Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Đề tài: SỰ LÃNH ĐẠO - NHÂN TỐ CHỦ YẾU QUYẾT ĐỊNH MỌI THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.47 KB, 23 trang )

BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
Đề tài
SỰ LÃNH ĐẠO - NHÂN TỐ CHỦ YẾU
QUYẾT ĐỊNH MỌI THẮNG LỢI CỦA
CÁCH MẠNG VIỆT NAM
2
2
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
Lí luận chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ vai trò, sức mạnh của quần
chúng nhân dân là người sáng tạo nên lịch sử - động lực của các cuộc
4
4
cách mạng, tuy nhiên sức mạnh của quần chúng chỉ có thể phất huy đầy
đủ, đúng đắn khi có sự lãnh đạo của một Đảng cách mạng chân chính.
Chính trên ý nghĩa đó áp dụng vào thực tế cách mạng Việt Nam: muốn
làm cách mạng thì "Trước hết phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận
động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và
giai cấp vô sản mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng
như người cầm lái có vững thuyền mới chạy"
Luận điểm nêu trên của Hồ Chí Minh chỉ ra rằng:
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhưng đó không phải là
tổng số quần chúng gộp lại một cách cơ học mà là khối đại đoàn kết toàn
dân được giáo dục được giác ngộ, có tổ chức được dẫn dắt bởi đường lối
đúng đắn của một chính Đảng vô sản.
Đảng cộng sản có trách nhiệm như "người cầm lái", người dẫn
đường: Đảng có trách nhiệm hoạch định đường lối đúng đắn và đưa
đường lối đó vào quần chúng để giác ngộ, tập hợp, tổ chức nhân dân
đứng lên đấu tranh thực hiện giải phóng dân tộc và xây dựng xã hội mới.
Như vậy, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định nhất đảm bảo
thắng lợi của cách mạng.


Đề tài:


SỰ LÃNH ĐẠO - NHÂN TỐ CHỦ YẾU QUYẾT ĐỊNH
MỌI THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM
6
6
PHẦN NỘI DUNG
Nhìn lại lịch sử đấu tranh cách mạng gần 70 năm qua trên đất nước
ta Đảng cộng sản Việt Nam luôn luôn đứng ở vị trí trung tâm của các sự
kiện lịch sử vĩ đại, của các biến đổi cách mạng sâu sắc. Thấy rõ đường
lối cách mạng đúng đắn của Đảng là nguyên nhân quyết định nhất đưa
nhân dân ta vượt qua mọi gian nguy, thử thách để không ngừng trưởng
thành và đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Ngày 3/2/1930 Đảng cộng sản Việt Nam được thành lập, chấm dứt
sự khủng hoảng về đường lối lãnh đạo của các phong trào yêu nước đầu
thế kỷ XX. Sự kiện này chứng tỏ giai cấp vô sản Việt Nam đã trưởng
thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng. Đảng cộng sản Việt Nam không
những là đội tiên phong lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam mà
còn là đại biểu chân chính cho lợi ích của toàn thể dân tộc Việt Nam.
Đặc điểm nổi bật ở sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam là ở chỗ
Đảng vừa mới ra đời đã sớm xác định được đường lối chiến lược và
phương pháp cách mạng đúng đắn.
Khi bắt tay vào chuẩn bị thành lập Đảng cộng sản, Nguyễn Ái
Quốc và những người cộng sản đầu tiên đã sớm biết và vận dụng chủ
nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của xã hội Việt Nam, xác định
đúng những vấn đề cơ bản về đường lối và hình thức cách mạng. Từ
"Bản án chế độ thực dân Pháp" đến tác phẩm "Đường cách mệnh" Từ
tuyên ngôn Đông Dương cộng sản Đảng năm 1929, chính cương- sách
lược vắn tắt tháng 2 năm 1930 cho đến luận cương chính trị năm 1930

của Đảng, những vấn đề chiến lược của cách mạng: Vai trò lãnh đạo của
giai cấp công nhân liên minh công nông. Đoàn kết quốc tế; Xây dựng
Đảng của giai cấp công nhân, phương pháp đấu tranh giành chính
quyền…… đã được xem xét và giải quyết một cáh chính xác. Cương lĩnh
đầu tiên của Đảng xác định phương hướng, con đường của cách mạng
8
8
Việt Nam trải qua 2 giai đoạn: Trước hết là cách mạng dân tộc dân chủ
sau đó đi lên Chủ nghĩa xã hội, bỏ qua thời kỳ phát triển tư bản chủ
nghĩa, mục tiêu cuối cùng là Chủ nghĩa xã hội.
Đường lối chiến lược đó đáp ứng nhu cầu của lịch sử dân tộc và
phù hợp với xu thế thời đại. Đây là một nhân tố làm cho Đảng đoàn kết
nhất trí về tư tưởng và hành động trong các lực lượng cách mạng. Đây
cũng là một nhân tố làm cho Đảng ta ngay từ đầu đã xứng đáng là Đảng
của giai cấp công nhân.
Ngay từ khi mới ra đời Đảng đã tổ chức và lãnh đạo đựoc một
phong trào quần chúng lớn mạnh xưa nay chưa từng có - cao trào cách
mạng 1930-1931- cuộc Tổng diễn tập đầu tiên, đưa ra nhiều kinh nghiện
quý báu. Ảnh hưởng của Xô Viết Nghệ Tĩnh vang dội cả trong nước và ở
nước ngoài. Qua cao trào đó, Hội nghị lần thứ 11(4/1931) của ban chấp
hành Quốc tế cộng sản đã đánh giá cao đường lối đúng đắn lãnh đạo
cách mạng của Đảng ta, quyết định công nhận Đảng cộng sản Đông
Dương là phân bố độc lập của Quốc tế cộng sản.
Cao trào Cách mạng 1930 - 1931 khẳng định đường lối Cách mạng
Việt Nam do Đảng ta đề ra là đúng đắn. Nó đem lại cho nhân dân niềm
tin vững chắc vào con đường giải phóng giai cấp, giải phóng đấu tranh
do Đảng ta lãnh đạo; làm cho họ thấy rõ con đường cứu nước duy nhất
đúng ở Việt Nam là con đường Cách mạng theo chủ nghĩa Mac-Lênin là
độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội.
Cao trào cách mạng 1930-1931 đã thực hiện được quyền lãnh đạo

