Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Báo cáo: LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.36 KB, 22 trang )

BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
Báo cáo
LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG
1
MỤC LỤC
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ VIỆC CẦN THIẾT
CHUYỂN SANG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT
NAM.
1. Lý luận chung về kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hoá phát triển ở trình độ cao, khi tất cả các
quan hệ kinh tế trong quá trình tái sản xuất xã hội đều được tiền tệ hoá; các yếu tố
“đầu vào”, “đầu ra” của sản xuất như đất đai và tài nguyên, vốn bằng tiền và vốn vật
chất, sức lao động, công nghệ và quản lý; các sản phẩm và dịch vụ tạo ra; chất xám
đều là đối tượng mua bán, là hàng hoá
Kinh tế thị trường được coi như một hệ thống các quan hệ kinh tế. khi các quan
hệ kinh tế giữa các chủ thể đều biểu hiện qua mua bán hàng hoá dịch vụ trên thị trường
(người bán cần tiền, người mua cần hàng và họ phải gặp nhau trên thị trường) thì nền
kinh tế đó là nền kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường là cách tổ chức nền kinh tế - xã hội, trong đó, các quan hệ
kinh tế của các cá nhân, các doanh nghiệp đều biểu hiện qua mua bán hàng hoá, dịch
vụ trên thị trường và thái độ cư xử của từng thành viên chủ thể kinh tế là hướng vào
việc tìm kiếm lợi ích của chính mình theo sự dẫn dắt của giá cả thị trường.
2.Sự cần thiết chuyển sang kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Đại hội VII của Đảng đã xác định, đổi mới cơ chế kinh tế ở nước ta là một tất yếu khách
quan. Đổi mới để nâng cao chất lượng cuộc sống, để phát triển kinh tế phù hợp với xu hướng
phát triển chung của kinh tế thế giới. Vì với cơ chế kinh tế cũ, với việc bao cấp tràn lan, quản lý
kinh tế kém hiệu quả thì việc sản xuất không đủ sản phẩm để tiêu dùng dẫn đến không thể tích
luỹ để mở rộng sản xuất dẫn đến thiếu hụt ngân sách, làm cho nền kinh tế đình trệ. Đặc trưng
của kinh tế chỉ huy là rất cứng nhắc nó chỉ có tác dụng thúc đẩy phát triển kinh tế trong giai
đoạn ngắn hạn và chỉ có tác dụng phát triển nền kinh tế theo chiều rộng. Nền kinh tế chỉ huy ở


nước ta tồn tại quá dài nên nó không những không còn tác dụng đáng kể trong việc thúc đẩy
2
sản xuất phát triển mà nó còn sinh ra nhiều hiện tượng tiêu cực làm giảm năng suất chất lượng
và hiệu quả sản xuất.
Bên cạnh đó, thị trường ở nước ta phát triển chưa đồng bộ, còn thiếu hẳn thị trường các
yếu tố sản xuất như thị trường lao động thị trường vốn và thị trường đất đai và về cơ bản vẫn là
thị trường tự do, mức độ can thiệp của nhà nước còn rất thấp. Xét về mối quan hệ kinh tế đối
ngoại, nền kinh tế nước ta đang hoà nhập so với nền kinh tế thị trường thế giới, giao lưu về
hàng hoá dịch vụ và đầu tư trực tiếp của nước ngoài làm cho sự vận động của nền kinh tế gần
gũi hơn với thị trường kinh tế thị trường thế giới. Tương quan giá cả của các loại hàng hoá
trong nước gần gũi hơn với tương quan giá cả hàng hoá quốc tế. Việc chuyển đổi nền kinh tế
theo cơ chế thị trường thúc sản xuất và cạnh tranh hàng hoá không chỉ trong nước mà vượt qua
cả ranh giới trong nước cạnh tranh với nước ngoài về các loại sản phẩm như: hàng tiêu dùng,
thuỷ sản làm tăng kim ngạch xuất khẩu, tích luỹ vốn để mở rộng và tái sản xuất. Điều này
phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế của thế giới: đó là sự phát triển kinh tế của mỗi nước
không thể tách rời sự phát triển và hoà nhập quốc tế. Mỗi quốc gia đều phải tích cực áp dụng
các phương pháp khoa học kỹ thuật mới để cạnh tranh với nhau, đó là động lực để thúc đẩy
kinh tế. Sự cạnh tranh lành mạnh trong nước, giữa các nước với nhau sẽ nâng cao năng suất lao
động, tạo ra nhiều của cải vật chất cho mỗi quốc gia, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của
nhân loại.
Đổi mới cơ chế kinh tế không chỉ có ý nghĩa về lĩnh vực kinh tế mà còn có tác dụng về
mặt chính trị xã hội. Chuyển sang cơ chế thị trường định hướng XHCN, nước ta đã có điều kiện
mở rộng các mối quan hệ kinh tế, chính trị và trong các mối quan hệ có tính chất xã hội như:
bảo vệ môi trường, chống chiến tranh hạt nhân, xoá đói giảm nghèo trong sự liên hệ giữa các
quốc gia.
Như vậy, sự chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước và theo định hướng XHCN là cần thiết và là một tất yếu
khách quan.
Thực chất của quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang kinh tế thị trường theo định
hướng XHCN là quá trình kết hợp giữa chuyển nền kinh tế còn mang nặng tính chất tự cung tự

