BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
Đề tài
Phương pháp chỉ số trong phân tích thống
kê và vận dụng vào tính chỉ số giá tiêu dùng
ở Việt Nam hiện nay
1
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.
Như chúng ta đã biết toàn cầu hoá, hợp tác quốc tế là một xu
thế tất yếu khách quan của thời đại, nhận thức đúng đắn được điều
này Đảng và Nhà nước ta, đặc biệt trong những năm gần đây, luôn
đẩy mạnh và thực hiện các chính sách mở cửa, tăng cường hợp tác
quốc tế nhằm đưa nền kinh tế nước ta hội nhập cùng nền kinh tế
thế giới. Khi chúng ta chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập
trung sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý
của Nhà nước, thì nền kinh tế của chúng ta sẽ hoạt động theo
những quy luật vốn có của nền kinh tế thị trường như quy luật
cung cầu, quy luật giá cả, quy luật cạnh tranh vv Và khi đó vai
trò của chính phủ lại càng được khẳng định trong việc định hướng
nền kinh tế, khắc phục những khuyết tật mà kinh tế thị trường gây
2
ra, đặc biệt trong quá trình hội nhập hiện nay, khi mà nền kinh tế
nước ta chịu sự tác động trức tiếp bởi những biến động của nền
kinh tế toàn cầu, thì việc ổn định vĩ mô nền kinh tế đã trở thành
yếu tố quyết định đảm bảo cho các đơn vị sản xuất kinh doanh
trong nước cũng như các nhà đầu tư từ nước ngoài yên tâm hoạt
động một cách có hiệu quả. Nhưng làm thế nào mà chính phủ có
thể nhận biết được những dấu hiệu bất ổn của nền kinh tế? Sự bất
ổn đó đang ở mức độ nào ? Xu hướng biến động của nó ra sao?.Có
một chỉ tiêu có thể giúp chính phủ đánh giá được mức ổn định của
nền kinh tế, đó là chỉ số giá tiêu dùng.
Chỉ số giá là một công cụ phản ánh thực trạng của nền kinh
tế, thông qua mức lạm phát cao hay thấp là ta có thể đánh giá
được mức ổn định của nền kinh tế đó.
Chúng ta có thể đánh giá đúng đắn sự biến động về lượng
của nhiều chỉ tiêu kinh tế thông qua việc sử dụng chỉ số giá để
loại trừ sự biến động của giá cả trong các chỉ tiêu đó, đặc biệt là
khi ta tính các chỉ tiêu đánh giá mức sông thực tế của các tầng lớp
dân cư.
Nhờ sử dụng chỉ số giá mà ta có thể đánh giá chính xác trị
giá của các loại tài sản để từ đó đưa các điều chỉnh phù hợp trong
các quan hệ kinh tế.
Và chỉ số giá còn là cơ sở để các cơ quan quản lý vĩ mô của
Nhà nước xây dựng kế hoạch và chiến lược phát triển kinh tế, đặc
biệt là các kế hoạch tài chính và ổn định giá cả.
Xuất phát từ tính cấp thiết và tầm quan trọng như trên em đã
lựa chọn đề tài nghiên cứu mang tên: “Phương pháp chỉ số trong
phân tích thống kê và vận dụng vào tính chỉ số giá tiêu dùng ở
Việt Nam hiện nay”.
Mục đích của việc nghiên cứu trước hết là để nâng cao trình
độ cũng như nhận thức về phương pháp chỉ số trên phương diện lý
luận cũng như thực tiễn, sau đó em mong muốn có thể góp một
phần nhỏ bé nào đó vào việc hoàn thiện hơn phương pháp tính chỉ
số giá tiêu dùng của nước nhà.
Qua đây em cũng xin chân thành cảm ơn ThS. Chu Bích
Ngọc GV khoa Thống kê kinh tế_ĐHKTQD đã hướng dẫn và giúp
đỡ em trong quá trình thực hiện đề án của mình.
3
PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHỈ SỐ.
Trong các quá trình kinh tế xã hội nói chung và trong hoạt
động sản xuất kinh doanh hàng ngày nói riêng,chúng ta thường
phải so sánh, phân tích, đánh giá các đại lượng khác nhau trong
những điều kiện không gian và thời gian khác nhau cũng như phải
tìm ra được các nguyên nhân, các nhân tố tác động đến từng đại
lượng đó để có thể điều chỉnh, xây dựng các chiến lược và kế
hoạch hành động hợp lý trong tương lai. Trong thực tế phương
pháp chỉ số có ý nghĩa thiết thực nhất, và người ta thường sử
dụng phương pháp chỉ số làm công cụ phân tích, nhưng để thực
hiện công việc này không phải đơn giản, nhất là khi có nhiều đai
lượng khó có thể đo lường được hay các đại lượng không có
chung đơn vị tính. Vậy thực chất của phương pháp chỉ số là gì?
Nó được vận dụng như thế nào? Chúng ta sẽ đi sâu vào nghiên
cứu để có câu trả lời một cách đầy đủ, và trước hết ta hãy tìm
hiểu những vấn đề về chỉ số.