trọn vẹn của giai cấp công nhân đối với cách mạng Dân tộc dân chủ, đã
khẳng định trong thực tế bản chất cách mạng những năng lực lãnh đạo
của giai cấp công nhân mà Đảng cộng sản là đại biểu. Nó chứng tỏ Đảng
cộng sản mởi ra đời nhưng đã gây được lòng tin trong quần chúng lao
động, xứng đáng là bộ tham mưu của giai cấp công nhân, là người lãnh
đạo dân tộc Việt Nam làm cách mạng.
10
10
Vai trò của Đảng cộng sản Việt Nam qua cao trào 1930-1931 còn
thể hiện ở việc đã thực hiện được khối liên minh công nông ở Việt Nam.
Lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng Việt Nam, hàng chục vạn công
nhân và nông dân bị áp bức, bóc lột trong cả nước liên minh chặt chẽ
dưới sự lãnh đạo của Đảng vùng dậy đấu tranh chống ách thống trị của
đế quốc phong kiến. Với những thành quả lớn ấy của cao trào cách mạng
1930-1931 mà đỉnh cao của nó là Xô Viết - Nghệ Tĩnh, Đảng ta đã chuẩn
bị và gieo hạt giống tốt cho tiến trình phát triển của cách mạng nước ta
sau này.
Từ 1932-1935 thời kỳ bị kẻ thù khủng bố khốc liệt, nhân dân bị
đàn áp - bóc lột tàn bạo, không có một chút tự do - dân chủ nào, nhưng
khi có điều kiện mới (Đại hội VII Quốc tế cộng sản thành lập mặt trận
nhân dân pháp chống phát xít, phong trào cách mạng được phục hồi)
Đảng đã nhanh chóng phát động, tổ chức được một cao trào cách mạng
quần chúng sôi nổi - cao trào dân chủ 1936 - 1939 Cách mạng thoát
nhanh khỏi thời kỳ thoái trào tiến lên một cao trào mới sôi nổi, rộng lớn
- đó là một thành tích hiếm có đối với một Đảng cộng sản ở một nước
thuộc địa. Cụ thể trong cao trào 1936 - 1939 bằng nhiều hình thức đấu
tranh hợp pháp và nửa hợp pháp, kết hợp chặt chẽ với hoạt động bí mật
không hợp pháp Đảng ta đã lãnh đạo quần chúng nhằm vào các mục tiêu
trước mắt là chống bọn phản động thuộc địa, chống phát xít và chiến
tranh đòi tự do dân chủ - hoà bình. Về cơ bản cao trào 1936 - 1939 bao

hàm cả hai nội dung dân tộc, dân chủ định hướng theo nhiệm vụ chiến
lược mà Đảng đã xác định. Đảng tuyệt nhiên không coi đấu tranh đòi cải
cách là mục đích cuối cùng mà chỉ sử dụng nó để phát triển lực lượng
cách mạng, chuẩn bị cho nhiệm vụ giai cấp đấu tranh chống đế quốc với
chống phong kiến không lúc nào rời xa mục tiêu chiến lược của cách
mạng. Vai trò của Đảng trong thời kỳ này là Đảng đã theo sát tình hình
Thế giới và trong nước, kịp thời chuyển hướng chỉ đạo cách mạng.
12
12
Qua cao trào cách mạng 1936 - 1939 Đảng đã xât dựng đội quân
chính trị to lớn cho cách mạng, bao gồm hàng triệu quần chúng công
nông cùng với đông đảo quần chúng tiểu Tư sản và các tầng lớp trên đã
được động viên, giáo dục, tổ chức lại. Thắng lợi đó đã tạo ra luôn luôn
mới cho cao trào cứu nước, giải phóng dân tộc trong những năm 1939 -
1945, như vậy cao trào 1936 - 1939 là cuộc Tổng diễn tập thứ 2 cho
thắng lợi Cách mạng tháng 8.
Năm 1939 chiến tranh thế giới II bùng nổ chi phối đời sống kinh tế
chính trị, xã hội của tất cả các nước. Đảng cách mạng phải biết lợi dụng
kẻ địch tự làm suy yếu lẫn nhau trong chiến tranh để đưa phong trào
cách mạng tiến lên từng bước vững chắc. Thực tế khi Nhật - Pháp bắn
nhau (9/3/1945) Ban thường vụ Trung ương Đảng đã họp để đánh giá
tình hình và đề ra chủ trương mới cho phù hợp. Phát động và lãnh đạo
đấu tranh du kích cục bộ khởi nghĩa từng phần và giành chính quyền bộ
phận ở nông thôn, lập uỷ ban dân tộc áp bức Việt Nam (tức chính phủ
lâm thời Việt Nam) là một nét điển hình và sáng tạo của Đảng trong lãnh
đạo và tổ chức lực lượng tiến lên Tổng khởi nghĩa vũ trang ở một nước
thuộc địa trong thời kỳ tiền khởi nghĩa. Đến giữa tháng 8 - 1945 cách
mạng đã có những ưu thế lực lượng rộng rãi ở cả nông thôn và đô thị,
quần chúng nô nức tự vũ trang và hừng hực khí thế tiến lên Tổng khởi
nghĩa Chính phủ Nhật đã đầu hàng Liên Xô và các nước đồng minh vô