cấp sang nền kinh tế hàng hoá tiến tới nền kinh tế thị trường và quá trình chuyển cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
3
Quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước ta có đặc điểm là quá trình chuyển
nền kinh tế kém phát triển mang tính tự cấp tự túc sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
Mặt khác, ở nước ta cũng đã tồn tại mô hình kinh tế chỉ huy với cơ chế kế hoạch hoá tập trung.
Nó gần như đối lập với thị trường, kinh tế thị trường vận động theo cơ chế thị trường. Thị
trường được coi là trung tâm của sản xuất và toàn bộ quá trình tái sản xuất xã hội. Vì vậy quá
trình chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường còn là quá trình xoá bỏ cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang kinh tế thị trường đồng thời cũng là quá trình
quá trình thực hiện nền kinh tế mở, nhằm hoà nhập thị trường trong nước với thị trường thế
giới. Kinh tế “đóng” “khép” thường gắn với nền kinh tế phong kiến, gắn với sản xuất nhỏ mang
nặng tính cục bộ địa phương chủ nghĩa và với tình trạng “bế quan tỏa cảng”. Chính sự xuất hiện
và phát triển của sản xuất hàng hóa đã phá vỡ các quan hệ truyền thống của kinh tế khép kín.
Sự phát triển của tư bản chủ nghĩa đã khẳng định: kinh tế hàng hoá làm cho thị trường dân tộc
gắn bó và hoà nhập với thị trường thế giới. Chính giao lưu hàng hóa đã làn cho các quan hệ
kinh tế được mở rộng, vượt ra khỏi phạm vi quốc gia, đã thúc đẩy nền kinh té phát triển nhanh
chóng. Kinh tế mở là đặc điểm và là xu thế của thời đại ngày nay mà bất kỳ một quốc gia nào
cũng phải coi trọng. Trong quan hệ kinh tế quốc tế, chúng ta đã có nhiều đổi mới quan trọng,
chúng ta đã chuyển quan hệ kinh tế quốc tế từ đơn phương sang đa phương, quan hệ với tất cả
các nước không phân biệt chế độ chính trị, theo nguyên tắc đôi bên cùng có lợi không can thiệp
vào công việc nội bộ của nhau.
Trong những năm gần đây, thực hiện quan điểm về kinh tế đối ngoại nói trên hoạt động
kinh tế đối ngoại nước ta có những tiến bộ lớn. Xuất khẩu hàng hoá tăng nhanh với nhịp độ trên
dưới 20% hàng năm (1986-1992) đảm bảo nhập khẩu các loại vật tư và công nghệ chủ yếu,cải
thiện dần cán cân thanh toán quốc tế. Chúng ta đã nhanh chóng điều chỉnh và khắc phục được
những hẫng hụt về thị trường và nguồn vốn từ các nước SNG và Đông Âu. Nguồn vốn nước
ngoài đầu tư vào Việt Nam cũng tăng nhanh.
4

Trong những năm tiếp theo, nước ta cần phải biết phát huy lợi thế so sánh: nguồn tài
nguyên thiên nhiên phong phú, nguồn nhân lực dồi dào với tiền công thấp, vị trí địa lý lãnh thổ
thuận lợi. Tiếp tục phát huy và coi trọng các giá trị truyền thống, nhanh chóng thâm nhập vào
các thị trường mới, mở rộng thị trường khu vực, cải tiến xuất khẩu theo xu hướng tăng tỷ trọng
các mặt hàng chế biến, giảm tỷ trọng xuất khẩu nhiên liệu, tạo ra các sản phẩm chủ lực như dầu
mỏ, nông - lâm - thuỷ sản Đồng thời nhà nước có chính sách đầu tư hấp dẫn tạo điều kiện
thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài.
5
II. ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG
XHCN Ở NƯỚC TA.
Chuyển nền kinh tế từ hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung - hành
chính - quan liêu - bao cấp sang phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN là nội dung, bản
chất và đặc điểm khái quát nhất đối với nền kinh tế nước ta hiện tại và tương lai. Đặc
biệt, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, được Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII thông qua vào năm 1991, cũng đã nêu lên năm đặc trưng
bản chất của xã hội XHCN và những quan điểm, phương hướng tổng quát về phát triển
kinh tế - xã hội theo định hướng XHCN ở nước ta. Tuy nhiên, cũng cần phải phân tích
sâu thêm bản chất, đặc điểm đã được khái quát nói trên, để có thể hiểu rõ và thống
nhất hơn trong nhận thức và hành động.
1. Mục tiêu phát triển kinh tế thị trường đó là phát triển lực lượng sản xuất, giải
phóng năng lực sản xuất, nâng cao đời sống của nhân dân nhằm mục tiêu xã hội.
Kinh tế Nhà nước là nơi thể hiện đầy đủ nhất tính ưu việt của CNXH: đảm bảo
sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, tiến bộ xã hội và bảo vệ
môi trường sinh thái, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tất cả tất cả
phục vụ con người trên tầm vĩ mô. Nhà nước vừa là đại biểu cho toàn bộ nền kinh tế,
vừa là chủ thể của kinh tế Nhà nước. Do đó nhà nước phải vừa tôn trọng tính bình
đẳng của các chủ thể kinh tế, vừa phải có ý thức đầy đủ đến việc phát triển kinh tế nhà
nước để nó thực sự có vai trò chủ đạo. Để giữ được vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước
phải nắm giữ những khâu, những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế

nhà nước phải là kiểu mẫu về năng suất, chất lượng, hiệu quả và chấp hành pháp luật
để lôi cuốn các thành phần kinh tế khác theo quỹ đạo của CNXH. Kinh tế Nhà nước
phải có giá trị tổng sản lượng hàng hoá ngày càng tăng, đóng góp tỷ lệ cao trong ngân
sách nhà nước, không ngừng nâng cao trình độ và đời sống của mọi người lao động.
6
2. Nền kinh tế thị trường với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế
trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo là lực lượng vật chất để dẫn dắt các
thành phần kinh tế khác phát triển theo một định hướng chung, đó là XHCN.
Nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta lấy giải phóng sức sản xuất
làm căn cứ chủ yếu để hoạch định cơ cấu thành phần kinh tế, hình thức sở hữu. Trong
nền kinh tế nước ta tồn tại ba loại hình sở hữu cơ bản: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể
và sở hữu tư nhân, từ ba loại hình sở hữu cơ bản đó hình thành nhiều thành phần kinh
tế, nhiều hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh. Đại hội Đảng VII đã khẳng định, các
thành phần kinh tế đang tồn tại khách quan tương ứng với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất trong giai đoạn lịch sử hiện nay, đó là: kinh tế Nhà nước,
kinh tế hợp tác, kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân tư bản chủ nghĩa và kinh tế tư bản Nhà
nước. Do đó không chỉ ra sức phát triển các thành phần kinh tế thuộc chế độ công hữu,
mà còn phải khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế thuộc sở hữu tư nhân để
hình thành nền kinh tế thị trường rộng lớn bao gồm các đơn vị kinh tế thuộc chế độ
công hữu, các đơn vị kinh tế tư doanh, các hình thức hợp tác liên doanh giữa trong và
ngoài nước, các hình thức đan xen và xâm nhập vào nhau giữa các thành phần kinh tế
đều có thể tham gia thị trường với tư cách chủ thể thị trường bình đẳng.
Nền kinh tế nhiều thành phần trong sự vận động của cơ chế thị trường ở nước ta
là nguồn lực tổng hợp to lớn để đưa nền kinh tế vượt khỏi tình trạng thấp kém, đưa nền
kinh tế hàng hoá phát triển kể cả trong điều kiện ngân sách nhà nước hạn hẹp.
Nền kinh tế nhiều thành phần vừa phản ánh tính đa dạng phong phú trong việc
đáp ứng nhu cầu xã hội vừa phản ánh tính chất phức tạp trong việc quản lý theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó, việc “ phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
phải đi đôi với tăng cường quản lý của Nhà nước về kinh tế xã hội”. Để hạn chế và
khắc phục những hạn chế của mặt trái kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động

