Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

Đề tài: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN LƯU ĐỘNG TẠI TỔNG CÔNG TY DA GIẦY VIỆT NAM docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (280.42 KB, 46 trang )

BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
Đề tài
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU
QUẢ SỬ DỤNG VỐN LƯU ĐỘNG TẠI TỔNG
CÔNG TY DA GIẦY VIỆT NAM
2
MỤC LỤC
Lời mở đầu
Để tiến hành bất kỳ một quá trình sản xuất kinh doanh nào trước hết doanh
nghiệp cần phải có một yếu tố tiền đề đó là vốn kinh doanh.
Trong nền kinh tế thị trường, vốn là điều kiện tiên quyết, có ý nghĩa quyết
định tới các bước tiếp theo của quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Vì thế,
doanh nghiệp luôn phải đảm bảo vốn cho hoạt động của mình, không ngừng nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn. Từ đó doanh nghiệp mới có thể tăng lợi nhuận, thu nhập
để tồn tại và phát triển.
Do đó, vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp là phải huy động vốn để hoạt
động sản xuất kinh doanh diễn ra thuận lợi và phải sử dụng vốn sao cho hiệu quả
ngày càng cao trong lĩnh vực kinh doanh mà Nhà nước cho phép.
Xuất phát từ tầm quan trọng đó, sau thời gian thực tập tại Tổng công ty Da
Giầy Việt Nam, với kiến thức thu thập được trong thời gian học tập, cùng với sự
hướng dẫn tận tình của GS.TS Lương Trọng Yêm và sự giúp đỡ của các cán bộ
trong phòng Kế toán của Tổng công ty Da Giầy Việt Nam, em đã hoàn thành luận
văn tốt nghiệp với đề tài: "MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
VỐN LƯU ĐỘNG TẠI TỔNG CÔNG TY DA GIẦY VIỆT NAM”. Từ đó có những suy nghĩ
nhận xét nhằm đóng góp ý kiến để việc sử dụng vốn lưu động ngày càng có hiệu
quả và hoàn thiện hơn.
KẾT CẤU LUẬN VĂN
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I LÝ LUẬN CHUNG VỀ VỐN LƯU ĐỘNG
CHƯƠNG II TÌNH HÌNH SỬ DỤNG VỐN LƯU ĐỘNG TẠI TỔNG
CÔNG TY DA GIẦY VIỆT NAM


CHƯƠNG III MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
SỬ DỤNG VỐN LƯU ĐỘNG TẠI TỔNG CÔNG TY DA
GIẦY VIỆT NAM
KẾT LUẬN
3
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ VỐN LƯU ĐỘNG
I. Khái niệm, phân loại, vai trò vốn lưu động
1. Khái niệm:
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, ngoài sức lao động, tư liệu lao
động, doanh nghiệp phải có đối tượng lao động. Trong quá trình kinh doanh, đối
tượng lao động thay đổi hình thái biểu hiện ban đầu, toàn bộ giá trị của nó dịch
chuyển một lần vào giá trị hàng hoá sản phẩm.
Đối tượng lao động của doanh nghiệp kinh doanh lưu chuyển hàng hoá được
chia thành hai bộ phận: Một bộ phận là những hàng hoá doanh nghiệp mua về dự
trữ để sản xuất và các sản phẩm làm ra để tiêu thụ, một bộ phận khác bao gồm bao
bì vật liệu, các công cụ nhỏ khác Hai bộ phận này biểu hiện dưới hình thức hiện
vật, gọi là tài sản lưu động của doanh nghiệp. Tài sản lưu động của doanh nghiệp
dịch vụ nói chung bao gồm: tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu thông. Tài sản
lưu động sản xuất là mặt hiện vật của những đối tượng lao động nằm trong khâu dự
trữ để đảm bảo cho quá trình kinh doanh sản xuất (như: nguyên liệu, vật liệu, phụ
tùng thay thế, nhiên liệu), và những đối tượng lao động đang nằm trong khâu sản
xuất của doanh nghiệp (như: bán thành phẩm tự chế, chi phí sản xuất chính chưa
hoàn thành và chi phí sản xuất phụ dở dang ). Quá trình lưu thông sản phẩm là
tiếp tục của quá trình sản xuất. Để đảm bảo cho hoạt động tiêu thụ sản phẩm,
doanh nghiệp cần thiết phải hình thành một số khoản vật tư tiền tệ (như: thành
phẩm, vốn bằng tiền, vốn trong thanh toán ). Những sản phẩm và tiền tệ phát sinh
trong quá trình này gọi là tài sản lưu thông của doanh nghiệp.
Để đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh tiến hành được thường
xuyên, liên tục, cần thiết phải có đủ và đảm bảo đồng bộ, hợp lý các yếu tố nói trên
mà biểu hiện ra bên ngoài dưới dạng hiện vật gọi là tài sản lưu động.Trong điều

kiện quan hệ hàng hoá - tiền tệ đòi hỏi doanh nghiệp phải ứng trước một số tiền
tương ứng để đầu tư mua sắm các tài sản đó.
Vốn lưu động của doanh nghiệp thương mại là số tiền ứng trước về tài sản
lưu động để đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh được tiến hành thường xuyên,
liên tục. Đặc điểm của nó là vận động không ngừng và chuyển dịch qua nhiều hình
thái khác nhau. Giá trị của nó được chuyển dịch toàn bộ một lần vào giá trị hàng
hoá và hoàn thành một vòng tuần hoàn sau mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh.
4
2. Phân loại vốn lưu động
2.1. Dựa theo hình thái biểu hiện của vốn lưu động có thể chia vốn lưu động
thành: Vốn bằng tiền và các khoản phải thu, vốn vật tư, hàng hoá.
* Vốn bằng tiền và các khoản phải thu: thuộc loại vốn này bao gồm các khoản
vốn:
Vốn bằng tiền: tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng và tiền đang chuyển.
Tiền là một loại tài sản của doanh nghiệp mà có thể dễ dàng chuyển đổi thành các
loại tài sản khác hoặc để trả nợ. Do vậy, trong hoạt động kinh doanh đòi hỏi mỗi
doanh nghiệp phải có một lượng tiền nhất định.
Các khoản phải thu: chủ yếu là khoản phải thu từ khách hàng, thể hiện số
tiền mà khách hàng trả nợ doanh nghiệp phát sinh trong quá trình bán hàng hoá,
dịch vụ dưới hình thức bán trước trả sau. Ngoài ra, trong một số trường hợp mua
sắm vật tư doanh nghiệp còn phải ứng trước tiền cho người cung ứng, từ đó hình
thành khoản tạm ứng.
* Vốn vật tư, hàng hoá: Để đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh của một
doanh nghiệp tiến hành được thường xuyên, liên tục, không bị gián đoạn đòi hỏi
doanh nghiệp phải hình thành một lượng dự trữ vật tư, hàng hoá nhất định. Vốn vật
tư hàng hoá bao gồm nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu, công cụ và dụng cụ; sản
phẩm dở dang; thành phẩm.
2.2. Dựa theo vai trò của vốn lưu động đối với quá trình sản xuất kinh doanh
có thể chia vốn lưu động thành các loại sau:
*Vốn lưu động trong khâu dự trữ sản xuất bao gồm: vốn để dự trữ vật liệu, nhiên