điều kiện. Quân Nhật ở Đông Dương bị tê liệt hoàn toàn. Chính phủ tay
sai Trần Trọng Kim hoang mang cực độ. Như vậy tình thế cách mạng
trực tiếp đã xuất hiện. Thông qua hội nghị toàn quốc của Đảng và đại hội
đại biểu quốc dân họp ở Tân Trào (tháng 8/1945) Đảng ta chỉ rõ: Thời cơ
ngàn năm có một cho ta giành lấy chính quyền đã đến. Sự lãnh đạo của
Đảng rất kiên quyết, kịp thời không do dự, lưng chừng để không bỏ mất
thời cơ. Từ khởi nghĩa từng phần giành chính quyền cục bộ Đảng đã bắt
mạch đúng thời cơ, nhanh chóng chuyển sang phát động quần chúng tiến
hành tổng khởi nghĩa. Đảng đã huy động lực lượng toàn dân, sức mạnh
14
14
của cả dân tộc đứng dậy tự mình góp phần cho mình. Đảng đã lãnh đạo
toàn dân nổi dậy đồng loạt cả ở nông thôn và đô thị . Khởi nghĩa ở 3 đô
thị lớn Hà Nội - Huế - Sài gòn và ở các thành phố quan trọng khác giữ
vai trò quyết định đối với thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa. Trong tình
thế khẩn cấp của những ngày tháng 8 lịch sử, Đảng đã huy động toàn lực
lượng ở các đô thị và nông thôn, giành lấy chính quyền và tại nơi đầu
não của địch là Hà Nội và các trung tâm chính trị quan trọng khác trong
cả nước giữa lúc chúng chưa kịp trở tay đối phó đối đã đưa cuộc tổng
khởi nghĩa đến thắng lợi nhanh chóng và rất ít đổ máu. Đó là một thành
công lớn trong nghệ thuật và lao động và trong đợt khởi nghĩa của đảng
ta. Khi trong 15 ngày cuộc tổng khởi nghĩa đã thắng lợi hoàn toàn lân
đầu tiên trong lịch sử chính quyền trong cả nước thật sự thuộc về nhân
dân. Ngày 2/9/1945 Chủ Tịch Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập,
tuyên bố trước quốc dân và Thế giới: Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
ra đời.
Cách mạng tháng tám tháng lợi bước nhảy vọt vĩ đại đánh dấu một
cuộc biến đổi cực kỳ to lớn trong lịch sử của dân tộc VII. Nó đập tan sự
thống trị của thực dân trong 87 năm kể từ khi thực dân Pháp nổ súng
xâm lược nước ta. Nó lật đổ chế độ quân chủ mấy nghìn năm. Với thắng

lợi của cách mạng tháng 8 Dân tộc Việt Nam bước vào một kỷ nguyên
mới, kỷ nguyên độc lập tự do và Chủ nghĩa xã hội. Đây là một kỳ tích
lịch sử:"Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể
tự hào mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có
thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử của cách mạng của
các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh
đạo Cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc trong Hồ Chí
Minh toàn tập - tập 6 trang 18 nhà xuất bản Sự thật Hà Nội 1996.
Nguồn gốc quyết định thắng lợi của cách mạng tháng 8 là sự lãnh
đạo của Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí Minh. Xây dựng Đảng có đường lối
chính trị đúng, thống nhất về tư tưởng trong sạch vững mạnh về tổ chức
16
16
gắn bó mật thiết với nhân dân. Đảng đã lên hàng đầu xây dựng khối
thống nhất trong toàn Đảng, muôn nghìn người như một, chỉ có một ý
chí, một hành động trong cách mạng tháng 8, Đảng ta chỉ có 5000 Đảng
viên cùng với đồng bào trong cả nước đã làm một cuộc Tổng khởi nghĩa
thành công. Đảng tin dân, dân tin Đảng; ý Đảng lòng dân hoà quyện vào
nhau tạo nên sức mạnh là nguyên nhân thắng lợi của cách mạng Việt
Nam.
Với khẩu hiệu"Dân tộc trên hết", "Tổ quốc trên hết", "Thà hy sinh
tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô
lệ" Từ sau ngày cách mạng tháng 8 thắng lợi Đảng ta đã lãnh đạo thực
hiện đoàn kết dân tộc, đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ
(1945 - 1946) Vào thời điểm này nước Việt Nam dân chủ cộng hoà bị
các nước Đế quốc và các thế lực phản động quốc tế và trong nước liên
kết với nhau bao vây và chống phá quyết liệt. Trong lúc đó, lực lượng
mọi mặt của Nhà nước mới còn rất non yếu. Đất nước bị bao vây bốn
phía chính quyền cách mạng ở vào một tình thế như :"Ngàn cân treo sợi
tóc". Đảng ta do chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã thực hiện chính sách

đại đoàn kết dân tộc, dùng sách lược đấu tranh linh hoạt và khôn khéo
với địch, từng bước vượt qua mọi hiểm nguy chủ động trước mọi tình thế
để giữ vững chính quyền, đưa cách mạng tiến lên. Đảng ta chỉ đạo khó
khăn đối nội là chủ yếu, bức thiết trước mắt cần giải quyết ngay, khó
khăn đối ngoại là cơ bản phải giải quyết lâu dài. Trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ cách mạng, đầu tiên Đảng ta đã thực hiện củng cố chính
quyền dân chủ nhân dân, xây dựng chế độ mới. Đảng coi vấn đề có trước
quyết định để bảo vệ và xây dựng chính quyền là dựa chắc vào nhân dân
lấy khối liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh đao làm nền
tảng. Chỉ một tuần lễ sau khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra
đời, chính phủ cách mạng lâm thời công bố lệnh Tổng tuyển cử trong cả
nước và ngày 6/1/1946 toàn thể nhân dân phấn khởi , nô nức đi bỏ phiếu
bầu Quốc hội - cơ quan quyền lực cao nhất và sau đó bầu Hội đồng nhân
18
18
dân các cấp theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu. Về quốc phòng, Đảng
coi trọng việc xây dựng va phát triển các công cụ, bạo lực của Cách
mạng như quân đội công an đó là công cụ chuyên chính sắc bén để bảo
vệ Nhà nước cách mạng và tổ chức cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp.
Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử bầu quốc hội và hội đồng nhân
dân các cấp xây dựng công cụ bạo lực của cách mạng, khối đại đoàn kết
dân tộc được củng cố và mở rộng là một đòn giáng mạnh vào âm mưu
chia rẽ đoàn kết dân tộc; lật đổ chính quyền cách mạng và xâm lược của
bọn đế quốc và tay sai. Nó góp phần củng cố và bảo vệ chính quyền cách
mạng, là dịp làm tăng thêm lòng yêu nước, ý thức làm chủ, nghĩa vụ của
nhân dân ta sống trong một nước độc lập tự do. Có được kết quả đó là do
sự đoàn kết của nhân dân dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và chủ
tịch Hồ Chí Minh góp phần đưa cách mạng nước ta giành được những
thắng lợi bước đầu.