I.Khái niệm, đặc điểm, và tác dụng của chỉ số trong thống kê.
1.Khái niệm về chỉ số.
Chỉ số là chỉ tiêu tương đối biểu hiện quan hệ so sánh giữa
hai mức độ của một hiện tượng nghiên cứu.
2. Đặc điểm của phương pháp chỉ số trong thống kê.
- Đây là phương pháp phân tích thống kê nghiên cứu sự biến
động của những hiện tượng kinh tế phức tạp bao gồm nhiều đơn
vị, nhiều phần tử mà các đại lượng không thể trực tiếp cộng được
với nhau.
Như vậy khi xây dựng chỉ số đối với các hiện tượng kinh tế
phức tạp thì những biểu hiện về mặt lượng của các phần tử phải
được chuyển về dạng chung để có thể trực tiếp cộng được với
nhau dựa trên cơ sở mối quan hệ giữa nhân tố nghiên cứu với các
nhân tố khác.
Khi có nhiều nhân tố tham gia trong công thức chỉ số thì
việc phân tích sự biến động của một nhân tố phải được đặt ra
trong điều kiện giả định là các nhân tố khác không đổi.
3. Phân loại chỉ số.
Có nhiều tiêu thức mà chúng ta có thể dựa vào đó để phân
loại chỉ số:
- Nếu căn cứ vào việc thiết lập quan hệ so sánh theo thời
gian hay không gian thì ta có các loại chỉ số sau:
+ Chỉ số phát triển: là chỉ số biểu hiện quan hệ so sánh theo
thời gian.
4
+ Chỉ số không gian: là chỉ số biểu hiện quan hệ so sánh
theo không gian.
- Nếu căn cứ vào phạm vi tính toán ta có:
+ Chỉ số đơn: nêu lên biến động của từng đơn vị , phần tử
trong một tổng thể.
+ Chỉ số chung: là chỉ số nêu lên biến động của cả tổng thể
nghiên cứu.
-Nếu căn cứ vào tính chất của chỉ tiêu nghiên cứu ta lại có
các loại chỉ số sau:
+ Chỉ số chỉ tiêu số lượng: là chỉ số được thiết lập đối với
chỉ tiêu số lượng, là chỉ tiêu biểu hiện quy mô, số lượng hiện
tượng nghiên cứu.
+ Chỉ số chỉ tiêu chất lượng: là chỉ số được thiết lập đối với
chỉ tiêu chất lượng, là chỉ tiêu biểu hiện mối liên hệ so sánh, mức
độ phổ biến, mối liên hệ của hiện tượng so sánh.
- Nếu căn cứ vào phương pháp tính toán ta có:
+ Chỉ số tổng hợp: là loại chỉ số được vận dụng để tính chỉ
số chung trên cơ sở xác định tổng các mức độ của từng đơn vị,
phần tử trong tổng thể.
+ Chỉ số bình quân: là loại chỉ số được vận dụng để tính chỉ
số chung từ các chỉ số đơn theo công thức số bình quân.
4. Quyền số của chỉ số thống kê.
- Khái niệm về quyền số:
Quyền số của chỉ số là nhân tố được giữ cố định trong công
thức chỉ số chung.
Ví dụ: Chỉ số tổng hợp giá cả: CPI=
∑
∑
qp
qp
0
1
Trong công thức trên khối lượng tiêu thụ q giữ vai trò là
quyền số. Quyền số có thể là một nhân tố hay nhiều nhân tố.
- Ý nghĩa của quyền số:
+ Quyền số nói lên tầm quan trọng hay vai trò của mỗi phần
tử trong tổng thể.
+ Quyền số chuyển các phần tử vốn không trực tiếp cộng
được với nhau thành dạng chung để có thể tổng hợp được từ đó
thiết lập quan hệ so sánh.
- Lựa chọn quyền số cho chỉ số chung:
+ Trước hết ta phải chọn các nhân tố có liên quan.
+ Sau đó phải xác định thời kỳ cho quyền số: điều này phụ
thuộc vào nhiều yếu tố liên quan, tuỳ thuộc vào điều kiện dữ liệu,
yêu cầu thông tin phân tích, thời kỳ quyền số của chỉ số chung có
5
thể được xác định ở kỳ gốc, kỳ báo cáo hoặc một thời kỳ nào đó
thích hợp.
5. Tác dụng của chỉ số trong phân tích thống kê.
- Phương pháp chỉ số nghiên cứu sự động về mức độ của
hiện tượng qua thời gian.
- Nó so sánh sự khác biệt, chênh lệch về mức độ của hiện
tượng theo không gian.
- Phương pháp này cho phép ta phân tích tình hình thực hiện
kế hoạch về các chỉ tiêu kinh tế.
- Và nó còn giúp ta xác định vai trò và ảnh hưởng biến động
của các nhân tố khác nhau đối với sự biến động của hiện tượng
phức tạp được cấu thành từ nhiều nhân tố.