liệu, phụ tùng thay thế nhằm đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp tiến hành được thường xuyên, liên tục.
*Vốn lưu động trong khâu sản xuất bao gồm các khoản:
Vốn sản phẩm dở dang: là biểu hiện các chi phí sản xuất kinh doanh đã bỏ ra
cho các loại sản phẩm sản xuất dở dang trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Vốn về chi phí trả trước: là các khoản chi phí đã thực tế phát sinh có tác
dụng cho nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh chưa thể tính hết vào giá thành sản
phẩm kỳ này; mà để tính dần vào giá thành sản phẩm của một số kỳ tiếp theo như:
chi phí nghiên cứu phát triển, chi phí cải tiến kỹ thuật, chi phí xây dựng lắp đặt
*Vốn lưu động trong khâu lưu thông bao gồm các khoản:
5
Vốn thành phẩm: là gía trị những sản phẩm đã được sản xuất, đạt tiêu chuẩn
kỹ thuật và được nhập kho.
Vốn bằng tiền: bao gồm tiền mặt tại quỹ, tiền gửi Ngân hàng và tiền đang
chuyển. Tiền là một loại tài sản của doanh nghiệp mà có thể dễ dàng chuyển đổi
thành các loại tài sản khác. Do vậy, trong hoạt động kinh doanh đòi hỏi mỗi doanh
nghiệp phải có một lượng tiền nhất định.
Vốn trong thanh toán: bao gồm những khoản phải thu và tạm ứng.
3.Vai trò của vốn lưu động:
Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, vai trò của vốn lưu động ngày càng
được đề cao đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Vốn lưu động là nguồn tài chính chủ yếu nhằm đảm bảo nhu cầu đầu tư,
phát triển của doanh nghiệp. Vấn đề là ở chỗ người quản lý phải định mức chính xác
nhu cầu vốn, cân nhắc lựa chọn các phương án đầu tư có hiệu quả cao.
Việc đảm bảo, tổ chức, sử dụng vốn lưu động một cách tiết kiệm hiệu quả
được coi là điều kiện tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp.
Trước những đòi hỏi hết sức khắt khe của nền kinh tế thị trường đòi hỏi người quản
lý phải sử dụng vốn lưu động một cách tiết kiệm, hiệu quả, một mặt phải bảo toàn
được vốn, mặt khác phải sử dụng các biện pháp tăng nhanh vòng quay vốn, nâng
cao khả năng sinh lời của vốn.

Vốn lưu động có vai trò đòn bẩy kích thích và điều tiết sản xuất kinh doanh.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, vốn lưu động là một yếu tố
không thể thiếu được và có ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện các nhiệm vụ
sản xuất kinh doanh. Bởi vậy để hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
được tiến hành bình thường, mỗi doanh nghiệp cần phải xác định nhu cầu về vốn
lưu động phù hợp với tính chất và qui mô sản xuất kinh doanh. Vai trò trên đây của
vốn lưu động sẽ trở nên tích cực, có tác dụng kích thích sản xuất khi người quản lý
biết sử dụng một cách hợp lý nguồn vốn lưu động. Ngược lại, nó cũng có thể trở
nên tiêu cực, kìm hãm sản xuất khi người quản lý sai lầm trong việc sử dụng vốn
lưu động.
Tóm lại, với vai trò đặc biệt quan trọng của vốn nói chung và vốn lưu động
nói riêng trong hoạt động kinh doanh, việc nghiên cứu vốn và hiệu quả sử dụng của
vốn trong doanh nghiệp là điều thực sự cần thiết.
6
II.Sự chu chuyển vốn lưu động và nhu cầu vốn lưu động của doanh
nghiệp.
1. Sự chu chuyển vốn lưu động của doanh nghiệp thương mại:
Trong doanh nghiệp thương mại hoạt động trong lĩnh vực lưu thông hàng
hoá, sự vận động của vốn lưu động trải qua hai giai đoạn, theo trình tự:
T-H-T
'
- Giai đoạn 1: Để đảm bảo quá trình lưu chuyển hàng hoá, doanh nghiệp phải ứng
trước một số tiền nhất định để mua vật tư hàng hoá từ nhiều nguồn khác nhau về
dự trữ. Vốn lưu động trong giai đoạn này chuyển từ hình thái tiền tệ sang hình thái
hiện vật (T-H)
- Giai đoạn 2: Doanh nghiệp đưa hàng hoá dự trữ đi tiêu thụ và thu tiền về. Vòng
tuần hoàn của vốn được kết thúc. Trong giai đoạn này vốn lưu động của doanh
nghiệp chuyển từ hình thái hàng hoá sang hình thái tiền tệ ( H -T
'
)