Song song với việc củng cố chính quyền dân chủ nhân dân, xây
dựng chế độ mới Đảng ta còn chăm lo ổn định và cải thiện đời sống của
nhân dân.
Về kinh tế tài chính: Ngay từ đầu Đảng và chính phủ đã quyết định
đẩy mạnh tăng gia sản xuất để chống giặc đói, phát động phong trào thi
đua sản xuất với khẩu hiểu"Tấc đất tấc vàng" bãi bỏ thuế và các thứ thuế
vô lý khác của chế độ thực dân. Tịch thu ruộng đất của đế quốc Việt gian
chia cho nông dân nghèo, chia lại ruộng đất công một cách công bằng -
hợp lý; giảm tô 25%, giảm thuế và miễn thuế cho dân vùng lũ lụt….
Đảng đã động viên nhân dân tự nguyện đóng góp cho quỹ hàng chục
triệu đồng và hàng trăm kg vàng.
Về văn hoá giáo dục: Đảng vận động toàn dân xây dựng nền văn
hoá mới và đời sống mới, xoá bỏ mọi tệ nạn xã hội nô dịch của thực dân.
Thực hiện nền giáo dục mới, phát triển phong trào bình dân học vụ,
20
20
diệt"giặc dốt". Chỉ trong vòng một năm đã có 2,5 triệu người biết đọc
biết viết.
Như vậy với những chỉ đạo sát sao phù hợp lòng dân Đảng đã lãnh
đạo nhân dân ta dần dần đã vượt qua những khó khăn về kinh tế, đời
sống được ổn định, giành nhiều thắng lợi trên lĩnh vực văn hoá. Lòng tin
của nhân dân đối với Đảng, với chính quyền càng được củng cố.
Đối với bọn thực dân Pháp xâm lược Đảng xác định rõ chúng là kẻ
thù chính của nhân dân Việt Nam. Vì vậy Đảng nêu cao quyết tâm lãnh
đạo nhân dân toàn quốc đứng lên kháng chiến, tích cực chi viện cho
đồng bào Nam Bộ và Miền Nam Trung Bộ khẩn trương chuẩn bị về mọi
mặt cho cuộc kháng chiến toàn quốc. Cả nước điều hướng về cuộc kháng
chiến ở Miền Nam. Hàng vạn thanh niên nô nức lên đường Nam tiến.
Nhân dân Miền Nam" thành đồng tổ quốc" chiến đấu với sức mạnh của
chiến tranh nhân dân sức mạnh của cẳ dân tộc đã ngăn chặn và làm thất

bại âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp.
Giữa lúc đó, Chính phủ Tưởng Giới Thạch và Chính phủ Pháp đã
dàn xếp nhân nhượng nhau để cho thực dân Pháp kéo ra Miền Bắc thay
chân Tưởn, còn quân Tưởng thì kéo về nước đối phó với phong trào cách
mạng Trung Quốc đang phát triển. Trước tình hình đó Đảng ta triệt để
lợi dụng mâu thuẫn, phân hóa hàng ngũ kẻ thù và tiến hành nhân nhượng
có nguyên tắc: Từ 9/1945 - tháng 3/1946 Đảng ta cam hòa hoãn với quân
Tưởng, tập trung chống thực dân Pháp xâm lược. Chủ trương sách lược
và biện pháp đó đối với quân đội Tưởng và tay sai của chúng là cần thiết
và đúng với điều kiện lịch sử lúc đó đã giúp ta hạn chế và vô hiệu hóa
các hoạt động phá hoại, đẩy lùi từng bước và làm thất bại mọi âm mưu
lật đổ chính quyền cách mạng của chúng, góp phần quan trọng làm ổn
định mọi mặt ở Miền Bắc, tập trung lực lượng chống thực dân Pháp ở
Miền Nam.
Sau khi thực dân Pháp quay trở lại đánh chiếm Nam Bộ Đảng ta
lúc này lại thực hiện chính sách tạm hòa hoãn với thực dân Pháp (thông
22
22
qua việc lùi Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 và tạm ước 14/9/1946, để thúc đẩy
quân Tưởng nhanh chóng rút về nước.
Trong vòng 16 tháng (từ tháng 9/1945 - tháng 12/1946) Đảng đã
lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh giữ vững được chính quyền cách mạng,
đẩy mạnh cuộc kháng chiến ở Miền Nam, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc
kháng chiến chống Pháp trên quy mô cả nước. Trong thời gian đó, Đảng
đã nắm vững mục tiêu cách mạng đánh giá đúng lực lượng ta và địch,
nắm vững tính thế, xác định rõ kẻ thù chính trước mắt, dựa vào nhân
dân, đoàn kết dân tộc, loại bỏ lực lượng chia rẽ đối lập và phản động
khôn khéo về chính trị, ngoại giao, triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong nội
bộ kẻ thù, biết nhân nhượng có nguyên tắc để đưa nhà nước vượt qua
mọi tình htế khó khăn hiểm nghèo, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ

cách mạng được đặt ra. Cách mạng nước ta từ chỗ ở trong tình thế "ngàn
cân treo sợi tóc" đã chuyển sang một tình thế đủ sức đối phó với âm mưu
mở rộng chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp. Đảng và nhân dân ta
có được những thành công đó là do:
Đảng và Chủ Tịch Hồ Chí Minh luôn luôn nhận thức đúng đắn
cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do dân, vì dân, Đảng - Chính Phủ
đã nêu cao ngọn cờ độc lập dân tộc phát huy quyền làm chủ đất nước của
nhân dân, đã khơi dậy được khả năng, sức mạnh vật chất, tinh thần của
mọi giai cấp tầng lớp, cá nhân để giữ vững thành quả cách mạng và xây
dựng được khối đoàn kết thống nhất giữa Đảng, Chính phủ và nhân dân.
Hai là Đảng và Chủ Tịch Hồ Chí Minh đề ra được đường lối cách
mạng đúng - phù hợp đã phân tích đánh giá đúng âm mưu, hành động.
Thế và lực từng kẻ thù triệt để lợi dụng những mâu thuẫn trong hàng ngũ
chúng và ở những lúc bắt buộc Đảng phải nhân nhượng hòa hoãn nhưng
có nguyên tắc. Nguyên tắc chiến lược là giữ vững độc lập thống nhất
nước nhà, giữ vững chính quyền và thành quả cách mạng. Giữ vững
nguyên tắc nhưng lại mềm dẻo về sách lược và lĩnh họat về hình thức
đấu tranh.
24
24
Ba là Đảng và chính phủ đứng đầu là Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã
hết sức nhạy cảm về chính trị, tỉnh táo sáng suốt nhìn nhận đúng bản
chất sự việc, đề cao cảnh giác, không ảo tưởng vào kẻ thù. Khi hòa hoãn,
nhân nhượng phải dự kiến những diễn biến xuấu nhất có thể xảy ra chủ
động đối phó, lường trước mọi tình huống. Giữ vững và tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng trong điều kiện khó khăn phức tạp, có nhiều Đảng
phải đối lập chống phá.
Dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng nhân dân ta đã giành
và giữ được chính quyền cách mạng trong điều kiện vô cùng khó khăn
gian khổ.

Với dã tâm xâm lược hòng đặt lại ách thống trị ở Việt Nam và
Đông Dương, 3 tuần lễ sau khi nước Việt Nam DCCH ra đời ngày
23/9/145 được quân Anh giúp sức thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài
Gòn rồi mở rộng đấu tranh ra toàn Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Lịch sử
đã đặt dân tộc ta trước một sự lựa chọn mới: Phải đứng lên kháng chiến
trong toàn quốc để bảo vệ nền độc lập. Và đêm 19/12/1946 Ban Thường
Vụ Trung ương Đảng ra bản chỉ thị Toàn dân kháng chiến. Đến tháng
9/1947 đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh viết tác phẩm "kháng chiến
nhất định thắng lợi" các Văn kiện này đã chỉ ra những tư tưởng cơ bản
củă đường lối kháng chiến. Với tính chất của cuộc kháng chiến là toàn
dân - toàn diện - trường kỳ. Cái chính kháng chiến là đoàn kết toàn dân,
xây dựng thực lực về mọi mặt; đoàn kết quốc tế thêm bạn bớt thù, chĩa
mũi nhọn vào bọn phản động thực dân (Pháp. Chiến tranh là một cuộc
đo sức toàn diện giữa hai bên tham chiến. Vì thế phải đánh địch trên tất
cả các mặt quân sự, chính trị kinh tế, văn hóa trong đó quân sự là mặt
trận hàng đầu nhằm tiêu diệt lực lượng và đè bẹp ý chí xâm lược của
địch.
Đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc của Đảng là sự
cụ thể hóa ý chí quyết tâm kháng chiến cứu nước của nhân dân ta. Tại
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thức II của Đảng (tháng 2/1951) đường lối
26
26
đó tiếp tục được bổ sung hoàn thiện, phát triển thành đường lối cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Với đường lối đúng đắn đó, Đảng đã tạo dựng nên một thế trận chiến
tranh nhân dân rộng khắp, quy tụ được sức mạnh của cả dân tộc vào cuộc
kháng chiến với niềm tin kháng chiến nhất định thắng lợi.
Dựa vào thực lực kháng chiến ngày càng tăng cường, nhất là sự
phát triển hợp lý của ba thứ quân Đảng đã chỉ đạo đấu tranh vũ trang
từng bước đi từ đánh nhỷo đến đánh lớn, từ chiến tranh du kích phát

triển tên chiến tranh chính quy, kết hợp chiến tranh du kích với chiến
tranh chính quy.
Với quyết tâm phá tan cuộc tiến công mùa đông của giải pháp ngay
từ khi chiến dịch mới bắt đầu (7/10/1947) địch đã vấp phải sự giáng trả
quyết liệt của quân và dân ta. Kết quả, 2 tháng (đến 22/12/1947) ta đã
tiêu diệt và bắt sống hàng ngàn tên địch. Nhiều máy bay bị hạ, nhiều ca
nô tàu chiến bị bắn chìm nhiều đoàn xe địch bị đốt cháy trên đường số 3
và số 4 Việt Bắc thực sự trở thành mổ chôn giặc Pháp.
Chiến thắng Việt Bắc là một thắng lợi to lớn của quân và dân ta
dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản ý nghĩa của nó không chỉ ở chỗ tiêu
diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, mà còn ở chỗ nó đập tan âm
mưu chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp. Qua chiến
dịch này Đảng ta rút ra được nhiều bài học về chỉ đạo chiến tranh. Nhân
dân ta phấn khởi tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng. Sau chiến thanứg
Việt Bắc, so sánh lực lượng và tình thế cuộc chiến tranh giữa ta và Pháp
đã có sự thay đổi quan trọng. Vào mua thu năm 1950 Đảng chủ trương
mở quân đội ta. Chiến dịch biên giới thắng lớn, đánh dấu sự trưởng
thành một bước mới; chiến tranh chính quy đã xã hội rõ rệt, ta đã giành
được quyền chủ động chiến lược trên chiến trường chính - chiến trường
Bắc Bộ. Từ đây trở đi cùng với sự phát triển chiến tranh du kích, quân
đôị ta đã liên tiếp mở chiến dịch chính quy, quy mô ngày càng to, thắng
28
28
lợi ngày càng van chội tiêu biểu và đỉnh cao là chiến cuộc Đông Xuân
1953 - 1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ.
Chiến thắng Điện Biên Phủ là thắng lợi lớn nhất trong cuộc đọ sức
toàn diện và quyết liệt nhất của quân dân Việt Nam với quân đội xâm
lược Pháp.
Cùng với chủ trương mở chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 Đảng
và Chính phủ ta quyết định mở mặt trận đấu tranh ngoại giao.