II. Phương pháp phân tích chỉ số.
Trong phân tích kinh tế chỉ số thống kê được vận dụng đối
với nhiều chỉ tiêu, nhiều lĩnh vực như : chỉ số giá tiêu dùng, chỉ
số giá thành, chỉ số năng xuất lao động vv Ta hãy tiếp tục
nghiên cứu kỹ hơn các loại chỉ số để hiểu cụ thể về nó.
1.Chỉ số phát triển.
1.1.Chỉ số đơn.
Chỉ số đơn là tỷ lệ giữa trị số của hiện tượng kỳ nghiên cứu
với kỳ gốc nào đó.
- Chỉ số đơn giá: là loại chỉ số biểu hiện so sánh giữa hai
mức giá của một mặt hàng ở hai thời gian khác nhau.
i
p =
0
1
p
p
Trong công thức trên: p
1:
là giá ở kỳ nghiên cứu
P
0:
là giá ở kỳ gốc
i
p
phản ánh biến động giá cả của từng mặt hàng trên thị
trường ở kỳ gốc so với kỳ nghiên cứu.
- Chỉ số đơn về khối lượng hàng tiêu thụ: đây là loại chỉ
số biểu hiện quan hệ so sánh khối lượng tiêu thụ của từng mặt
hàng qua thời gian.
i
q =
0
1
q
q
Trong công thức trên: q
1:
là khối lượng hàng hoá kỳ báo cáo
q
0:
là khối lượng hàng hoá kỳ gốc
i
q
phản ánh biến động khối lượng của từng loại hàng hoá ở
kỳ nghiên cứu so với kỳ gốc.
- Các đặc tính của chỉ số đơn:
6
+ Tính nghịch đảo: Nếu ta hoán vị kỳ gốc và kỳ nghiên cứu,
kết quả thu được sẽ là gia trị nghịch đảo của chỉ số cũ.
+ Tính liên hoàn: Tích của các chỉ số liên hoàn hoặc tích của
các chỉ số định gốc liên tiếp sẽ bằng chỉ số định gốc tương ứng.
+ Tính thay đổi gốc: Ta có thể suy ra các chỉ số gốc của kỳ
dài hơn khi biết các chỉ số gốc của những kỳ ngắn hơn trong kỳ
đó.
Các chỉ số đơn có công dụng rất lớn trong việc phản ánh sự
thay đổi các hiên tượng đơn giản, đồng nhất. Ngoài ra chúng còn
quan trọng do tác dụng hỗ trợ cho việc tính các chỉ số tổng hợp,
khi các chỉ số này không thể tính được trực tiếp.
1.2. Chỉ số chung.
Các chỉ số đơn chỉ cho ta so sánh mức biến động từng loại
hàng hoá, chưa cho ta có được một cái nhìn chung về sự biến
động của toàn bộ các loại hàng hoá trên thị trường, do đó ta phải
sử dụng chỉ số chung hay còn gọi là chỉ số tổng hợp.
1.2.1. Chỉ số tổng hợp giá cả.
*. Chỉ số tổng hợp giá cả phản ánh mức biến động giá chung
của một nhóm hàng hoá nào đó ở kỳ nghiên cứu so với kỳ gốc.
Nếu ta dùng phương pháp trung bình giản đơn của các chỉ số
đơn để tính ra chỉ số tổng hợp thì sẽ không hợp lý vì nó chưa
phản ánh được khối lượng hàng hoá trên thị trường, ta cần phải
chọn quyền số để dưa vào công thức chỉ số, từ đó có thể tính được
chỉ số tổng hợp một cách chính xác hơn.
*.Về quyền số của chỉ sổ trên: Nhân tố đóng vai trò làm
quyền số cho từng loại hàng hoá là khối lượng hàng hoá (q). Thời
kỳ của quyền số có thể được xác định ở kỳ gốc, kỳ nghiên cứu hay
kỳ cố định nào đó. Cũng chính vì vậy mà chúng ta có thể có các
loại chỉ số tổng hợp giá cả sau:
- Chỉ số tổng hợp giá cả Laspayres:
Chỉ số này sử dụng khối lượng tiêu thụ hàng hoá q
0
ở kỳ
gốc làm quyền số.
I
L
p
=
∑
∑
00
01
qp
qp
Trong công thức trên: I
L
p
: l à chỉ số tổng hợp giá cả Laspayres
q
0:
là khối lượng của mặt hàng nào đó kỳ gốc
p
1
, p
0
là giá của mặt hàng đó tương ứng ở kỳ nghiên
cứu và kỳ gốc.
7
Ta thấy
∑
01
qp
chỉ mang ý nghĩa giả định còn
∑
00
qp
mang ý
nghĩa thực tế.
∑
01
qp
-
∑
00
qp
: Phản ánh mức tăng hay giảm doanh thu giả định
ở kỳ nghiên cứu do ảnh hưởng biến động giá bán các mặt hàng
giữa hai kỳ.