Quá trình vận động của vốn lần lượt trải qua các giai đoạn và cuối cùng trở
về hình thái ban đầu của nó gọi là sự tuần hoàn vốn lưu động. Do quá trình kinh
doanh sản xuất tiếp diễn liên tục, sự tuần hoàn vốn được lặp đi lặp lại có tính chất
chu kỳ dẫn tới sự chu chuyển của vốn lưu động.
Tốc độ chu chuyển vốn lưu động là chỉ tiêu phản ánh trình độ sử dụng vốn
lưu động. Tốc độ chu chuyển vốn nhanh hay chậm nói lên hiệu suất sử dụng vốn
lưu động cao hay thấp.
Như vậy, vốn lưu động là điều kiện vật chất không thể thiếu trong quá trình
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nó là “Số tiền ứng trước” nên trong quản lý
cần xác định đúng đắn nhu cầu cần thiết vốn lưu động và nguồn bù đắp, đồng thời
tìm biện pháp thu hồi vốn nhanh và bảo toàn vốn. Mặt khác, vốn lưu động “tuần
hoàn” và “chu chuyển” không ngừng, cần tăng nhanh vòng quay, tránh ứ đọng lãng
phí vốn.
2.Nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp sản xuất
2.1.Chu kỳ kinh doanh và nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp sản xuất
Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra thường xuyên hàng ngày
bắt đầu từ việc mua sắm và dự trữ vật tư cần thiết, tiếp đó tiến hành sản xuất sản
phẩm và sau khi sản phẩm được sản xuất xong thì thực hiện việc đưa sản phẩm ra
7
tiêu thụ và thu tiền về. Quá trình kinh doanh diễn ra thường xuyên, liên tục tạo
thành chu kỳ kinh doanh.
Như vậy, chu kỳ kinh doanh của mỗi doanh nghiệp là thời gian trung bình
cần thiết để thực hiện việc mua sắm, dự trữ vật tư, sản xuất ra sản phẩm và bán sảm
phẩm, thu được tiền bán hàng. Có thể chia chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp
thành 3 giai đoạn sau:
- Giai đoạn mua sắm và dự trữ vật tư: Hoạt động của doanh nghiệp ở giai đoạn
này là tạo lập nên một lượng vật tư dự trữ. Như vậy, trong giai đoạn này phát sinh
các luồng vật tư đi vào doanh nghiệp. Trong trường hợp phải trả tiền ngay thì sẽ
phải có luồng tiền ra khỏi doanh nghiệp gắn liền và ngược chiều với luồng vật tư.
Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường mà tín dụng thương mại phát triển, các

doanh nghiệp thường được mua trước trả sau, có nghĩa là người cung ứng vật tư đã
cung cấp cho doanh nghiệp một khoản tín dụng.
- Giai đoạn sản xuất: Trong giai đoạn này, vật tư được sử dụng và chuyển hoá
sang hình thái sản phẩm dở dang và thành phẩm. Để thực hiện quá trình này doanh
nghiệp phải ứng ra một số vốn nhất định.
- Giai đoạn bán sản phẩm và thu tiền hàng: Sau khi đã sản xuất xong, phải nhập
kho và hình thành nên một lượng dự trữ nhất định, doanh nghiệp thực hiện việc
bán hàng. Nếu như doanh nghiệp thực hiện việc bán và thu tiền ngay thì liền sau
việc xuất giao hàng doanh nghiệp nhận được tiền bán hàng và số vốn doanh nghiệp
ứng ra đã thu hồi. Vốn này tiếp tục được sử dụng vào chu kỳ kinh doanh mới. Nếu
như doanh nghiệp bán chịu cho khách hàng thì hàng hoá được xuất giao nhưng
phải sau một thời gian nhất định doanh nghiệp mới thu được tiền, chỉ khi nào thu
được tiền mới thu hồi được số vốn ứng ra. Như vậy, trong chu kỳ kinh doanh của
doanh nghiệp phát sinh nhu cầu vốn lưu động. Nhu cầu vốn lưu động của doanh
nghiệp là thể hiện số vốn tiền tệ cần thiết doanh nghiệp phải trực tiếp ứng ra để
hình thành một lượng dự trữ hàng tồn kho và các khoản cho khách hàng nợ. Từ đó
nhu cầu vốn lưu động kỳ kế hoạch được xác định theo công thức:
Số vốn lưu động doanh nghiệp phải trực tiếp ứng ra tuỳ thuộc vào nhu cầu
vốn lưu động trong từng thời kỳ kinh doanh. Trong công tác quản lý vốn lưu động,
vấn đề quan trọng là phải xác định được nhu cầu vốn lưu động. Nhu cầu vốn lưu
8
động được xác định đúng đắn là cơ sở để doanh nghiệp tổ chức các nguồn vốn đáp
ứng đầy đủ và kịp thời nhu cầu vốn lưu động cho hoạt động kinh doanh.
2.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp
Nhu cầu vốn lưu động của một doanh nghiệp phụ thuộc những yếu tố sau:
- Những yếu tố về tính chất ngành nghề kinh doanh và mức độ hoạt động của
doanh nghiệp. Các yếu tố về quy mô kinh doanh, chu kỳ kinh doanh, tính chất thời
vụ trong công việc kinh doanh, những thay đổi về công nghệ sản xuất có ảnh
hưởng rất lớn đến lượng vốn mà doanh nghiệp phải ứng ra và thời gian trong đó
vốn phải ứng ra.

- Những yếu tố về mua sắm vật tư và tiêu thụ sản phẩm: Khoảng cách giữa doanh
nghiệp với những người cung cấp vật tư, hàng hoá; khoảng cách giữa doanh nghiệp
với các đơn vị mua hàng hay nói cách khác là khoảng cách giữa doanh nghiệp với thị
trường, điều kiện bán hàng và phương tiện giao thông vận tải
- Những yếu tố về chính sách của doanh nghiệp trong tiêu thụ, tín dụng và tổ
chức thanh toán: Chính sách về tiêu thụ sản phẩm, tín dụng doanh nghiệp sẽ ảnh
hưởng lớn đến kỳ hạn thanh toán (bao gồm kỳ hạn thanh toán với người bán và với
ngươì mua). Kỳ hạn thanh toán chi phối đến nợ phải thu và nợ phải trả. Việc tổ
chức xuất giao hàng thực hiện các thủ tục thanh toán và tổ chức thanh toán thu tiền
hàng ảnh hưởng không nhỏ đến nhu cầu vốn của doanh nghiệp.
- Những yếu tố giá cả vật tư hoặc hàng hoá dự trữ: Sự biến động về giá cả vật
tư(hoặc hàng hoá dự trữ) cũng ảnh hưởng không nhỏ đến nhu cầu vốn của doanh
nghiệp.
III. Sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động
trong doanh nghiệp
1. Sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động:
Một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì trước hết việc sử dụng vốn
trong quá trình kinh doanh phải đem lại hiệu quả kinh tế. Để đảm bảo quá trình sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra một cách đều đặn, liên tục ở bất kỳ qui
mô nào đều cần thiết phải có một lượng vốn lưu động nhất định và phải có những
biện pháp quản lý vốn thích hợp tuỳ theo tình hình kinh doanh ở từng thời điểm
khác nhau. Có như vậy, doanh nghiệp mới bảo toàn và phát triển được nguồn vốn.
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong công tác quản lý vốn lưu động là phải
9
ước lượng chính xác nhu cầu vốn lưu động cần thiết tối thiểu cho sản xuất kinh
doanh. Việc ước lượng chính xác số vốn lưu động sẽ giúp doanh nghiệp tránh được
việc ứ đọng vốn, thúc đẩy tốc độ luân chuyển nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn.
Bảo toàn và phát triển vốn lưu động sẽ bảo toàn được giá trị thực của vốn.
Hay nói cách khác là đảm bảo được sức mua của vốn không bị giảm sút so với ban