theo cơ chế thị trường mang lại, giữ cho công cuộc đổi mới đi đúng hướng và phát huy
bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội, Nhà nước phải thực hiện tốt vai trò quản lý kinh
tế - xã hội bằng luật pháp, kế hoạch, chính sách, thông tin, tuyên truyền, giáo dục và
các công cụ khác.
Trong nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa nước ta, kinh tế Nhà nước là
nhân tố quy định và bảo đảm tính định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường. Kinh
7
tế Nhà nước tạo cơ sở kinh tế cho xã hội mới, nó là lực lượng vật chất quan trọng và là
công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Xây dựng hệ thống
kinh tế Nhà nước mạnh chính là tăng cường thực lực kinh tế của nhà nước, để làm chỗ
dựa, bảo đảm ổn định kinh tế và định hướng cho thị trường XHCN. Buông lỏng khu
vực kinh tế nhà nước là buông lỏng định hướng XHCN đối với nền kinh tế thị trường.
3. Nền kinh tế thị trường thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập trong đó
phân phối theo lao động là hình thức chủ yếu.
Việc giải quyết mối quan hệ trên được thực hiện theo kết quả lao động là chủ
yếu, kết hợp với một phần theo vốn và tài sản. Đây là điểm khác biệt giữa nền kinh tế
thị trường trong CNTB với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Trong
mối quan hệ giữa lao động và tư bản (vốn), giữa lao động sống và lao động quá khứ
(lao động đã được vật hoá), CNTB coi trọng nhân tố tư bản, nhân tố lao động quá khứ
được tích luỹ. Bởi vậy, trong phân phối thu nhập, phân phối thành quả lao động,
CNTB nhấn mạnh đến nhân tố tư bản (vốn) hơn là nhân tố lao động (lao động sống),
nhấn mạnh đến yếu tố tích luỹ - đầu tư hơn là yếu tố tiền lương - thu nhập của người
lao động. Ngược lại CNXH đặt con người ở vị trí trung tâm của sự phát triển. Cho nên,
trong phân phối thu nhập và thành quả lao động của xã hội, CNXH nhấn mạnh đến
nhân tố lao động (lao động sống) và yếu tố tiền lương - thu nhập của người lao động.
Tuy nhiên, trong khi nhấn mạnh đến yếu tố lao động, đến nâng cao thu nhập và tiêu
dùng của người lao động, chúng ta không thể không coi trọng đến vai trò của yếu tố
vốn, đến tăng cường tích luỹ và đầu tư (cả nhà nước và tư nhân) và đến mối quan hệ
biện chứng giữa tư bản ( vốn) và lao động. Vì vậy, thu nhập theo vốn và tài sản kinh
doanh giờ đây đã trở thành điều bình thường. Chỉ có trên cơ sở đó mới gia tăng số

người giàu có trong xã hội. Tăng số người có thu nhập cao đồng thời giảm số người có
thu nhập thấp trong xã hội và thu hẹp dần khoảng cách chênh lệch giàu - nghèo vừa là
mục tiêu, vừa là nội dung quan trọng của chính sách thu nhập và chính sách điều tiết
thu nhập của Nhà nước trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta.
8
4. Mở cửa hội nhập kinh tế thế giới, trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ và toàn
vẹn lãnh thổ quốc gia.
Quá trình phát triển của kinh tế thị trường đi liền với xã hội hoá nền sản xuất xã
hội. Tiến trình xã hội hoá trên cơ sở phát triển của kinh tế thị trường là không có biên
giới quốc gia về phương diện kinh tế. Một trong những đặc trưng quan trọng của kinh
tế thị trường hiện đại là việc mở rộng giao lưu kinh tế với nước ngoài. Xu hướng quốc
tế hoá đời sống kinh tế với những khu vực hoá và toàn cầu hoá đang ngày càng phát
triển và trở thành xu thế tất yếu trong thời đại của cuộc cách mạng khoa học - công
nghệ hiện nay. Tất cả các nước trên thế giới, dù muốn hay không muốn, ít nhiều đều bị
lôi cuốn, thu hút vào các quan hệ kinh tế quốc tế. Tranh thủ thuận lợi và cơ hội, tránh
nguy cơ tụt hậu xa hơn và vượt qua thách thức là yêu cầu nhất thiết phải thực hiện. Để
phát triển trong điều kiện của kinh tế thị trường hiện đại, Việt Nam không thể đóng
cửa, khép kín nền kinh tế trong trạng thái tự cung, tự cấp, mà phải mở cửa, hội nhập
với nền kinh tế thế giới. Sự mở cửa, hội nhập được thực hiện bằng nhiều hình thức như
tăng cường hoạt động ngoại thương, hợp tác, liên doanh, liên kết để thu hút vốn đầu tư
nước ngoài, tranh thủ nắm bắt công nghệ mới, tiến tới có khả năng cạnh tranh trên thị
trường thế giới, nhanh chóng đưa nền kinh tế nước ta hội nhập vào nhịp điệu kinh tế
thế giới. Tuy nhiên, sự mở cửa, hội nhập không có nghĩa là sự hoà tan, đánh mất mình,
mà phải trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh và không ngừng nâng cao sức cạnh tranh
của nền kinh tế, giữ vững độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia.
5. Nền kinh tế thị trường vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng XHCN một mặt phát huy được mặt tích cực đồng thời hạn
chế khuyết tật của thị trường đảm bảo kinh tế thị trường phát triển nhằm mục
tiêu CNXH