- Chỉ số tổng hợp giá cả Paache:
Chỉ số này sử dụng khối lượng tiêu thụ hàng hoá q
1
ở kỳ
nghiên cứu làm quyền số.
I
p
p
=
∑
∑
10
11
qp
qp
Trong công thức trên: I
p
p
: là chỉ số tổng hợp giá cả Paache
q
1:
là khối lượng của mặt hàng nào đó kỳ nghiên cứu
p
1:
p
0
là giá của mặt hàng đó tương ứng ở kỳ nghiên cứu và kỳ
gốc.
Ta thấy
∑
10
qp
chỉ mang ý nghĩa giả định còn
∑
11
qp
mang ý
nghĩa thực tế.
∑
11
qp
-
∑
10
qp
: Phản ánh mức tăng hay giảm doanh thu thực tế ở
kỳ nghiên cứu do ảnh hưởng biến động giá bán các mặt hàng giữa
hai kỳ.
-Chỉ số tổng hợp giá cả Fisher:
Đây chính là số bình quân nhân của hai chỉ số tổng hợp giá cả
Laspayres và chỉ số tổng hợp giá cả Paache có hai quyền số khác
nhau, nó kết hợp cả hai quyền số q
0
và q
1
:
Công thức :
I
F
p
=
∑
∑
∑
∑
10
11
00
01
qp
qp
qp
qp
Chỉ số Fisher được vận dụng trong trường hợp có sự chênh lệch
quá lớn giữa chỉ số Laspayres và chỉ số Paache do sự ảnh hưởng
của cơ cấu tiêu thụ các mặt hàng.
Theo cách tính này ta không xác định được giá trị tuyệt đối của
doanh thu. Mặt khác chỉ số giá là một chỉ tiêu kinh tế, nó đựơc
xây dựng trên cơ sở lý luận kinh tế, có đối tượng là hiện tượng
kinh tế phức tạp chứ không phải là chỉ tiêu bình quân nên không
thể giải thích chỉ số theo quan điểm xác suất, không chỉ có xuất
phát từ những tiêu chuẩn toán học mà quên đi nội dung kinh tế.
Hơn nữa trong thực tế việc tính toán hệ thống quyền số kỳ báo
8
cáo ở phạm vi rộng khó thực hiện, và nó cũng không có ý nghĩa
kinh tế nên nó không thiết thực.
- Chỉ số tổng hợp giá cả theo phương thức số bình quân:
Được sử dụng để tính chỉ số tổng hợp giá cả I
p
từ các chỉ số
đơn về giá bán của từng mặt hàng i
p
.
+ Xét trường hợp chỉ số giá Laspayres:
I
L
p
=
∑
∑
00
01
qp
qp
=
∑
∑
00
00
qp
qpi
p
Trong đó i
p
là chỉ số đơn giá từng mặt hàng.
Ta có thể thấy rằng chỉ số tổng hợp giá cả là trung bình cộng gia
quyền của các chỉ số đơn về giá bán từng mặt hàng trong đó p
0
q
0
đóng vai trò là quyền số. Ý nghĩa của quyền số này là phản ánh
doanh thu từng mặt hàng ở kỳ gốc.
Nếu biết tỷ trọng doanh thu từng mặt hàng trong kỳ gốc d
0:
d
0 =
∑
00
00
qp
qp
Thì ta lại có: I
L
p
=
∑
∑
0
0
d
di
p
Trong công thức trên d
0
đóng vai trò là quyền số.
+ Xét trường hợp chỉ số Paache:
I
P
p
=
∑
∑
10
11
qp
qp
=
∑
∑
p
i
qp
qp
11
11
Theo công thức trên thì chỉ số tổng hợp giá cả là trung bình
điều hoà gia quyền của chỉ số đơn về giá bán của từng mặt hàng
với quyền số là doanh thu từng mặt hàng của kỳ nghiên cứu.
Nếu biết tỷ trọng doanh thu từng mặt hàng kỳ nghiên cứu d
1
d
1=
∑
11
11
qp
qp
Ta có: I
P
p
=
∑
∑
p
i
i
i
d
d
- Chỉ số tổng hợp giá cả theo công thức bình quân với trọng số:
Trong trường hợp không cập nhật trực tiếp về doanh thu các
mặt hàng, thì yếu tố trọng số được sử dụng để thể hiện sự khác
biệt hay vai trò của từng mặt hàng hoặc nhóm mặt hàng.
9
I
p
=
∑
∑
m
mi
p
Trong đó m là trọng số tương ứng đối với mặt hàng thứ i.
1.2.2. Chỉ số tổng hợp lượng hàng hoá tiêu thụ (I
q
).
Chỉ số tổng hợp số lượng cũng có tầm quan trọng rộng lớn.
Khi quan sát sự biến động của tổng sản phẩm trong nước(GDP)
hoặc sản lượng sản phẩm hiện vật (của từng ngành), ta phải dùng
giá so sánh (chọn từ một mốc thời gian nào đó) để loại trừ ảnh
hưởng của biến động giá cả, đó chính là chỉ số tổng hợp số lượng
Laspayres. Chỉ số này cũng dùng để so sánh các đại lượng bằng
tiền khác, khi muốn loại trừ ảnh hưởng của giá cả.