đầu. Điều này được thể hiện qua khả năng mua sắm tài sản lưu động và khả năng
thanh toán của doanh nghiệp trong kinh doanh.
Lựa chọn các hình thức và phương pháp huy động vốn lưu động thích hợp sẽ
giảm bớt được khoản chi phí sử dụng vốn không cần thiết, do đó tác động lớn đến
việc tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Nhìn chung việc sử dụng vốn lưu động có
hiệu quả và không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động là rất cần thiết.
Nó là điều kiện ban đầu cho sự tồn tại và tháo gỡ những khó khăn của doanh
nghiệp trong quá trình kinh doanh, giúp doanh nghiệp khẳng định được vị trí của
mình trên thương trường, tăng khả năng cạnh tranh.
2. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động:
Để đánh gía hiệu suất sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp ta thường sử
dụng một số chỉ tiêu chủ yếu sau:
2.1. Tốc độ luân chuyển vốn lưu động:
Tốc độ luân chuyển vốn lưu động nhanh hay chậm nói lên hiệu suất sử dụng
vốn lưu động cao hay thấp. Tốc độ luân chuyển vốn lưu động được biểu hiện bằng
hai chỉ tiêu: số lần luân chuyển (hay số vòng quay vốn lưu động) và kỳ luân
chuyển vốn lưu động
Số vòng quay vốn lưu động =
Chỉ tiêu này cho biết vốn lưu động quay được bao nhiêu vòng trong kỳ. Nếu
số vòng quay tăng so với thực tế kỳ trước, chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn tăng và
ngược lại.
Kỳ luân chuyển của vốn lưu động:
Chỉ tiêu này phản ánh số ngày bình quân cần thiết để vốn lưu động thực hiện
một lần luân chuyển độ dài thời gian một vòng quay của vốn lưu động ở trong kỳ.
10
Thời gian của vòng chu chuyển vốn càng ngắn thì tốc độ chu chuyển vốn càng
nhanh và ngược lại.
Thời gian của một vòng chu chuyển =

Từ hai chỉ tiêu trên, ta có thể thấy được mức độ lãng phí hay tiết kiệm vốn lưu

động do thay đổi tốc độ luân chuyển vốn lưu động như sau:
=
Trong đó: K
1
là kỳ luân chuyển vốn lưu động kỳ này
K
0
là kỳ luân chuyển vốn lưu động kỳ trước
Đây là chỉ tiêu bổ sung cho việc đánh giá hiệu suất sử dụng vốn lưu động. Nó
phản ánh số vốn lưu động có thể tiết kiệm được do tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu
động ở kỳ này so với kỳ trước.
2.2. Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động:
Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động =
Chỉ tiêu này cho biết để có một doanh thu thì phải có bao nhiêu đồng vốn lưu
động. Hệ số này càng nhỏ chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn càng cao và vốn được
tiết kiệm càng nhiều.
2.3. Các hệ số khả năng thanh toán:
Các nguồn vốn khai thác từ bên ngoài doanh nghiệp tuy có nhiều hình thức
phong phú nhưng thực chất vẫn là nguồn vốn tín dụng – hết thời hạn thoả thuận
doanh nghiệp phải thanh toán với các chủ nợ. Bởi vậy, dấu hiệu bảo toàn các khoản
vốn thuộc nguồn này là khả năng thanh toán. Nếu doanh nghiệp không có khả năng
thanh toán chứng tỏ tình hình tài chính của doanh nghiệp không tốt. Ngược lại,
doanh nghiệp luôn có khả năng thanh toán chứng tỏ tình hình tài chính ổn định,
vốn của doanh nghiệp được bảo toàn.
Hệ số khả năng thanh toán là chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh toán của doanh
nghiệp đối với các khoản nợ.
Hệ số thanh toán hiện thời =
11
Khi hệ số này thấp thể hiện khả năng trả nợ của doanh nghiệp ở mức độ thấp và
cũng là dấu hiệu báo trước những khó khăn tiềm ẩn về tài chính mà doanh nghiệp

có thể gặp phải trong việc trả nợ. Hệ số này cao cho thấy doanh nghiệp có khả
năng cao trong việc sẵn sàng thanh toán các khoản nợ đến hạn.Tuy nhiên, nếu hệ
số này quá cao thì cần phải xem xét thêm tình hình tài chính liên quan.
Hệ số thanh toán nhanh =
Hệ số này càng cao thì khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp cao và
ngược lại.
2.4. Kỳ thu tiền trung bình và vòng quay hàng tồn kho:
Kỳ thu tiền trung bình =

Chỉ tiêu này cho biết độ dài thời gian để thu được các khoản tiền bán hàng phải
thu từ khi bán hàng đến khi thu được tiền.
Vòng quay hàng tồn kho =
Vòng quay hàng tồn kho cho biết sự luân chuyển của hàng hoá dự trữ, số vòng
quay hàng tồn kho cao cho thấy việc tổ chức và quản lý dự trữ của doanh nghiệp
tốt, doanh nghiệp có thể rút ngắn được chu kỳ kinh doanh và giảm được lượng vốn
bỏ vào hàng tồn kho. Nếu số vòng quay hàng tồn kho thấp, doanh nghiệp có thể dự
trữ hàng hoá quá nhiều dẫn đến bị ứ đọng vốn lưu động, tiêu thụ chậm, có thể làm
doanh nghiệp thiếu vốn kinh doanh.
2.5. Hệ số sinh lời của vốn lưu động:
Hệ số sinh lời của vốn lưu động =
Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn lưu động trong kỳ tạo ra được bao nhiêu
đồng lợi nhuận thuần, chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ doanh nghiệp sử dụng vốn
lưu động có hiệu quả.
12
CHƯƠNG II:TÌNH HÌNH SỬ DỤNG VỐN LƯU ĐỘNG VÀ HIỆU QUẢ SỬ
DỤNG VỐN LƯU ĐỘNG TẠI TỔNG CÔNG TY DA GIẦY VIỆT NAM
I.Khái quát về Tổng công ty Da Giầy Việt Nam
1.Quá trình hình thành và phát triển của Tổng công ty Da Giầy Việt Nam
Tổng công ty Da Giầy Việt Nam được thành lập theo quyết định phê duyệt
của HĐBT số 297- CT và quyết định 420/CNnTCLD ngày 30/10/1989 của Bộ