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng vận động theo yêu cầu
của những quy luật vốn có của kinh tế thị trường, như quy luật giá trị, quy luật cung -
cầu, cạnh tranh giá cả do thị trường quyết định; thị trường có vai trò quyết định đối
với việc phân phối các nguồn lực kinh tế vào các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế
để sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ để thoả mãn nhu cầu xã hội.
9
Như vậy, có thể hiểu cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết nền kinh tế hàng
hoá do sự tác động của các quy luật kinh tế vốn có của nó, cơ chế đó giải quyết ba vấn
đề của tổ chức kinh tế là cái gì, như thế nào và cho ai. Cơ chế thị trường bao gồm các
nhân tố cơ bản là cung cầu và giá cả thị trường.
Bên cạnh đó, để khắc phục “những thất bại của thị trường” thì nền kinh tế nước
ta có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vai trò điều tiết của
Nhà nước trong nền kinh tế thị trường là rất quan trọng. Vai trò đó được thể hiện qua
các chức năng kinh tế của nó. Có thể nêu lên các chức năng kinh tế của Nhà nước
trong nền kinh tế thị trường dưới đây.
Một là, đảm bảo ổn định chính trị, xã hội và thiết lập khuôn khổ luật pháp để
tạo ra những điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh tế. Về nhiều mặt, chức năng này
vượt ra ngoài lĩnh vực kinh tế đơn thuần. Nhà nước tạo ra hành lang pháp luật cho hoạt
động kinh tế bằng cách đặt ra bằng cách đặt ra những điều luật cơ bản về quyền sở hữu
tài sản và sự hoạt động của các doanh nghiệp. Khuôn khổ luật pháp mà Nhà nước thiết
lập có tác dụng sâu sắc tới các hành vi kinh tế của con người và cả bản thân Chính phủ
cũng phải tuân theo.
Hai là, điều tiết kinh tế đảm bảo cho nền kinh tế thị trường phát triển ổn định.
Nền kinh tế thị trường khó tránh khỏi bị chấn động bởi các cuộc khủng hoảng kinh tế,
đều phải trải qua các chu kỳ kinh doanh, tức là giao động lên xuống của GDP hoặc
GNP, kèm theo các giao động lên xuống về mức độ thất nghiệp và lạm phát.
Nhà nước làm dịu những giao động lên xuống chu kỳ kinh doanh thông qua
chương trình hoá kinh tế, chính sách tài chính và chính sách tiền tệ. Chẳng hạn, chính
phủ có thể giảm thuế trong cơn suy thoái với hy vọng tăng chi tiêu của dân chúng, nhờ
đó sẽ nâng cao GDP. Ngân hàng Trung ương là người kiểm soát khối lượng tiền tệ có

thể áp dụng các biện pháp “nới lỏng tiền tệ” trong cơn suy thoái; Khi lạm phát cao,
ngân hàng Trung ương áp dụng các biện pháp “thắt chặt tiền tệ” nhằm giảm lạm phát.
Như vậy, thông qua chính sách tài chính và chính sách tiền tệ Nhà nước cố gắng ổn
định nền kinh tế duy trì nền kinh tế càng sát càng tốt đối với tình trạng có đầy đủ việc
làm và lạm phát thấp.
10
Ba là, đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả. Một trong những nguyên
nhân dẫn đến tính kém hiệu quả của cả hoạt động thị trường là những tác động, mà các
nhà kinh tế gọi là tác động bên ngoài. Các doanh nghiệp vì lợi ích tối đa của mình có
thể lạm dụng tài nguyên xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống của con người mà xã hội
phải gánh chịu. Chẳng hạn, một doanh nghiệp sản xuất hoá chất, tống chất thải ra hồ
gây ô nhiễm nguồn nước địa phương, làm chết cá, Chính phủ có thể buộc các doanh
nghiệp phải trả tiền cho những thiệt hại do ô nhiễm, mà doanh nghiệp đã gây ra. Sự
can thiệp của Chính phủ nhằm ngăn chặn những tác động bên ngoài để nâng cao hiệu
quả.
Một nguyên nhân khác dẫn đến tính kém hiệu quả của hoạt động thị trường là
sự xuất hiện của độc quyền. Các tổ chức độc quyền có thể không tăng thậm chí giảm
số lượng hàng hoá mà chỉ tăng giá để tăng lợi nhuận. Một nền kinh tế được thúc đẩy
bởi cạnh tranh hoàn hảo sẽ đạt hiệu quả cao, nhưng cạnh tranh làm hạn chế khả năng
đạt lợi nhuận độc quyền nên các doanh nghiệp thường giảm bới cạnh tranh. Vì vậy,
Nhà nước có một nhiệm vụ rất cơ bản bảo vệ cạnh tranh và chống độc quyền để nâng
cao tính hiệu quả của hoạt động thị trường.
Bốn là, đồng thời để đảm bảo tính hiệu quả thì Nhà nước phải sản xuất ra hàng
hoá công cộng, đảm bảo xây dựng kết cấu hạ tầng cho nền kinh tế, thực hiện công
bằng xã hội. Sự hoạt động của cơ chế thị trường có thể làm cho nền kinh tế đạt hiệu
quả cao. Nhưng cơ chế thị trường hoạt động phi nhân tính, nó không tính đến các khía
cạnh nhân đạo và xã hội, không mang lại những kết quả mà xã hội cố gắng vươn tới.
Việc phân phối và sử dụng tối ưu các nguồn lực không tự động mang lại một sự phân
phối thu nhâp cao. Sự can thiệp của Nhà nước nhằm phân phối thu nhập công bằng,
bảo vệ các thành viên của xã hội chống lại những khó khăn về kinh tế, nâng cao mức

sống của các nhóm dân cư có thu nhập thấp nhất. Điều đó được thực sự thông qua
chính sách phân phối, bảo hiểm xã hội và phúc lợi xã hội.
Tóm lại, quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước
ta là “quá trình thực hiện dân giàu, nước mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội nhân
dân làm chủ, nhân ái, có văn hóa, có kỷ cương, xóa bỏ áp bức, bất công, tạo điều kiện
cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc”.
11
III. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY.
1. Thực trạng kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay
Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường thì nước ta đứng trước một thực trạng không
mấy sáng sủa, mặc dù chúng ta đã có sản xuất hàng hoá nhưng chưa phải là sản xuất hàng hoá
theo đúng nghĩa của nó. Sở dĩ như vậy là do nhiều nguyên nhân khác nhau, trước hết là do đất
nước ta vừa trải qua hai cuộc chiến tranh lâu dài với những hậu quả rất lớn cho nền kinh tế. Hơn
nữa tư tưởng kinh tế của chúng ta vẫn còn chịu ảnh hưởng nặng nề của kinh tế tự cung tự tự
cấp, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất xã hội là rất thấp. Bên cạnh đó, một nguyên nhân mang tính khách quan nữa là do phân
công lao động nước ta còn thấp chưa đáp ứng được xu thế của sự phát triển. Từ đó ta có thể nói
rằng thực trạng nền kinh tế của nứơc ta khi chuyển sang kinh tế thị trường là nền kinh tế kém
phát triển, còn mang nặng tính tự cung tự cấp và chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp. Thực trạng đó được biểu hiện ở những mặt dưới đây:
Thứ nhất, là cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ sản xuất còn thấp kém, lạc
hậu, lao động thủ công, phân công lao động chưa phát triển, kết cấu hạ tầng phục vụ
sản xuất chưa đầy đủ, yếu kém: đường xá giao thông, hệ thống thông tin lạc hậu, sản
xuất nhỏ là phổ biến, kinh tế hàng hoá chưa phát triển, sản xuất phân tán. Một mặt đó
là do hậu quả của hai cuộc chiến tranh xảy ra, mặt khác là do nước ta chưa mở rộng
giao lưu với các nước trên thế giới, chưa học hỏi được trình độ kỹ thuật tiến của thế
giới, chưa thu hút đầu tư nước ngoài vào nước ta.
Thứ hai, là cơ cấu kinh tế còn mất cân đối và kém hiệu quả, chứng tỏ một điều
là chúng ta chưa tôn trọng và vận dụng những quy luật khách quan, tư tưởng kinh tế

