước tạo ra môi trường và hành lang pháp lý
thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh và định
hướng cho các hoạt động đó thông qua việc ban hành các chính sách kinh
tế vĩ mô
- Sự biến động của môi trường kinh tế: Hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp luôn diễn ra trong một bối cảnh kinh tế cụ thể như tốc độ
tăng trưởng hay suy thoái của nền kinh tế, mức độ ổn định của đồng tiền,
của tỷ giá hối đoái, các chỉ số chứng khoán trên thị trường…Mỗi sự thay
đổi của các yếu tố trên đều tác động tích cực hay tiêu cực đến hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp.
- Do những rủi ro phát sinh trong quá trình kinh doanh mà doanh
nghiệp không thể lường trước được như thiên tai, hỏa hoạn, bão lũ….hoặc
những rủi ro kinh doanh làm cho tài sản của doanh nghiệp tổn thất, gây
thiệt hại đến vốn của doanh nghiệp.
- Ngày nay khoa học kỹ thuật đã và đang trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp đối với doanh nghiệp.Doanh nghiệp nào nắm bắt và ứng dụng
kịp thời các thành tựu tiến bộ khoa học kỹ thuật sẽ có điều kiện thuận lợi
trong cạnh tranh. Nhờ áp dụng kỹ thuật tiến bộ, doanh nghiệp có thể giảm
tiêu hao nguyên vật liệu và có thể sử dụng các loại nguyên vật liệu thay thế
có giá thành hạ hơn nhưng vẫn đảm bảo chất lượng sản phẩm, góp phần tiết
kiệm chi phí, làm tăng lợi nhuận. Thêm vào đó sự canh tranh khốc liệt của
các doanh nghiệp trên thị trường cũng buộc các doanh nghiệp phải không
ngừng tìm tòi để có những biện pháp quản lý và sử dụng vốn kinh doanh có
hiệu quả.
* Nhóm nhân tố chủ quan:
24
24
- Do xác định nhu cầu vốn kinh doanh: Nếu các doanh nghiệp xác
định nhu cầu vốn kinh doanh thiếu chính xác thì sẽ dẫn đến tình trạng thừa
hoặc thiếu vốn, làm cho quá trình sản xuất kinh doanh bị gián đoạn không
liên tục, từ đó làm giảm hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh
nghiệp.
- Do lựa chọn phương án đầu tư: Lựa chọn phương án đầu tư là một
nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Nếu doanh nghiệp đầu tư sản xuất ra các sản phẩm, dịch vụ có chất
lượng tốt, mẫu mã đẹp, giá thành hạ, được thị trường chấp nhận thì tất yếu
sẽ mang lại hiệu quả kinh tế lớn.
- Cơ cấu vốn đầu tư cũng là nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng
vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Chẳng hạn, nếu doanh nghiệp đầu tư
vốn vào các tài sản không dùng hoặc chưa dùng chiếm tỷ trọng lớn thì
không những không phát huy được tác dụng trong quá trình sản xuất mà
còn bị hao hụt, mất mát vốn, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sử dụng
vốn kinh doanh.
- Trình độ tổ chức quản lý và sản xuất:
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp có được sử dụng hợp lý, tiết kiệm,
hiệu quả và đúng mục đích hay không là phụ thuộc phần lớn vào trình độ
của những người quản lý doanh nghiệp. Nếu trình độ quản lý và tổ chức sử
dụng vốn yếu kém thì hoạt động sản xuất kinh doanh bị thua lỗ kéo dài làm
cho vốn bị thất thoát, dẫn tới mất vốn. Ngược lại, nếu nhà quản lý có trình
độ cao và nhạy bén, biết nắm bắt cơ hội kinh doanh để đầu tư có lời thì sẽ
đem lại hiệu quả cho doanh nghiệp, nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn
kinh doanh.
Trên đây là những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn kinh
doanh của doanh nghiệp. Để phát huy những ảnh hưởng tích cực của các
nhân tố và hạn chế được những thiệt hại do các nhân tố đó gây ra làm ảnh
hưởng đến hiệu quả của việc tổ chức và sử dụng vốn kinh doanh; các doanh
25
25