công nghiệp nhẹ trên cơ sở hợp nhất Liên hiệp các xí nghiệp Da- Giầy với Công ty
Da- Giầy Việt Nam. Đến năm 1996, chủ trương của Nhà nước là sắp xếp tổ chức
lại các đơn vị sự nghiệp, sản xuất kinh doanh theo QĐ 1188/ QĐ- TCCB. Tổng
công ty Da- Giày Việt Nam được xếp hạng Tổng công ty Nhà nước, theo quyết
định số 90/ TTg ngày 07/03/1994.
- Tên giao dịch quốc tế là: LEATHER AND FOOTWEAR CORPORATION
- Tên viết tắt là LEAPRODEXIM VIETNAM.
- Trụ sở chính của Tổng công ty tại: 25 Lý Thường Kiệt- Hoàn Kiếm- Hà Nội.
- Văn phòng của Tổng công ty đặt tại Thành phố Hồ Chí Minh và các chi nhánh,
đại diện ở khắp trong và ngoài nước.
2. Ngành nghề kinh doanh của Tổng công ty Da Giầy Việt Nam
- Sản xuất và kinh doanh mặt hàng da, giày, dép các loại và các sản phẩm chế
biến từ da, giả da và các nguyên liệu, phụ liệu khác
- Dịch vụ, tư vấn, đầu tư, tạo nguồn vốn đầu tư
- Kinh doanh khách sạn, du lịch, hội chợ triển lãm, thông tin, quảng cáo
- Xuất – nhập khẩu:
+Xuất khẩu trực tiếp: Các sản phẩm giày, đồ da, giả da, da thuộc
+Nhập khẩu trực tiếp: Các loại nguyên liệu, phụ liệu, vật tư, thiết bị, phụ
tùng và các loại hàng hoá khác phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh.
3. Đặc điểm về tổ chức quản lý của Tổng công ty:
Tổng công ty Da Giầy Việt Nam là Tổng công ty Nhà nước gồm các thành
viên là doanh nghiệp Nhà nước hạch toán độc lập, doanh nghiệp hạch toán phụ
thuộc và đơn vị sự nghiệp có mối quan hệ về lợi ích kinh tế, tài chính, công
nghệ hoạt động trong ngành Da giầy.
Cơ cấu tổ chức của Tổng công ty gồm có:
13
*Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát
*Tổng Giám đốc và bộ máy giúp việc
*Các đơn vị thành viên
a. Hội đồng quản trị: có trách nhiệm xây dựng điều lệ tổ chức và hoạt động

của Tổng công ty. Hội đồng quản trị có chức năng quản lý hoạt động của Tổng
công ty, chịu trách nhiệm trước Bộ Công nghiệp và Chính phủ, về sự phát triển
của Tổng công ty theo nhiệm vụ của Nhà nước giao.
Hội đồng quản trị gồm 5 thành viên:
1 Chủ tịch hội đồng quản trị
1 Thành viên kiêm Tổng Giám đốc
1 Thành viên kiêm trưởng ban kiểm soát
2 Chuyên viên giỏi về lĩnh vực hoạt động của Tổng công ty
Tổng Giám đốc: là người đại diện pháp nhân của Tổng công ty và chịu trách
nhiệm trước Hội đồng quản trị, là người có quyền điều hành cao nhất trong
Tổng công ty.
Phó Tổng Giám đốc: là người giúp Tổng Giám đốc điều hành một hoặc một số
lĩnh vực hoạt động của Tổng công ty theo phân công hoặc uỷ quyền của Tổng
Giám đốc.
Kế toán trưởng: giúp Tổng Giám đốc chỉ đạo, tổ chức và thực hiện công tác kế
toán thống kê của Tổng công ty.
b.Các đơn vị thành viên:
*Các đơn vị hạch toán độc lập: Là thành viên của Tổng công ty có quyền tự chủ
kinh doanh, tự chủ về tài chính và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật.
*Các đơn vị hạch toán phụ thuộc: có quyền tự chủ kinh doanh theo phân cấp
của Tổng công ty, chiụ ràng buộc về nghĩa vụ và quyền lợi của Tổng công ty .
c.Các ban nghiệp vụ của Tổng công ty có chức năng tham mưu, giúp việc cho
Hội đồng quản trị và Tổng Giám đốc quản lý và điều hành công việc.
d.Văn Phòng đaị diện gồm các đơn vị thành viên, chi nhánh và văn phòng đại
diện.
e. Ban kiểm soát: có nhiệm vụ thanh tra, kiểm soát việc tuân thủ chế độ quản lý
vốn, tài sản và giám sát việc ghi chép của phòng kế toán.
14
Sơ đồ 1:SƠ ĐỒ BỘ MÁY TỔ CHỨC CỦA TỔNG CÔNG TY DA GIẦY VIỆT NAM
BỘ MÁY GIÚP VIỆC

BAN KẾ HOẠCH ĐẦU TƯ
BAN TỔ CHỨC CÁN BỘ
BAN TÀI CHÍNH KẾ TOÁN
BAN XUẤT NHẬP KHẨU
VĂN PHÒNG
CÁC CHI NHÁNH
CÁC ĐƠN VỊ THÀNH VIÊN
(17 đơn vị thành viên)
VĂN PHÒNG ĐẠI DIỆN TẠI TPHCM
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
BAN KIỂM SOÁT
TỔNG GIÁM ĐỐC
CÁC PHÓ TỔNG GIÁM ĐỐC
15
16
4. Đặc điểm bộ máy kế toán của Tổng công ty
Bộ máy kế toán của Tổng công ty gồm:
1Kế toán trưởng
2 Phó phòng kế toán: 1phụ trách bộ phận quản lý , 1phụ trách bộ phận
kế toán văn phòng
Các bộ phận phụ thuộc bộ phận quản lý.
Các kế toán phần hành thuộc bộ phận văn phòng Kinh doanh XNK.
Kế toán trưởng:phụ trách chung công tác tài chính của Tổng công ty, trực tiếp chỉ
đạo :
- Tổ chức công tác kế toán và bộ máy kế toán
- Kế hoạch, cân đối tài chính
- Vay mượn, thế chấp, cầm cố, thanh toán bù trừ
- Đầu tư xây dựng cơ bản, liên doanh, xây dựng dự án, phương án kinh
doanh
- Tổng quyết toán