vẫn còn chủ quan duy ý chí. Cụ thể cơ cấu kinh tế còn mất cân đối nghiêm trọng giữa
12
công nghiệp và nông nghiệp, nông nghiệp vẫn chiếm một tỷ trọng lớn trong nền kinh
tế, hiện tượng độc canh cây lúa còn khá phổ biến, cây công nghiệp có giá trị cao chưa
có cơ hội phát triển, đồng thời các ngành nghề chưa phát triển chính vì thế có thể nói
cơ cấu kinh tế nước ta còn mang nặng đặc trưng của một cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
Tuy từ Đại hội VI của Đảng đến nay Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương chuyển
dịch cơ cấu kinh tế và đã đạt được một số thành tựu đáng khích lệ nhưng chúng ta vẫn
chưa hình thành được một cơ cấu kinh tế hợp lý và có hiệu quả.
Thứ ba, là chưa hình thành được thị trường đúng nghĩa của nó, ở nước ta thị
trường còn mang tính sơ khai, hoang sơ, thị trường dân tộc phát triển thiếu đồng bộ
giữa các loại thị trường: thị trường hàng hóa tiêu dùng do hạn chế hệ thống giao thông
vận tải nên thị trường hàng hóa tiêu dùng bị chia cắt, nhiều tiêu cực, gian lận, trốn
thuế. Các thị trường mới hình thành như thị trường bất động sản, thị trường tài chính
thiếu minh bạch. Thị trường khoa học công nghệ, thị trường sức lao động manh nha,
thiếu các yếu tố cần thiết như luật pháp Các quan hệ tiền tệ hàng hoá chưa hình thành
một cách rõ nét.
Thứ tư, là năng suất lao động xã hội và thu nhập quốc dân tính theo đầu người
còn thấp, đời sống nhân dân còn khó khăn.
Thực trạng nền kinh tế hàng hoá còn manh mún nhỏ lẻ, kém phát triển được
biểu hiện ra bên ngoài ở năng suất lao động xã hội thấp, đời sống nhân dân không
được cải thiện là bao, so với các nước Đông Nam A thì thu nhập tính theo đầu người ở
nước ta vào dạng thấp.
Thứ năm, nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, nhiều loại hình sản xuất
nhưng trong đó chủ yếu là sản xuất nhỏ, tỷ trọng hàng hóa thấp là do nhận thức chưa
đầy đủ về nền kinh tế thị trường kết hợp với tư tưởng chủ quan duy ý chí về nền kinh
tế xã hội chủ nghĩa, hơn nữa một quan niệm đã được hình thành và tồn tại rất lâu từ
trước tới nay trong lí luận về chủ nghĩa xã hội là cho rằng kinh tế thị trường và chủ
nghĩa xã hội là không thể dung hợp với nhau. Tất cả những tư tưởng quan điểm trên đã
kìm hãm sự phát triển sản xuất hàng hoá ở nước ta, từng bước chuyển sang nền kinh tế

thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tại Đại hội lần thứ VI “chúng ta đã có những
thành kiến không đúng, trên thực tế chưa thực sự thừa nhận những quy luật của sản
xuất hàng hoá đang tồn tại khách quan. Do đó, không chú ý vận dụng chúng vào việc
13
định các chủ trương chính sách kinh tế. Trong nhận thức cũng như trong hành động
chúng ta chưa thực sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta còn tồn tại
trong thời gian tương đối dài, chưa nắm vững và thực hiện đúng quy luật về sự phù
hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất”.
Mặt khác do hạn chế của cơ chế cũ, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã dẫn
đến thị trường trong nước kém phát triển, vì vậy kinh tế nước ta không thể phát triển
được khi mở cửa hội nhập kinh tế do năng lực cạnh tranh hạn chế trong điều kiện thị
trường thế giới đã phát triển và có nguy cơ tụt hậu so với xu hướng phát triển của nhân
loại.
2. Giải pháp phát triển kinh tế thị trường ở nước ta.
a. Trước hết cần đẩy mạnh quá trình đa dạng hoá sở hữu, tạo điều phát triển mạnh
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta.
Như chúng ta đã biết, cơ sở tồn tại và phát triển kinh tế hàng hoá, kinh tế thị
trường là sự tách biệt về kinh tế do chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất quy
định. Vì vậy để phát triển kinh tế thị trường, trước hết phải đa dạng hoá sở hữu trong
nền kinh tế. Đối với nước ta, quá trình đa dạng hoá được thể hiện bằng việc phát triển
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần như Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VI, VII, VIII đã chỉ ra. Đó là phát triển kinh tế Nhà nước, kinh tế hợp tác xã, kinh tế
sản xuất hàng hoá nhỏ, kinh tế tư nhân và kinh tế tư bản Nhà nước.
Đối với kinh tế Nhà nước: Đây là thành phần kinh tế đóng vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế nước ta. Vai trò này được thể hiện ở chỗ nó chi phối được các thành
phần kinh tế khác. Thành phần kinh tế Nhà nước phải mở đường, dẫn dắt cho nền kinh
tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa; nó tạo cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế
hàng hoá, hỗ trợ cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế phát triển theo
định hướng; nó chiếm giữ những vị trí then chốt trong nền kinh tế, đảm bảo sản xuất
và cung ứng những dịch vụ công cộng và sản phẩm thuộc các lĩnh vực có ý nghĩa quốc