Tháng1/1954 Hiệp định Giơnevơ lặplại hoà bình ở Đông Dương được ký
kết. Đây là thắng lợi của Đảng ta và cùng với chiến thắng quân sự trong
chiến dịch ĐBP đã buộc TDP chấm dứt chiến tranh, rút hết lực lượng về
nước. Đây là cuộc kháng chiến chống TDP, can thiệp của Mỹ vào Việt
Nam, Lào và CPC đã kết thúc. Cách mạng Việt Nam bước vào một giai
đoạn mới.
Như vậy với ý chí "thà hy sinh… nôlệ" nhân dân ta đã chiến đấu
kiên cường và chiến thắng ngày càng lớn tiêu biểu là chiến công lẫy lừng
ĐBP. Chúng ta đã bảo vệ được chính quyền cách mạng, đánh bại cuộc
chiến tranh xâm lược của đế quốc Pháp được đế quốc Mỹ giúp ở mức độ
cao giải phóng hoàn toàn Miền Bắc. Lần đầu tiên trong lịch sử một nước
thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là
thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng
lợi của các lực lượng hoà bình, dân tộc, dân chủ, XHCN trên toàn thế
giới.
Thắng lợi vẻ vang của sự nghiệp kháng chiến chống TDP của nhân
dân ta là kết quả của nhiều nhân tố hợp thành, những nhân tố quan trọng
được đặt lên hàng đầu đó là sự có lãnh đạo vững vàng của Đảng đứng
đầu là CT HCM với đường lối kháng chiến và đường lối cách mạng đúng
đắn có sự động viên và tổ chức toàn dân đánh bại, bảo vệ thành qủa
CMT8.
Đặc điểm tình hình nước ta từ cuối năm 1954 trở đi là đất nước
tạm thời bị chia cắt là 2 miền theo 2 chế độ chính trị xã hội khác nhau và
30
30
đối lập nhau. Từ đặc điểm cơ bản trên, Đảng xác định CMVN trong giai
đoạn này có hai chiến lược khác nhau tiến hành đồng thời ở mỗi miền:
Một là: CMXHCN ở Miền Bắc, Hai là CM dân tộc, dân chủ ở
Miền Nam.
Thực tiễn lịch sử nước ta chứng minh rằng đường lối trên của

Đảng ta đã phản ánh đúng quy luật vận động của CM ở từng miền và
chung cả nước trong giai đoạn lịch sử 1954-1975 đồng thời phù hợp với
xu thế phát triển chung của thời đại, nhờ vậy CMVN đã phát huy được
sức mạnh tổng hợp của cả nước và của thời đại để chiến thắng đế quốc
Mỹ xâm lược.
Cuộc đấu tranh cách mạng Việt Nam đã trải qua nhiều thời kỳ,
phải lần lượt đối phó với các kế hoạch chiến lược của đế quốc Mỹ. Trên
cơ sở đường lối cách mạng chung, biết phân tích đúng âm mưu và hành
động của kẻ thù và so sánh lực lượng giữa ta và địch trong từng thời kỳ
để đưa ra chủ trương chỉ đạo sát hợp đó là bí quyết thành công của Đảng
ta.
Cụ thể thời kỳ 1954-1960 xuất phát từ so sánh lực lượng giữa ta và
địch không có lợi cho ta và từ mục tiêu trước mắt của cả nước là đấu
tranh đòi thi hành hiệp định Giơnevơ - Đảng thủ trương thực hiện ở
Miền Nam thế giữ gìn lược lượng bằng cách sử dụng hình thức đấu tranh
thích hợp nhằm hạn chế tổn thất và duy trì cho được phong trào cách
mạng. Sau đó Đảng đã lãnh đạo cách mạng Miền Nam chuyển dần sang
thế tiến công đánh bại chiến tranh đơn pưhơng của Đế Quốc Mĩ.
Thời kỳ 1961 - 1965, Đảng đã lãnh đạo thực hiện chủ trương giữ
vững và phát triển thế tiến công, đánh bại "chiến tranh đặc biệt" của Đế
Quốc Mỹ.
Thời kỳ 1965 - 1968 Đảng ta phát động toàn dân chống Mỹ cứu
nước, đánh bại chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ ở Miền
Nam.
32
32
Thời kỳ 1969 - 1975: Nhờ sự lãnh đạo của Đảng mà cách mạng
Việt Nam đã đánh bại chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của Đế
Quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn Miền Nam. Với thắng lợi này nhân dân
ta quét sạch bọn Đế Quốc xâm lược, chấm dứt ách thống trị bảo tạn hơn