Công thức:
I
q =
∑
∑
pq
pq
0
1
Chỉ số tổng hợp số lượng cũng có thể dung trọng số, tương tự
như đối với chỉ số tổng hợp giá cả. Lúc này chỉ cần có chỉ số đơn
của số lượng ( sản phẩm, hàng hoá ) và trọng số thích hợp là có
thể có chỉ số tổng hợp số lượng.
Trong công thức trên quyền số là nhân tố q : là giá bán tương
ứng của các mặt hàng, nó mang ý nghĩa công ước chung và giữ
vai trò trong việc chuyển các mặt hàng có đơn vị tính khác nhau
về cùng một đơn vị tính. p có thể xác định ở kỳ nghiên cứu, kỳ
gốc hay kỳ cố định.
Công thức tính chỉ số tổng hợp số lượng hàng tiêu thụ:
Sự khác biệt
về quyền số
Chỉ số Laspayres Chỉ số
Passche
Chỉ số
Fisher
Giá bán p
I
L
q
=
∑
∑
00
01
pq
pq
I
P
q
=
∑
∑
10
11
pq
pq
I
F
q
=
P
q
L
q
II
Doanh thu pq
I
L
q
=
∑
∑
00
00
qp
qpi
q
I
P
q
=
∑
∑
q
i
pq
pq
11
11
I
F
q
=
P
q
L
q
II
2.Chỉ số không gian.
Là loại chỉ số biểu hiện quan hệ so sánh giữa hai mức độ của
hiện tượng nghiên cứu ở hai điều kiện không gian khác nhau.
2.1. Chỉ số đơn.
10
Là loại chỉ số biểu hiện quan hệ so sánh từng mặt hàng ở hai
thị trường:
- Chỉ số đơn giá:
I
p A/B =
B
A
p
p
Trong đó: I
p A / B
là chỉ số đơn giá
P
A
là giá của hàng hoá ở thị trường A
P
B
là giá của hàng hoá ở thị trường B
- Chỉ số lượng tiêu thụ:
I
q A/B =
B
A
q
q
Trong đó : I
q A / B
là chỉ số đơn số lượng tiêu thụ
q
A
là lượng hàng hoá ở thị trường A
q
B
là lượng hàng hoá ở thị trường B
2.2. Chỉ số tổng hợp.
2.2.1 Chỉ số không gian về lượng hàng tiêu thụ.
Công thức tính: I
q A/B =
∑
∑
pq
pq
B
A
Trong đó
p
=
BA
BBAA
qq
qpqp
+
+
là quyền số, phản ánh giá bình quân
từng mặt hàng tính chung ở hai thị trường.
q
A
, q
B
là lượng của hàng hoá ở hai thị trường tương ứng A và B
2.2.2. Chỉ số không gian về giá bán.
Công thức tính: I
q A/B =
∑
∑
Qp
Qp
B
A
Trong đó
Q
phản ánh tổng khối lượng tiêu thụ tương ứng từng
mặt hàng
p
A
, p
B
là giá của hàng hoá ở hai thị trường tương ứng Avà B
III. Hệ thống chỉ số.
Trong thực tế có nhiều các nhân tố nguyên nhân khác nhau
cùng ảnh hưởng đến một nhân tố kết quả, khi ta phân tích mối
11
quan hệ này bằng phương pháp chỉ số ta phải dùng nhiều các chỉ
số nhân tố để phân tích, tức là ta phải dùng một hệ thống chỉ số.
1.Khái niệm và cấu thành của hệ thống chỉ số.
1.1. Khái niệm.
Hệ thống chỉ số là một dãy các chỉ số có liên hệ với nhau hợp
thành một phương trình cân bằng.
Ví dụ: CS sản lượng = CS NSLĐ* CS quy môLĐ
CS doanh thu = CS giá bán đơn vị* CS lượng hàng tiêu thụ
CS CFSX = CS giá thành đơn vị * CS khối lượng sản phẩm
1.2. Cấu thành của hệ thống chỉ số.
- Chỉ số toàn bộ: là chỉ số nêu lên biến động cuả hiện tượng
phức tạp do ảnh hưởng của tất cả các nhân tố cấu thành
- Các chỉ số nhân tố: bao gồm từ hai chỉ số nhân tố trở lên,
trong đó mỗi chỉ số nêu lên biến động của một nhân tố và ảnh
hưởng biến động của nhân tố đó đối với hiện tượng được cấu
thành từ nhiều nhân tố.
2. Tác dụng của hệ thống chỉ số.
- Xác định vai trò và mức độ ảnh hưởng biến động của các nhân
tố đối với sự biến động của hiện tượng phức tạp, trong đó ảnh
hưởng của từng nhân tố có thể được biểu hiện bằng số tương đối
hay số tuyệt đối.