tế, dân sinh. Để đảm bảo vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước, trong những năm tới
cần thiết phải củng cố lại hệ thống kinh tế Nhà nước, thực hiện sắp xếp lại doanh
nghiệp Nhà nước, cải tiến quản lý, nâng cao tính hiệu quả hoạt động sản xuất kinh
14
doanh của chúng thông qua việc nghiên cứu và phát triển một cách phù hợp các hình
thức tổ chức kinh doanh.
Đối với kinh tế hợp tác xã: Cần thiết phải có sự tổng kết, rút kinh nghiệm về
bài học hợp tác xã kiểu cũ và xây dựng mô hình kinh tế hợp tác và hợp tác xã kiểu mới
đang được phát triển hiện nay, đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, đổi mới
phương thức quản lý, đẩy nhanh sự phát triển của các thành phần kinh tế trong các lĩnh
vực của nền kinh tế để huy động nguồn lực vào phát triển kinh tế hàng hoá, kinh tế thị
trường ở nước ta.
Đối với loại hình sản xuất hàng hoá nhỏ của nông dân, thợ thủ công, người
buôn bán nhỏ: Một mặt thông qua cơ chế, chính sách và hướng dẫn phát triển của
Nhà nước khuyến khích sự phát triển của các thành phần kinh tế này. Mặt khác cần
tăng cường công tác quản lý để xây dựng nề nếp sản xuất kinh doanh theo quy định
của pháp luật.
Đối với thành phần kinh tế tư bản tư nhân: Cần có chính sách khuyến khích
thành phần kinh tế này để các nhà tư bản yên tâm và mạnh dạn đầu tư vào nền kinh tế,
đặc biệt là lĩnh vực sản xuất hàng hoá tiêu dùng và xuẩt khẩu.
Đối với kinh tế tư bản Nhà nước: Nhà nước cần có chính sách khuyến khích
thành phần kinh tế này phát triển kể cả với tư bản Nhà nước trong nước và tư bản Nhà
nước với nước ngoài. Muốn vậy, phải có các chính sách và các hình thức đa dạng để
thu hút vốn đầu tư của các nhà tư bản trong và ngoài nước thông qua phát triển các
khu công nghiệp tập trung, các hình thức chế xuất, các hình thức liên doanh, liên kết.
Ngoài ra, hiện nay ở nông thôn và đặc biệt ở vùng núi còn tồn tại khá nặng tính
chất của nền kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc. Vì vậy, cần có chính sách thúc đẩy sự phát
triển mạnh mẽ sản xuất hàng hoá ở các vùng này, đặc biệt chú ý tới việc xây dựng cơ
sở hạ tầng, đẩy mạnh lưu thông hàng hoá với các vùng phát triển trong nước.
b. Đẩy mạnh quá trình phân công lại lao động xã hội ở nước ta

Như đã nói, phân công lao động xã hội là của sản xuất hàng hoá, của phát triển
kinh tế thị trường. Vì vậy quá trình phát triển kinh tế thị trường ở nước ta đòi hỏi phải
đẩy mạnh phân công lại lao động xã hội.
15
Ở nước ta, đẩy mạnh phân công lao động xã hội cũng đồng nghĩa với quá trình
đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Trong bối cảnh thế giới hiện đại, CNH ở nước ta phải
kết hợp chặt chẽ hai chiến lược CNH theo hướng xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập
khẩu. Để thực hiện chiến lược này, cần phải phân công lại lao động để phát triển
những ngành, những lĩnh vực mà đất nước có lợi thế so sánh trong việc sản xuất, thúc
đẩy xuất khẩu. Trước mắt đó là các ngành nông nghiệp, công nghiệp dệt may, công
nghiệp chế biến nông lâm, hải sản, công nghiệp lắp ráp điện tử và một số lĩnh vực
khác. Thông qua việc phát triển và xuất khẩu những hàng hoá này, cần tranh thủ nhập
được những công nghệ thích hợp để cải thiện trình độ công nghệ và kỹ thuật sản xuất
hiện nay. Điều đó cho phép vừa đa dạng hoá ngành nghề, vừa từng bước đổi mới trình
độ lao động trong nước phù hợp với trình độ quốc tế và khu vực.
c. Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường
Đốí với thị trường hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ: Như đã biết, thị trường
hàng tiêu dùng và dịch vụ đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế hàng hoá. Nền
kinh tế hàng hoá càng phát triển, thị trường dịch vụ ngày càng tăng lên. Vai trò đó thể
hiện trên hai mặt: Một mặt, nó thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của con người, qua đó tái
sản xuất ra sức lao động - nhân tố cơ bản của quá trình sản xuất. Mặt khác, sản phẩm
tiêu dùng và dịch vụ là kết quả, là “đầu ra” của quá trình sản xuất. Việc thực hiện nó
là điều kiện để quá trình tái sản xuất được tiến hành liên tục. Hàng hoá bán được
người sản xuất thu hồi vốn và có lợi nhuận để tiếp tục quá trình tái sản xuất. Ngược
lại, hàng hoá không bán được, lúc đó tình trạng trì trệ, khủng hoảng diễn ra.
Để phát triển thị trường hàng tiêu dùng và dịch vụ, cần giải quyết tốt hai vấn đề
cơ bản sau đây:
Một là, phải tăng quy mô hàng tiêu dùng và dịch vụ với chủng loại ngày càng
phong phú và chất lượng ngày càng nâng cao. Nhu cầu hàng tiêu dùng và dịch vụ cho
một đất nước có 70 triệu dân và mỗi năm tăng thêm hơn một triệu dân là rất lớn. Một

mặt, đó là sức ép lớn đối với sản xuất trong điều kiện sản xuất thấp kém, sản phẩm tiêu
dùng, dịch vụ chưa đủ đáp ứng tiêu dùng tối thiểu là vấn đề căng thẳng cho đất nước.
Mặt khác, nhu cầu lớn về hàng tiêu dùng và dịch vụ là động lực phát triển kinh tế hàng
hoá. Vì nhu cầu lớn tạo ra khả năng tăng cầu, mà tăng cầu là vấn đề trọng yếu trong
kinh tế hàng hoá. Vì vậy, việc phát triển thị trường hàng tiêu dùng và dịch vụ đòi hỏi
16
phải tăng dung lượng thị trường, tăng khối lượng hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ để
thoả mãn nhu cầu về ăn, ở, mặc, đi lại, học tập, chữa bệnh cho nhân dân. Ở đây cần
khai thác thế mạnh của đất nước về đất đai, rừng, biển, tiểu thủ công nghiệp, công
nghiệp hàng tiêu dùng, chế biến để có nguồn hàng ngày càng lớn đáp ứng nhu cầu.
Đồng thời, cùng với số lượng cũng phải chú ý tới chủng loại phong phú và nâng cao
chất lượng để đáp ứng nhu cầu đa dạng và ngày càng cao.
Hai là, từng bước giảm giá cả hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ. Vì với một lượng
thu nhập nhất định, nếu giá cả hàng hoá thấp, khả năng mua sản phẩm sẽ tăng lên, làm
tăng dung lượng thị trường và ngược lại. Song đối với người sản xuất, người bán, việc
giảm giá cả hàng hóa đặt ra một yêu cầu khác. Đối với họ, cái quan tâm là lợi nhuận.
Điều đó có nghĩa là, giá cả hàng hoá phải bù đắp được chi phí và có lãi. Vì vậy giảm
giá cả hàng hoá và có lợi nhuận là một mâu thuẫn đối với người sản xuất. Để giải
quyết mâu thuẫn này, cần phải lựa chọn một trong hai phương án sau:
Phương án thứ nhất là giảm chi phí sản xuất để làm cơ sở cho việc giảm giá.
Trong trường hợp này, giá cả hàng hoá và chi phí đều giảm, nhưng chi phí sản xuất
phải giảm nhiều hơn, do đó lợi nhuận vẫn đảm bảo.
Phương án thứ hai là tăng khối lượng sản phẩm cung ứng trên thị trường để
trong trường hợp giảm giá, lợi nhuận của một đơn vị hàng hoá bán ra ít hơn, nhưng
tổng số hàng hóa bán nhiều hơn thì tổng lợi nhuận vẫn đảm bảo.
Đương nhiên, tốt nhất là kết hợp cả hai phương án trên. Khi đó kết hợp được cả
yêu cầu của người sản xuất và người tiêu dùng.
Đối với thị trường các yếu tố sản xuất: Thị trường các yếu tố sản xuất bao gồm
thị trường vốn, thị trường sức lao động và thị trường các điều kiện vật chất khác cho
quá trình sản xuất. Có thị trường này mới có các yếu tố để sản xuất ra hàng hoá, mới

có hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ, hay mới có thị trường đầu ra. Số lượng, chất lượng,
tính đa dạng của thị trường đầu ra do thị trường đầu vào quy định. Tuy nhiên, thị
trường đầu ra cũng có ảnh hưởng tới thị trường đầu vào, kích thích tính tích cực của
thị trường đầu vào.
Hàng hoá đem bán ra trên thị trường yếu tố sản xuất có giá cả của nó. Tư liệu
sản xuất có giá cả tư liệu sản xuất. Tiền vốn có giá cả là lợi tức. Muốn thực hiện tái
17
sản xuất mở rộng thì vốn và tư liệu sản xuất cần nhận được một phần bổ sung từ giá trị
sản phẩm thặng dư, tài sản phải được tham gia vào phân chia lợi nhuận.
Hiện nay ở nước ta đang hình thành thị trường sức lao động. Người lao động có
quyền chọn việc làm và nơi làm việc. Đảm bảo quyền làm chủ sức lao động của người
lao động và thực hiện quyền tuyển chọn nhân công của người sử dụng sức lao động
yêu cầu phải tính đúng, tính đủ giá trị sức lao động làm cơ sở cho việc xác đinh tiền
lương. Tiền lương chính là giá cả sức lao động, có nhận được giá cả đó, người lao
động mới đủ tiền mua hàng tiêu dùng và dịch vụ để đảm bảo tái sản xuất sức lao động.
Phải trả theo giá cả đó mới sử dụng sức lao động có hiệu quả. Sự hình thành rộng rãi
thị trường sức lao động là đòi hỏi tất yếu của sự phát triển kinh tế hàng hoá ở nước ta.
Một vấn đề quan trọng là thực hiện sự cân bằng giữa các loại thị trường: Rõ
ràng sự cân bằng chung giữa các loại thị trường là yêu cầu tất yếu trong quá trình phát
triển thị trường. Nó cho phép xác lập mối quan hệ cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng,
giữa cung và cầu, giữa hàng và tiền. Để tạo lập sự cân bằng giữa các loại thị trường
cần giải quyết các vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhât: Cần xoá bỏ chế độ bao cấp trong phân phối sử dụng các yếu tố sản
xuất và vật phẩm tiêu dùng, dịch vụ chuyển chúng sang quan hệ hàng hoá - tiền tệ một
cách hoàn toàn. Điều này có nghĩa là toàn bộ nhân tố sản xuất, vật phẩm tiêu dùng
dịch vụ đều được mua bán trên hai thị trường một cách tự do.
Hiện nay ở nước ta, về cơ bản các yếu tố sản xuất và vật phẩm tiêu dùng đã là
hàng hoá. Tuy nhiên một số yếu tố sản xuất và vật phẩm tiêu dùng, dịch vụ còn chưa
được tính đúng, tính đủ giá trị của nó, đặc biệt là yếu tố đất đai.
Đất đai thuộc quyền sở hữu của Nhà nước, còn quyền sử dụng, chuyển nhượng,

thừa kế giao cho người lao động. Chuyển nhượng đất đai từ người này sang người
khác thực tế là bán quyền sử dụng đất. Do vậy, phải xác định giá cả ruộng đất. Cơ sở
xác định giá cả ruộng đất là thu nhập do mảnh đất đó mang lại, đó chính là địa tô.
Trong hoạt động kinh tế, địa tô có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Một mặt, nó làm cho
người sở hữu ruộng đất có thu nhập. Mặt khác, nó yêu cầu người sử dụng ruộng đất có
hiệu quả, tiết kiệm đất đai và áp dụng kỹ thuật thâm canh để tăng độ màu mỡ đất đai.
18
Một vấn đề cấp bách hiện nay trong nông nghiệp là vấn đề tích tụ ruộng đất
trong nông nghiệp. Những năm đổi mới, nông dân đã có quyền sử dụng, quyền chuyển
nhượng, quyền thừa kế ruộng đất. Song, một mặt việc phân chia ruộng đất cho nông
dân theo nguyên tắc bình quân: có gần, có xa, có tốt có xấu do ruộng đất trong nông
thôn bị phân chia cho các hộ gia đình một cách manh mún. Điều đó gây trở ngại cho
việc áp dụng tiến bộ khoa học trong nông nghiệp, thêm vào đó, quá trình phát triển ở
nước ta trong những năm qua làm tăng trình độ của phân công lao động xã hội và
chuyên môn hoá sản xuất, kinh doanh, xuất hiện xu hướng tích tụ ruộng đất. Tuy
nhiên, xu hướng này đang gặp cản trở bởi mức hạn điền chật hẹp trong nông nghiệp.
Vì vậy, bên cạnh việc tính tới vấn đề địa tô, cần có chính sách hợp lý tạo điều kiện cho
sự vận động thông suốt của thị trường đất đai ở nước ta.
Thứ hai: Phải tuân thủ nguyên tắc tự do giá cả. Giá cả không thể áp đặt bằng
mệnh lệnh hành chính, mà nó được hình thành trên cơ sở thoả thuận giữa người mua
và người bán. Tự do giá cả không có nghĩa là cứ để mặc cho giá cả thị trường lên
xuống mất ổn định. Sự mất ổn định giá một loại hàng nào đó, nhất là hàng hoá thuộc
nhu cầu yếu phẩm sẽ tác động xấu đến cân bằng chung giữa các thị trường. Như vậy,
tuân thủ nguyên tắc tự do giá cả thì đồng thời phải bảo đảm sự bình ổn giá cả. Muốn
bảo đảm sự bình ổn giá cả cần thiết phải đẩy mạnh sự phát triển sản xuất, tạo ra nguồn
hàng dồi dào, phong phú; đồng thời, Nhà nước phải có lực lượng hàng hoá dự trữ và
có biện pháp ổn định tiền tệ.
Thứ ba: Phát triển thị trường ngoài nước,đẩy mạnh hoạt động ngoại thương
Sẽ là sai lầm nếu muốn phát triển thị trường “đầu ra”, “đầu vào”, muốn đảm
bảo sự cân bằng giữa các thị trường mà không chú ý đầy đủ tới thị trường nước ngoài,