một thế kỷ của CNTD cũ và mới trên đất nứoc ta. Tổ quốc ta hoàn toàn
độc lập và thống nhất. Cuộc cáng mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã
hoàn thành trên phạm vi cả nước, mở đường cho cách mạng Việt Nam
chuyển sang bước ngoặc lịch sử mới - cả nước tiến theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Thắn lợi của sự nghiệp chống Mỹ cứu nước bắt nguồn từ sự lãnh
đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam - nhiều đại biểu trung thành
cho những lợi ích sống còn của dân tộc.
Vai trò của Đảng trong thắng lợi này đó là Đảng đã xác định được
đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo phù hợp với đặc điểm cách
mạng Việt Nam. Đó là đường lối nắm vững ngọn cờ Độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng. Cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Miền Nam và cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở Miền Bắc. Trong hoàn cảnh lịch sử đất nước ta tạm thời bị chia
cắt bằng hai miền ở chế độ chính trị khác nhau thì đường lối cách mạng
ấy là một nét sáng tạo, độc đáo là thành công lớn của Đảng ta. Nhờ
đường lối ấy, Đảng ta đã động viên và tập hợp được sức mạnh chủ nghĩa
xã hội với sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước truyền thống của dân tộc,
sức mạnh của hậu phương với sức mạnh của tiền tuyến tạo nên một sức
mạnh tổng hợp của cả nước cùng đứng lên đánh Mỹ và thắng Mỹ. Với
đường lối ấy, Đảng ta đã kết hợp được lợi ích cơ bản của dân tộc với
những mục tiêu của thời đại - chính vì vậy cách mạng Việt Nam đã được
tất cả các lực lượng xã hội chủ nghĩa độc lậ dân tộc, dân chủ và hoà bình
trên toàn thế giới đồng tình ủng hộ, giúp đỡ tạo thành một mặt trận quốc
tế rộng rãi đứng về phía nhân dân Việt Nam chống xâm lược.
Cùng với việc xác định đúng đường lối cách mạng thì trong cuộc
34
34
kháng chiến chống Mỹ cứu nước Đảng ta còn lựa chọn được phương
pháp cách mạng thích hợp. Cụ thể Đảng đã sử dụng bạo lực cách mạng

tiến hành khả năng từng phần ở nông thôn và từ khả năng phát triển
thành chiến tranh cách mạng. Kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh
chính trị - đấu tranh ngoại giao, kết hợp khả năng của quần chúng với
chiến tranh cách mạng; đánh địch trên cả 3 vùng chiến lược, đánh địch
bằng 3 thứ quân… nắm vững phương châm chiến lược đánh lâu dài đồng
thời biết tạo và nắm vững thời cơ mở những cuộc tiến công chiến lược
tiến lên tổng tiến công và nổi dậy đè bẹp quân địch giành thắng lợi cuối
cùng.
Lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ đã rõ ràng một khi đường lối
chiến lược cách mạng đúng đắn đi vào thực tiễn của cuộc chiến đấu của
nhân dân, nó, sẽ trở thành phương pháp cách mạng cụ thể, sáng tạo, tạo
nên chiến lược tổng hợp trong chiến tranh nhân dân để thắng mọi kẻ thù.
Vai trò của Đảng còn thể hiện ở việc đoàn kết quốc tế trên cơ sở
nêu cao tinh thần độc lập tự chủ. Thực tế Đảng ta đã tranh thủ được sự
đồng tình ủng hộ giúp đỡ cao nhất của nhân loại tiến bộ, đó là của Liên
Xô Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác, trong đó có cả nhân
dân tiến bộ Mỹ ủng hộ Việt Nam chống Đế Quốc Mỹ. Sự giúp đỡ to lớn
và quý báu đó góp một phần không nhỏ vào thắng lợi của kháng chiến
chống Mỹ.
Vai trò của Đảng - nhân tố hàng đầu đảm bảo thắng lợi cách mạng
còn thể hiện qua công tác xây dựng Đảng ngang tầm với nhiệm vụ của
cuộc kháng chiến. Để có thể biến đường lối thành hiện thực Đảng phải
xây dựng rèn luyện và không ngừng nâng cao trình độ, năng lực tổ chức
chỉ đạo thực tiễn. Trong kháng chiến chống Mỹ với phong cách lãnh đạo
sáng tạo "ba bám" (bám đất, bám dân, bám địch), phát huy tính tiên
phong gương mẫu làm cho Đảng xứng đáng là đội quân tiên phong của
giai cấp, của toàn thể dân tộc tạo nên sự gắn bó máu thịt giữa Đảng với
36
36
dân. Đó chính là nền tảng sức mạnh của Đảng trong quá trình lãnh đạo

kháng chiến.
Từ 1954 - 1975 cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đã trải qua nhiều
thời kỳ, thông qua thời với cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
Miền Nam đã trải qua nhiều thời kỳ, thông qua việc thực hiện cách kế
hoạch ngắn và dài hạn.
Thời kỳ 1954 - 1975: Đảng đặt nhiệm vụ thực hiện kế hoạch khôi
phục kinh tế sau chiến tranh và hoàn thành về cơ bản những nhiệm vụ
còn lại của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ.
Thời kỳ 1958 - 1960: Thời kỳ kế hoạch cải tạo xã hội chủ nghĩa,
bước đầu phát triển kinh tế - văn hóa theo đường lối của Đảng. Đại hội
toàn quốc lần III của Đảng (năm 1960) thông qua đường lối cách mạng
xã hội chủ nghĩa ở Miền Bắc.
Thời kỳ 1961 - 1965, thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất xây
dựng bước đầu cơ sở nước - kinh tế của chủ nghĩa xã hội.
Thời kỳ 1965 - 1975. Thời kỳ chuyển hướng xây dựng kinh tế
trong điều kiện có chiến tranh phá hoại bằng không quân của Đế Quốc
Mỹ, và 2 lần thực hiện khôi phục kinh tế sau 2 cuộc chiến tranh phá
họai.
38
38
PHẦN KẾT LUẬN
Nhìn chung trong vòng 20 năm cải tạo và xây dựng theo định
hướng xã hội chủ của Đảng mặc dù vấp phải khó khăn trở ngại chồng
chất, phải đối đầu với chiến tranh phá hoại ác liệt, Miền Bắc đã đạt nhiều
thành tựu rất ý nghĩa: Một hình thái kinh tế - xã hội mới, hình thái kinh
tế xã hội chủ nghĩa quá độ mới ban đầu được kiến lập trong đó quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa chiếm vị trí chủ đạo, có một số cơ sở nước kỹ
thuật ban đầu của chủ nghĩa xã hội và có một hệ thống giá trị xã hội đã
phát huy được tính ưu việt trên nhiều mặt. Tuy nhiên quyết định xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc cũng còn nhiều tồn tại và khuyết tật