- Dựa vào hệ thống chỉ số có thể nhanh chóng xác định được một
chỉ số chưa biết khi đã biết các chỉ số khác trong hệ thống.
3. Phương pháp xác định hệ thống chỉ số.
3.1. Phương pháp liên hoàn.
3.1.1. Đặc điểm của phương pháp liên hoàn:
- Một chỉ tiêu tổng hợp của hiện tượng phức tạp có bao nhiêu
nhân tố cấu thành thì hệ thống chỉ số có bấy nhiêu chỉ số nhân tố.
- Trong hệ thống chỉ số, chỉ số toàn bộ bằng tích các chỉ số
nhân tố và mẫu số của chỉ số nhân tố nhân tố đứng trước tương
ứng là tử số của chỉ số nhân tố đứng sau.
- Chênh lệch tuyệt đối giữa tử số và mẫu số của chỉ số toàn
bộ bằng tổng các chênh lệch tuyết đối giữa tử số và mẫu số của
các chỉ số nhân tố, đặc điểm này dùng để phân tích biến động
trong mối liên hệ giữa các chỉ tiêu.
3.1.2. Các bước xây dựng hệ thống chỉ số.
- Phân tích chỉ tiêu tổng hợp hay chỉ tiêu nghiên cứu ra các
nhân tố cấu thành.
12
- Sắp xếp các nhân tố theo thứ tự tính chất lượng giảm dần và
tính số lượng tăng dần.
- Viết hệ thống chỉ số trong đó các chỉ số nhân tố được thiết
lập theo nguyên tắc:
+ Đối với nhân tố chất lượng sử dụng quyền số là nhân tố số
lượng kỳ nghiên cứu.
+ Đối vơi nhân tố số lượng sử dụng quyền số là nhân tố chất
lượng ở kỳ gốc.
*. Ta hãy xét mối quan hệ sau:
Doanh thu =
∑
(
giá cả hàng hoá*số hàng hoá tiêu thụ)
Nhìn chung quan hệ này đựơc biểu hiện bằng:
Giá trị =
∑
(
giá * lượng)
Từ đây ta cũng có:
Chỉ số giá trị = Chỉ số giá* Chỉ số số lượng
Tuy nhiên, do các cách xây dựng chỉ số giá cả và chỉ số số lượng
khác nhau, nên ta cũng có các hệ thống chỉ số khác nhau:
Theo Laspayres:
∑
∑
00
11
qp
qp
=
∑
∑
00
01
qp
qp
*
∑
∑
00
10
qp
qp
Theo Passche:
∑
∑
00
11
qp
qp
=
∑
∑
10
11
qp
qp
*
∑
∑
01
11
qp
qp
Hai hệ thống trên không cho ta đẳng thức để đảm bảo quan hệ
tích số đã nêu ở phần đầu.
Theo cách của Fisher, ta có đẳng thức, nhưng cách tính toán rất
phức tạp:
∑
∑
00
11
qp
qp
=
10
11
00
01
∑
∑
∑
∑
qp
qp
qp
qp
00
10
01
11
∑
∑
∑
∑
qp
qp
qp
qp
Trong thực tế ta còn có cách tính đơn giản như sau:
∑
∑
00
11
qp
qp
=
∑
∑
10
11
qp
qp
*
∑
∑
00
10
qp
qp
Trong công thức này, chỉ số tổng hợp giá cả là của Paache, còn
chỉ số tổng hợp số lượng là của Laspayres. Trong một thời gian
dài trước đây, ở nước ta đã dùng hệ thống chỉ số này để phân tích
kinh tế và sau này cũng còn tiếp tục dùng vì nó có nhiều ưu điểm:
13
+ Bảo đảm đẳng thức về mặt toán học, thuận tiện cho việc
tính toán trong phân tích.
+ Có thể dùng để tính một chỉ số khi đã biết các chỉ số khác
trong hệ thống.
Hệ thống chỉ số tổng hợp được dùng để phân tích ảnh hưởng của
các nhân tố cấu thành đối với một hiện tượng phức tạp, cho ta các
thông tin mới về sự biến động của hiệ tượng theo sự tác động của
các nhân tố cấu thành đó. Vì vậy, hệ thống này còn được dùng cho
nhiều quan hệ khác.
Hệ thống này cũng có các biến đổi để dùng trong phân tích trình
độ hoàn thành kế hoạch của một doanh nghiệp, của một vùng lãnh
thổ
∑
∑
00
11
qp
qp
=
∑
∑
kk
qp
qp
11
*
∑
∑
00
qp
qp
kk
Tức là :
Chỉ số phát triển = Chỉ số hoàn thành kế hoạch* Chỉ số kế hoạch
Nếu dùng chỉ số tổng hợp giá cả và chỉ số tổng hợp có trọng số,
khi ghép thành hệ thống chỉ số cần chú ý sử dụng các trọng số
giống nhau để đảm bảo đẳng thức toán học của hệ thống.