không chú ý tới ngoại thương. Đặc biệt trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của lực
lượng sản xuất, khoa học kỹ thuật và thông tin, hội nhập với nền kinh tế thế giới và
khu vực, thị trường ngoài nước càng có ý nghĩa quan trọng để phát triển kinh tế thị
trường ở nước ta.
Thị trường ngoài nước, thông qua ngoại thương có tác động thúc đẩy và hỗ trợ
thị trường trong nước phát triển. Ngược lại, thông qua ngoại thương, thị trường trong
nước có thể nhanh chóng tiếp cận thị trường thế giới.
19
Lịch sử phát triển kinh tế đã chỉ rõ, ngoại thương đóng vai trò cực kỳ quan
trọng trong quá trình chuyển kinh tế tự nhiên sang kinh tế thị trường. Không ngẫu
nhiên mà các nhà kinh tế học thế kỷ XV - XVII lại đánh giá cao vai trò của ngoại
thương. Họ ví ngoại thương như máy bơm, nội thương như ống truyền dẫn trong quá
trình làm tăng của cải xã hội. Ngoại thương sẽ đảm bảo tái sản xuất mở rộng và nâng
cao chất lượng của thị trường đầu vào và đầu ra. Thông qua nhập khẩu, nền kinh tế có
được hàng hoá, khoa học - kỹ thuật hiện đại, thông tin, vốn, chất xám, những hàng tiêu
dùng, dịch vụ để đáp ứng quá trình tái sản xuất trong nước. Thông qua hoạt động xuất
khẩu, mà bán được hàng hóa ra nước ngoài, thu tiền về để phục vụ những nhu cầu phát
triển kinh tế.
Để phát triển thị trường ngoài nước, tạo điệu kiện mở rộng thị trường trong
nước, đảm bảo sự thông suốt giữa các thị trường, cần thiêt phải thực hiện các nguyên
tắc sau đây:
Một là, phải thực hiện xuất siêu. Để có tiền cho tái mở rộng thị trường, hàng
năm phải bán ra một số hàng lớn hơn số hàng mà ta mua vào. Muốn vậy cần phải xuất
thành phẩm chứ không suất nguyên liệu. Phải chú ý khuyến khích phát triển nông
nghiệp, công nghiệp tiểu thủ công nghiệp chế biến, đảm bảo tiêu chuẩn quốc tế để thu
được giá trị cao của hàng xuất khẩu. Thực hiện thương nghiệp trung gian, cho phép
mang tiền (vàng, đôla và tiền mặt) đi lại tự do qua biên giớ để buôn bán ở các nước
nhằm làm tăng nguồn tiền tệ của đất nước. Có chính sách bảo hộ hợp lý để khuyến
khích các ngành kinh tế trong nước phát triển, thu hút công nghệ và khoa học kỹ thuật
từ bên ngoài, ngăn chặn nhập những loại hàng hoá mà trong nước có thể sản xuất và

đáp ứng được chu cầu tiêu dùng.
Hai là, áp dụng nguyên lý lợi thế so sánh trong quan hệ trao đổi quốc tế. Các
yếu tố tự nhiên thuận lợi phải được xem xét cụ thể trong mối quan hệ với các yếu tố
kinh tế - xã hội và kỹ thuật ở cả trong nước và ngoài nước, từ đó có phương án tính
toán chi tiết về từng mặt hàng và so sánh với trình độ quốc tế để xác đinh sản xuất và
cung cấp cho thị trường thế giới loại hàng hoá nào đó của ta có lợi thế hơn.
d. Đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp và cải cách nền hành
chính quốc gia.
20
Nước ta phấn đấu trong vài năm tới có đủ các đạo luật để điều chỉnh các lĩnh
vực về hoạt động kinh tế và quản lý kinh tế, về quản lý hành chính Nhà nước. Chúng
ta cần bổ xung và hoàn thiện các lĩnh vực sau:
- Trong việc sử dụng chuyển nhượng, cho thuê đất, thị trường bất động sản, thị
trường vốn, thị trường chứng khoán.
- Bổ sung điều chỉnh bộ luật thuế tránh trồng chéo phân tán theo hướng mở
rộng diện thu thế nhưng giảm mức thu nhằm khuyến khích tích cực, tự giác đóng góp
của người sản xuất kinh doanh.
- Khuyến khích đầu tư trong nước. Sửa đổi bổ xung luật công lý, luật doanh
nghiệp tư nhân, luật kiểm soát độc quyền và cạnh tranh.
Xây dựng bộ luật thương mại, luật ngân sách, luật hành chính Nhà nước, các
hiệp định đa phương và song phương.
- Nâng cao hiệu lực thi hành pháp luật, hoàn thiện hệ thống các cơ quan thi
hành pháp luật. Xây dựng Nhà nước pháp quyền và quản lý bằng pháp luật.
- Xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân nhất là người lãnh đạo chủ chốt
trong mỗi cơ quan, tổ chức đối với việc thực hiện pháp luật trong phạm vi cơ quan, tổ
chức của mình.
Đồng thời cần thiết phải đẩy mạnh cải cách nền hành chính quốc gia theo
hướng đoạn tuyệt với các cơ chế bao cấp, thay thế bộ máy quản lý theo cơ chế tập
trung, chuyển sang quản lý theo phương thức công nghiệp và cơ chế thị trường để đảm
bảo sự phù hợp và tạo điều kiện cho việc tiếp tục đổi mới kinh tế ở nước ta.

Xây dựng một Nhà nước vững mạnh thể hiện được các tiêu chuẩn sau: Trung
thành với chủ nghĩa Mac-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, với lợi ích dân tộc; Trong
sạch về phẩm chất đạo đức; cần kiệm liêm chính chí công vô tư; có năng lực chuyên
môn, có uy tín đối với chủ doanh nghiệp và nhân dân trong việc thực hiện tốt các chức
năng quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với KTTT.
21
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
22

×