- Chính sách, chế độ vốn, phân phối lợi nhuận, tiền lương, tiền thưởng
Định kỳ, kế toán trưởng phải lập báo cáo tài chính để phục vụ nhu cầu thông tin
về tài chính và phục vụ cho quá trình quản lý của cấp trên.
Phó phòng kế toán phụ trách bộ phận quản lý, điều hành bộ phận quản lý, kiểm
tra, giám sát và hướng dẫn các qui chế của cấp trên đối với từng bộ phận trong bộ
phận quản lý. Thu nhận, kiểm tra các báo cáo kế toán, thống kê của các đơn vị trực
thuộc và lập báo cáo kế toán thống kê cho toàn Tổng công ty. Thực hiện công tác
tài chính và công tác thống kê trong Tổng công ty.
Bộ phận quản lý: có nhiệm vụ chỉ đạo, kiểm tra thu thập và xử lý các thông tin từ
các đơn vị trực thuộc, lập báo cáo và hướng dẫn các phòng kế toán thành viên
hạch toán độc lập và phụ thuộc theo yêu cầu quản lý của cấp trên. Bộ phận quản lý
gồm: Bộ phận tài chính, bộ phận kiểm tra, bộ phận kế toán tổng hợp. Các bộ phận
thành viên này có chức năng quản lý các thành viên trực thuộc.
Phó phòng kế toán phụ trách bộ phận văn phòng: phụ trách điều hành trực tiếp
các kế toán liên quan đến phần hành XNK, thu nhận, kiểm tra, hướng dẫn công tác
kế toán XNK, lập báo cáo tổng hợp cho Kế toán trưởng của Tổng công ty.
17
Bộ phận kế toán văn phòng:chuyên hoạt động kinh doanh hàng hoá XNK và kinh
doanh nội địa.
Kế toán xuất khẩu: theo dõi tình hình hàng hoá xuất khẩu, từ quá trình thu mua
hàng xuất khẩu đến khi hàng đã được coi là tiêu thụ.
Kế toán nhập khẩu: theo dõi tình hình hàng nhập khẩu kể từ khi đơn đặt hàng
được chấp nhận, làm các thủ tục nhập khẩu, theo dõi tài khoản phải trả, thanh toán
và nhận hàng đưa về lưu kho.
Kế toán kinh doanh nội địa: theo dõi tình hình hàng hoá được phân phối trong
nước. Theo dõi từ khi hàng được đưa về các kho của cửa hàng hoặc đại lý đến khi
hàng được xác định là tiêu thụ.
Kế toán TSCĐ và CCDC: theo dõi tổng hợp và chi tiết trích và phân bổ khấu hao
TSCĐ, lập báo cáo tăng giảm TSCĐ. Theo dõi tình hình CCDC tồn kho, CCDC
đang sử dụng và phân bổ CCDC.

Kế toán quỹ và ngân hàng: phụ trách nghiệp vụ liên quan đến quĩ tiền mặt và tiền
gửi ngân hàng, theo dõi tình hình biến động của tài khoản tiền gửi ngân hàng, chịu
trách nhiệm thanh toán với ngân hàng, theo dõi tỷ giá
Kế toán chi phí: theo dõi tập hợp các chi phí trực tiếp và gián tiếp liên quan đến
hoạt động sản xuất kinh doanh và phân bổ chi phí.
Thủ quỹ: có nhiệm vụ quản lý lượng tiền mặt có tại két của Tổng công ty. Hàng
ngày thủ quỹ vào sổ các nghiệp vụ liên quan đến tiền mặt, cuối ngày thủ quĩ đối
chiếu và kiểm tra sai sót (nếu có), sau đó kiểm quĩ.
Kế toán tổng hợp: có nhiệm vụ thực hiện các phần hành kế toán còn lại như hoạt
động tài chính, hoạt động bất thường; tổng hợp kế toán văn phòng, khoá sổ kế toán,
lập báo cáo kết quả kinh doanh, lập bảng cân đối kế toán, lập các báo cáo khác theo
yêu cầu của công tác quản lý của Trưởng phòng kế toán bộ phận văn phòng.
18
Sơ đồ 2: SƠ ĐỒ BỘ MÁY KẾ TOÁN CỦA TỔNG CÔNG TY DA GIẦY VIỆTNAM.
Kế toán trưởng
Phó phòng kế toán
Phó phòng kế toán
Bộ phận quản lý
Bộ phận kế toán văn phòng
kinh doanh XNK
Bộ phận kiểm tra kế toán
Bộ phận tài chính
Bộ phận kế toán tổng hợp
Kế toán xuất khẩu
Kế toán nhập khẩu
Kế toán kinh doanh nội địa
Kế toán TSCĐ
Kế toán chi phí
Kế toán quĩ và Ngân hàng
Thủ quỹ

Kế toán tổng hợp
19
5. Kết quả hoạt động kinh doanh của Tổng công ty Da Giầy Việt Nam năm
1999 – 2001
Qua bảng 1 ta thấy: Tổng doanh thu năm 2000 đạt 108.619.295.527 VND
tăng 3.639.269.861 VND với tỷ lệ 3,46%. Đến năm 2001, tổng doanh thu đạt
113.543.187.631 VND tăng 4.923.892.104 VND với tỷ lệ tăng 4,53% tăng cao hơn
so với năm 2000. Mặt khác ta thấy trong tổng doanh thu có bộ phận doanh thu xuất
khẩu. Đây là bộ phận giữ vai trò quan trọng trong tổng doanh thu. Doanh thu xuất
khẩu năm 2000 là 66.646.460.302 VND với tỷ trọng là 61,35%. Tuy nhiên, doanh
thu xuất khẩu đã giảm 19.156.759.486 VND so với năm 1999 với tỷ lệ giảm là
22,32%. Sang năm 2001 doanh thu xuất khẩu là 69.371.561.134 VND với tỷ trọng
là 61,09%. Như vậy doanh thu xuất khẩu đã tăng trở lại và tăng 2.725.100.382
VND với tỷ lệ tăng 4,08%. Doanh thu xuất khẩu trong năm 2000 giảm là do xu
hướng chung về nhu cầu mặt hàng giầy vải của thị trường thế giới(chủ yếu là EU)
vẫn có chiều hướng giảm. Sự giảm sút đơn hàng giầy vải vẫn tiếp tục theo xu
hướng giảm số lượng đơn hàng chính vụ. Trong năm 2001 doanh thu xuất khẩu có
tăng nhưng vẫn còn kém xa so với năm 1999. Đó là do trong năm 2001, trong bối
cảnh suy giảm kinh tế toàn cầu, tiếp đến sự kiện khủng bố xảy ra ở Mỹ ngày 11
tháng 9 đã tác động đến nền kinh tế nhiều nước trên thế giới, gây biến động nhu
cầu tiêu dùng ở các thị trường truyền thống của ngành Da Giầy Việt Nam.
Tổng doanh thu tăng lên làm cho doanh thu thuần tăng. Năm 1999 doanh thu
thuần là:104.886.028.219 VND đến năm 2000 là: 107.987.650.146 VND tăng
3.101.621.927 VND với tỷ lệ tăng 2,95%. Sang năm 2001 doanh thu thuần là
112.869.701.892 VND tăng 4.882.051.746 VND với tỷ lệ tăng4,52% gần bằng so
với tỷ lệ tăng của tổng doanh thu, điều này được đánh giá là tốt. Để đạt được điều
này, trong năm 2000, 2001 tuy gặp nhiều khó khăn nhưng Tổng công ty vẫn đẩy
mạnh được sự tăng trưởng của tổng doanh thu.
Mặc dù các khoản giảm trừ có tăng nhưng do tổng doanh thu tăng cao nên
vẫn duy trì được sự tăng trưởng của doanh thu thuần.