3.2. Phương pháp biểu hiện ảnh hưởng biến động riêng biệt.
3.2.1. Đặc điểm của phương pháp:
- Là phương pháp nêu lên ảnh hưởng biến động riêng của mỗi
nhân tố đối với sự biến động của hiện tượng phức tạp, trong đó
các chỉ số phản ánh biến động riêng của mỗi nhân tố được thiết
lập với quyền số kỳ gốc.
- Trong hệ thống chỉ số ngoài chỉ số nhân tố còn có chỉ số liên
hệ biểu hiện ảnh hưởng chung của các nhân tố cùng biến động
hoặc cùng tác động lẫn nhau.
3.2.2. Các bước xây dựng hệ thống chỉ số:
- Phân tích chỉ tiêu tổng hợp ra các nhân tố cấu thành.
- Sắp xếp các nhân tố theo thứ tự tính chất lượng giảm dần,
tính số lượng tăng dần.
- Viết hệ thống chỉ số trong đó mỗi chỉ số nhân tố sử dụng
quyền số kỳ gốc và chỉ số liên hệ- là chỉ số đảm bảo cân bằng của
hệ thống chỉ số.
*. Ví dụ ta hãy phân tích tổng doanh thu theo phương pháp biểu
hiện biến động riêng biệt:
Ta có chỉ số toàn bộ:
14
∑
∑
00
11
qp
qp
=
∑
∑
00
01
qp
qp
.
∑
∑
00
10
qp
qp
.
k
Trong đó k
=
∑
∑
01
11
qp
qp
.
∑
∑
10
00
qp
qp
Δ
=
∑
11
qp
-
∑
00
qp
=
001
)( qpp
∑
−
+
001
)( pqq
−
∑
+
)).((
0101
qqpp
−−
∑
∑
11
qp
-
∑
00
qp
: là chỉ số toàn bộ nêu lên biến động của tổng
doanh thu do ảnh hưởng của tất cả các nhân tố.
001
)( qpp
∑
−
: phản ánh biến động riêng cua giá bán các mặt hàng
ảnh hưởng đến tổng doanh thu.
001
)( pqq −
∑
: phản ánh biến động riêng của lượng tiêu thụ các mặt
hàng ảnh hưởng đến tổng doanh thu.
)).((
0101
qqpp −−
∑
: phản ánh kết quả cùng biến động và cùng tác
động của giá và lượng hàng tiêu thụ ảnh hưởng đến tổng doanh
thu.
Ta thấy trong trường hợp có nhiều nhân tố cấu thành thì ta không
thể xác định chính xác các chỉ số, đây cũng chính là hạn chế của
phương pháp này.
4. Hệ thống chỉ số phân tích biến động của chỉ tiêu bình quân
và tổng lượng biến tiêu thức.
4.1. Hệ thống chỉ số phân tích biến động của chỉ tiêu bình
quân.
Hệ thống chỉ số của số trung bình có tác dụng rất rõ rệt trong
phân tích kinh tế- xã hội. Bất kỳ một sự thay đổi cơ cấu nào trong
tổng thể hiện tượng cũng đều tác dụng ( có lợi hoặc có hại, tuỳ
theo chiều hướng chuyển dịch của cơ cấu) đến các chỉ tiêu phản
ánh các mặt của hiện tượng. Vì vậy cần có hệ thống chỉ số này để
hiểu rõ cơ chế của ảnh hưởng đó và có cách xử lý cần thiết. Ta có
mô hình phân tích như sau:
15
=
Xo
X
1
∑
∑
∑
∑
0
00
1
11
f
fX
f
fX
=
∑
∑
∑
∑
1
10
1
11
f
fX
f
fX
.
∑
∑
∑
∑
0
00
1
10
f
fX
f
fX
=
Xo
X
1
01
1
X
X
.
0
01
X
X
hay I
(
X
)
=
I
(X) .
I
(f)
Biến động tuyệt đối:
∆
=
1
X
-
0
X
=
(
1
X
-
01
X
) + (
01
X
-
0
X
)
(1) (2) (3)
Trong đó:
0
X
,
1
X
là các chỉ tiêu bình quân tương ứng của kỳ gốc và kỳ báo
cáo.
X
1
, X
0
là các lượng biến của tiêu thức tương ứng kỳ báo cáo và
kỳ gốc.
01
X
là chỉ tiêu bình quân kỳ báo cáo giả định các lượng biến
không thay đổi so với kỳ gốc.
f
1
, f
0
là các trọng số tương ứng của các lượng biến ở kỳ báo cáo
và kỳ gốc.
Ý nghĩa:
(1) là chỉ số cấu thành khả biến: nêu lên biến động của chỉ tiêu
bình quân do ảnh hưởng của các nhân tố cấu thành.
(2) là chỉ số cấu thành cố định: nêu lên biến động của chỉ tiêu
bình quân do ảnh hưởng biến động của lượng biến tiêu thức trong
điều kiện kết cấu tổng thể theo tiêu thức nghiên cứu không đổi.
(3) là chỉ số ảnh hưởng kết cấu: nêu lên biến động của chỉ tiêu
bình quân do ảnh hưởng biến động kết cấu tổng thể.