cần khắc phục sửa chữa. Những sai lầm thiếu sót đó là những bài học đã
được trả giá cho sự trưởng thành và dày dặn kinh nghiệm của Đảng trong
giai đoạn phát triển tiếp theo của cách mạng nước ta.
Trong tùy thực hiện đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa trong
cả nước và quá trình tìm tòi con đường đổi mới đất nước (1975 - 1986)
dưới sự lãnh đạo của Đảng nhân dân ta đã thu được một số thành tựu
đáng kể. Dưới chính sách của Nghị quyết Trung ương 24 của Đảng với
quan điểm đắn đắn: quan điểm cả nước, quan điểm thống nhất nước nhà,
quan điểm tạo sức mạnh tổng hợp của cả nước để xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Đất nước ta đã nhanh chóng thống nhất về mặt Nhà nước. Thiết
lập được hệ thống chuyên chnhs vô sản trên phạm vi cả nước. Từ đó tạo
ra sức mạnh chung, giành thắng lợi trong hai cuộc chiến tranh bảo vệ tổ
quốc. Đồng thời thu được một số thành tựu đáng kể trên mặt trận kinh tế
- văn hóa.
Trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội Đảng ta đã trải qua
nhiều năm tháng vừa làm, vừa tìm tòi - quá trình đó thực tế không tránh
khỏi những thiếu sót, sai lầm nhưng nhờ đó Đảng ta ngày càng có quan
40
40
niệm đúng đắn và đầy đủ hơn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta.
Từ 1986 đến nay vai trò tiên phong của Đảng là lãnh đạo công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả nước theo đường lối đổi mới của
Đảng:
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986) đánh
dấu một bước ngoặt trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta. Đại hội đánh giá tình hình, tổng kết một bước công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đề ra đường lối đổi mới toàn diện đặc biệt là
về kinh tế.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (tháng 6/1991)

diễn ra trong lúc thực hiện trong nước và quốc tế có những biến động
phức tạp. Đại hội tiếp tục phát triển hoàn chỉnh đường lối đổi mới. Lần
đầu tiên thông qua cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ và
vạch ra chiến lược phát triển kinh tế. Xã hội đến năm 2000.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (tháng 6/1996)
đã kiểm điểm khả năng của 5 năm thực hiện nghị quyết đại hội VII, tổng
kết 10 năm đổi mới và đề ra mục tiêu phương hướng, nhiệm vụ trong
thời kỳ mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đại hội đã đi vào
lịch sử "bước ngoặt chuyển đất nước ta sang thời kỳ mới - thời kỳ đẩy
mạnh (công nghiệp hóa - hiện đại hóa).
Với từ đại hội VIII đến nay Đảng ta vẫn là Đảng giữ vai trò tiên
phong lãnh đạo và đưa đất nước Việt Nam tiến nhanh hơn, xa hơn trong
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nhìn lại lịch sử đấu tranh cách mạng gồm 70 năm qua trên đất
nước ta - Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn đứng ở vị trí trung tâm của
các sự kiện lịch sử vĩ đại, của các biến đổi cách mạng sâu sắc và là
người tổ chức và lãnh đạo duy nhất mọi thắng lợi của cách mạng Việt
Nam.
42
42
Sở dĩ có được vinh quang đó là vì.
- Đảng đại biêutrung thành và đầy đủ lợi ích sống còn và nguyện
vọng chân chính của giai cấp công nhân, của nhân dân lãnh đạo và của
cả dân tộc Việt Nam.
Ngoài việc phục vụ nhân dân, Đảng không có lợi ích nào khác.
Độc lập dân tộc, tự do hạnh phúc cho nhân dân là mục đích, lý tưởng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
- Đảng luôn luôn quán triệt trong mọi hoạt động của mình, quan
điểm sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, và vì nhân dân,
phải lấy dân làm gốc" Đảng ta luôn luôn tự nhắc nhở rằng tệ quan liên,

thời cửa quyền làm cho Đảng xa dời quần chúng và làm suy yếu Nhà
nước xã hội chủ nghĩa là một nguy cơ lớn mà Đảng cầm quyền cần phải
tránh. Biện pháp có hiệu lực để thắt chặt mối quan hệ giữa Đảng với
quần chúng là tổ chức cho quần chúng trực tiếp tham gia xây dựng Đảng.
- Đảng biết nắm vững và vận dụng sáng tạo cách mạng Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh ra đường lói chủ trương độc lập tự chủ,
đúng đanư.s Cách mạng là sáng tạo, chân lý cụ thể. Quán triệt quan điểm
đó Đảng luôn luôn có ý thức vận dụng một cách độc lập và sáng tạo Mác
- Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta, có ý thức kế thừa di sản tư
tưởng Hồ Chí Minh, sản phẩm trí tuệ vào việc kết hợp nhuần nhuyễn
giữa chủ nghĩa Mác Lênin với thực tiễn đất nước và tinh hoa truyền
thống dân tộc, chú trọng kết hợp hài hòa lợi ích cách mạng nước ta với
lợi ích cách mạng thế giới, học tập có phê phán kinh nghiệm của phong
trào cộng sản quốc tế. Nhờ đó mà Đảng đề ra được nhiều đường lối chủ
trương và chính sách sát hợp, cho phép giải quyết đúng đắn các vấn đề
do thực tiễn cách mạng đề ra.
44
44
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nhà xuất bản thanh niên Hà Nội – 1985
2. Giáo trình “ Lịch Sử Đảng cộng sản Việt Nam “ – Nhà xuất bản giáo dục
3. Tài liệu học tập chính trị – nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia
4. Tạp chí cộng sản
5. Website www.dangcongsan.com.vn
46
46

×