Tuy nhiên, muốn đánh giá chính xác hiệu quả kinh doanh ta phải xem xét
các chỉ tiêu giá vốn, chi phí và lợi nhuận cụ thể với việc giảm sút nhu cầu tại một
số thị trường truyền thống, cơ chế thu mua nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm của
các cơ sở thuộc da quốc doanh chưa thông thoáng, việc thu mua nguyên liệu da
20
sống trong điều kiện giá cả biến động tăng cao, mức tăng của các khoản giảm trừ
là571,98% (2000). Tuy nhiên trong năm 2001 mức tăng của các khoản giảm trừ đã
giảm mạnh, tỷ lệ chỉ còn là 6,62%. Do thực hiện mục tiêu tăng doanh thu đẩy mạnh
xuất khẩu và giữ chữ tín trong kinh doanh, Tổng công ty đã đầu tư thêm trong khâu
bán hàng, chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp đặc biệt là năm 2001.
Năm 2000, chi phí bán hàng tăng 17.266.735 VND với tỷ lệ 0,54% so với năm
1999. Sang năm 2001 chi phí bán hàng tăng 52.623.935 VND với tỷ lệ tăng 1,65%.
Năm 2000 chi phí quản lý doanh nghiệp tăng 1.254.914.734 VND với tỷ lệ tăng
12,62% .Sang năm 2001 chi phí quản lý doanh nghiệp tăng 841.370.885 VND với
tỷ lệ tăng 7,51%.
Tỷ lệ tăng của chi phí bán hàng nhỏ hơn tỷ lệ tăng của doanh thu. Điều này
được đánh giá là tốt vì cho thấy toàn Tổng công ty đã có phương án đầu tư, xây
dựng thêm cửa hàng, thuê thêm nhân viên một cách hợp lý có hiệu quả.
Xét đến lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh ta thấy trong ba năm liên tục đều
giảm: 919.010.140 VND (1999); 2.243.045.525 VND (2000) và 2.011.785.601
VND (2001). Do đó so sánh lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh giữa năm
1999 và năm 2000 giảm 1.328.035.385 VND với tỷ lệ giảm là 145,13%; so sánh
giữa năm 2000 và năm 2001 ta thấy lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh tăng
231.259.924 VND với tỷ lệ tăng10,31%. Điều này cho thấy hiệu quả kinh doanh
thấp, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là lỗ.
Trong năm 2000, lợi nhuận từ hoạt động tài chính giảm 323.283.321 VND
với tỷ lệ giảm 114,71%. Nhưng sang đến năm 2001 lợi nhuận từ hoạt động tài
chính tăng 231.259.924 VND với tỷ lệ tăng 10,31% tức là tăng cao hơn so với năm
2000. Điều này cũng cho ta thấy được hiệu quả kinh doanh của công ty là tốt.Ta
cũng xét đến lợi nhuận bất thường của công ty ta thấy trong ba năm liên tục lợi

nhuận này đều tăng: 795.944.187 VND (1999); 2.299.206.917 VND (2000); và
2.130.747.798 VND (2001).
Nhìn chung hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty là hiệu quả chưa cao
và lợi nhuận đem lại cho công ty chính là từ hoạt động tài chính và hoạt động bất
thường.
Đánh giá hiệu quả kinh doanh ta thấy lợi nhuận sau thuế của toàn Tổng công
ty năm 1999 là: 162.742.307 VND, năm 2000 là: 14.686.331 VND giảm
21
là:148.055.976 VND với tỷ lệ giảm 90,97%. Sang năm 2001 lợi nhuận thuần sau
thuế là: 193.245.738 VND tăng 178.559.407 VND với tỷ lệ tăng 1215,82%. Có thể
nói năm 2001 lợi nhuận thuần sau thuế cao hơn so với năm 2000, sau một năm suy
giảm nghiêm trọng là do năm 2001 Tổng công ty đã mở rộng quy mô kinh doanh,
xây dựng thêm cửa hàng.
Trong bối cảnh tình hình khó khăn của các doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế, với những thành công và khó khăn của công ty trong ba năm qua
chứng tỏ hoạt động có chiều hướng tốt. Để đạt được kết quả này là nhờ vào
phương hướng chỉ đạo của Tổng công ty kết hợp với sự năng động sáng tạo, nhạy
bén của các cán bộ trong Tổng công ty. Tuy nhiên, doanh nghiệp cần nghiên cứu để
tìm ra những giải pháp thích hợp nhằm tăng hiệu quả kinh doanh, tăng doanh thu
xuất khẩu, giảm những khoản chi phí không cần thiết.
22
BẢNG1: PHÂN TÍCH KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH TẠI TỔNG CÔNG TY DA GIẦY
VIỆT NAM(1999-2001)
Chỉ tiêu
Năm1999 Năm 2000
Năm 2001 So sánh
(1999/2000)
Số tiền
Tỷ
trọng

(%)
Số tiền
Tỷ
trọng
(%)
Số tiền
2000/1999
Tỷ
trọng
(%)
Số tiền
2001/2000
1.Tổng doanh thu 104.980.025.666 100 108.619.295.527 100 113.543.187.631 100 3.639.269.861
Doanh thu XNK 85.803.219.788 81,73 66.646.460.302 61,35 69.371.561.134 61,09 -19.156.759.486
2. Các khoản giảm trừ 93.997.447 631.645.381 673.485.739 537.647.934
3. Doanh thu thuần 104.886.028.219 107.987.650.146 112.869.701.892 3.101.621.927
4.Giá vốn hàng bán 92.705.251.530 95.862.727.373 99.619.524.375 3.157.475.843
5.Lợi nhuận gộp 12.180.776.689 12.124.922.773 13.250.177.517 -55.853.916
6.Chi phí bán hàng 3.157.619.667 3.174.886.402 3.227.510.337 17.266.735
7.Chi phí quản lý DN 9.938.167.162 11.193.081.896 12.034.452.781 1.254.914.734
8.Lợi nhuận thuần từ
hoạt động kinh doanh
-915.010.140 -2.243.045.525 -2.011.785.601 -1.328.035.385
9.Lợi nhuận từ hoạt
động tài chính
281.808.260 -41.475.061 73.283.541 -323.283.321
10.Lợi nhuận bất
thường
795.944.187 2.299.206.917 2.131.747.798 1.503.262.730
11.Lợi nhuận sau thuế 162.742.307 14.686.331 193.245.738 -148.055.976

12.Tỷ lệ lợi nhuận
thuần sau thuế / Doanh
thu thuần
0.155 0.013 0.171 -0,142
II. Tình hình sử dụng vốn lưu động và hiệu quả sử dụng vốn lưu
động tại Tổng công ty Da Giầy Việt Nam
1.Tình hình sử dụng vốn lưu động tại Tổng công ty Da Giầy Việt Nam
1.1. Cơ cấu vốn lưu động theo nguồn hình thành
Là công ty kinh doanh chủ yếu là hàng hoá xuất nhập khẩu, vốn lưu
động được hình thành chủ yếu ở các bộ phận sau:
Nguồn vốn chủ sở hữu bao gồm: vốn lưu động do ngân sách Nhà nước
cấp và nguồn vốn lưu động được bổ sung từ lợi nhuận chưa phân phối.
Nguồn vốn vay chủ yếu là vay ngắn hạn.
Nguồn vốn khác: là nguồn vốn đi chiếm dụng, các khoản chi phí phải
trả, tài sản thừa chờ xử lý, nhận ký quỹ – ký cược dài hạn.
Thông qua bảng 2 ta thấy năm 1999 vốn chủ sở hữu của Tổng công ty là
34.003.656.374 VND chiếm tỷ trọng 61,25%. Mặt khác do đặc điểm kinh
doanh chủ yếu là xuất khẩu nên số lượng vốn lưu động cần cho một lần xuất,
nhập là rất lớn. Chính điều này mà nguồn vốn vay ngắn hạn chiếm một tỷ
trọng tương đối lớn. Năm 1999, nguồn vốn vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng
29,22%, thấp hơn so với tỷ trọng vốn chủ sở hữu (61,25%). Điều này chứng tỏ
khả năng chủ động của công ty là tốt.
Sang năm 2000, nguồn vốn chủ sở hữu của công ty chiếm tỷ trọng
64,85% tăng 6.821.234.283 VND với tỷ lệ tăng 20,06%. Trong khi đó nguồn
vốn vay chủ yếu là nguồn vốn vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng 27,94% tăng
1.363.894.333 VND với tỷ lệ tăng 8,40% Điều này cho thấy tỷ lệ tăng của
nguồn vốn vay ngắn hạn thấp hơn so với tỷ lệ tăng của nguồn vốn chủ sở hữu,
chứng tỏ khả năng chủ động vốn của doanh nghiệp năm 2000 tốt hơn so với
năm 1999. Đây là dấu hiệu tốt của doanh nghiệp.
Đến năm 2001, nguồn vốn chủ sở hữu là 45.680.727.964 VND chiếm tỷ

trọng 67,72% tăng 4.855.837.307 VND với tỷ lệ tăng 11,89%. Trong khi đó
nguồn vốn vay chủ yếu là nguồn vốn vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng 26,18% tăng
71.390.201 VND với tỷ lệ tăng 0,4% so với năm 2000 Nguồn vốn chủ sở hữu
tăng nhanh hơn so với tỷ lệ tăng của nguồn vốn vay. Điều này chứng tỏ khả
năng chủ động về vốn của doanh nghiệp vẫn rất tốt.
Một bộ phận khác cấu thành nên vốn lưu động là vốn khác. Đây là
nguồn vốn mà doanh nghiệp nhận ký quỹ, ký cược dài hạn hoặc các khoản chi
phí phải trả, tài sản thừa chờ xử lý. Thông qua bảng số liệu trên ta thấy nguồn
vốn khác năm 2000 giảm 118.478.453 VND với tỷ lệ giảm 84,46%. Nguồn
vốn này giảm là do trong năm 2000, Tổng công ty đã tìm nguồn hàng chưa hợp
lý. Nhưng đến năm 2001, nguồn vốn khác tăng 113.923.018 VND với tỷ lệ
522,75% tăng cao hơn nhiều so với năm 2000. Điều này chứng tỏ trong năm
qua, Tổng công ty đã mở rộng được quy mô kinh doanh, tìm kiếm nguồn hàng
hợp lý, đồng thời tạo dựng được uy tín tốt với các bạn hàng nước ngoài.
Nguồn vốn đi vay năm 2000 tăng 1.363.894.333 VND tăng 8,4%. Đến
năm 2001 nguồn vốn đi vay đã tăng ít hơn so với tỷ lệ tăng của tổng doanh thu.
Như vậy, việc hạ thấp tỷ lệ vốn vay đã tạo điều kiện cho việc giảm chi phí,
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
BẢNG 2: CƠ CẤU VỐN LƯU ĐỘNG THEO NGUỒN HÌNH THÀNH (1999 - 2001)
Chỉ tiêu
Năm
1999
Năm
2000
Năm
2001
Chênh lệch
Số tiền
Tỷ trọng
(%)

Số tiền
Tỷ trọng
(%)
Số tiền
Tỷ trọng
(%)
Số tiền
2000/1999
Tỷ lệ (%)
Số tiền
2001/2000
Tỷ lệ (%)
Nguồn vốn
lưu động
BQ
55.516.357.
935
100
62.947.038.
212
100
67.453.794.
521
100
7.430.680.
277
13,38
4.506.756.3
09
7,16

Nguồn vốn
chủ sở hữu
34.003.656.
374
61,25
40.824.890.
657
64,85
45.680.727.
964
67,72
6.821.234.2
83
20,06
4.855.837.3
07
11,89
Nguồn vốn
vay ngắn
hạn BQ
16.224.222.
394
29,22
17.588.116.
727
27,94
17.659.506.
928
26,18
1.363.894.

333
8,40 71.390.201 0,40
Nguồn vốn
khác
140.271.50
6
0,26 21.793.053 0,04
135.716.05
3
0,2
-
118.478.45
3
-84.46
113.923.00
0
522.75

×