4.2. Hệ thống chỉ số phân tích biến động tổng lượng biến
tiêu thức.
Tổng lượng biến tiêu thức được biểu hiện theo công thức chung:
∑
Xf
=
X
.
∑
f
Từ đó ta có các mô hình phân tích như sau:
- Xét mô hình 1: Phân tích tổng lượng biến theo hai nhân tố là
lượng biến và quy mô của từng bộ phận:
∑
∑
00
11
fX
fX
=
∑
∑
10
11
fX
fX
*
∑
∑
00
10
fX
fX
16
Cách phân tích mô hình này tượng tự như phân tích mô hình tổng
doanh thu ở trên.
- Xét mô hình 2: có thể có các dạng sau:
+ Mô hình do ảnh hưởng của hai nhân tố:
∑
∑
00
11
fX
fX
=
∑
∑
10
11
fX
fX
*
∑
∑
00
10
fX
fX
Dạng rut gọn:
∑
∑
00
11
fX
fX
=
0
1
X
X
.
∑
∑
0
1
f
f
Từ đó ta có biến động tuyệt đối :
Δ
=
∑
11
fX
-
∑
00
fX
=
(
1
X
-
0
X
)
1
∑
f
+ (
1
∑
f
-
0
∑
f
)
0
X
+ Mô hình do ảnh hưởng của ba nhân tố :
∑
∑
00
11
fX
fX
=
∑
∑
101
11
fX
fX
*
∑
∑
10
101
fX
fX
*
∑
∑
00
10
fX
fX
(1) (2) (3) (4)
Ta có biến động tuyệt đối:
Δ
=
∑
11
fX
-
∑
00
fX
=
(
1
X
-
01
X
)
1
∑
f
+(
01
X
-
0
X
)
1
∑
f
+(
1
∑
f
-
0
∑
f
)
0
X
Ý nghĩa:
(1) phản ánh biến động của tổng lượng biến tiêu thức do ảnh
hưởng của các nhân tố cấu thành.
(2) phản ánh biến động của tổng lượng biến tiêu thức do ảnh
hưởng biến động của nhân tố lượng biến.
(3) phản ánh biến động của tổng lượng biến tiêu thức do ảnh
hưởng biến động của kết cấu tổng thể theo tiêu thức nghiên cứu.
(4) phản ánh biến động của tổng lượng biến tiêu thức do ảnh
hưởng biến động của quy mô tổng thể.
5. Hệ thống chỉ số phân tích trong trường hợp tổng thể bao gồm
các bộ phận không so sánh được.
Bộ phân không so sánh được là những bộ phận trong tổng thể
chỉ xuất hiện ở kỳ gốc hoặc kỳ nghiên cứu.
Ví dụ ta phân tích cơ cấu doanh thu các mặt hàng trong đó có:
+ Các mặt hàng thuộc bộ phận so sánh được có khối lượng là
q
s
với giá p
s
.
+ Các mặt hàng thuộc bộ phận không so sánh được bao gồm:
Các mặt hàng xuất hiện ở kỳ gốc nhưng mất đi ở kỳ nghiên cứu và
các mặt hàng không xuất hiện ở kỳ gốc nhưng xuất hiện ở kỳ
nghiên cứu.
Ta có mô hình phân tích tổng hợp doanh thu:
17
∑
∑
00
11
qp
qp
=
∑
∑
10
11
ss
ss
qp
qp
*
∑
∑
00
10
ss
ss
qp
qp
*
∑
∑
11
11
ss
qp
qp
*
∑
∑
00
00
qp
qp
ss
Trong đó:
p
1,
p
0
là gía của các mặt hàng tương ứng ở kỳ nghiên cứu và kỳ
gốc.
q
1,
q
0
là lượng các mặt hàng tương ứng ở kỳ nghiên cứu và kỳ gốc.
p
s1,
p
s0
là gía của các mặt hàng tương ứng ở kỳ nghiên cứu và kỳ
gốc thuộc bộ phận so sánh được.
q
s1,
q
s0
là lượng các mặt hàng tương ứng ở kỳ nghiên cứu và kỳ
gốc thuộc bộ phận so sánh được.
∑
∑
11
11
ss
qp
qp
phản ánh biến động tổng doanh thu do ảnh hưởng xuất
hiện của các mặt hàng mới.
∑
∑
00
00
qp
qp
ss
phản ánh biến động của tổng doanh thu do ảnh hưởng
của việc mất đi các mặt hàng cũ thuộc bộ phận không so sánh
được.
PHẦN II: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP CHỈ SỐ
TRONG VIỆC TÍNH CHỈ SỐ GIÁ TIÊU DÙNG
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
Như chúng ta đã biết, hiện nay ổn định giá cả là một trong
những mục tiêu lớn của bất cứ một nền kinh tế vĩ mô nào, vì sự
biến động của giá cả có tác động trực tiếp và mạnh mẽ đến mọi
mặt của đời sống kinh tế xã hội. Ở Việt Nam hiện nay, Nhà nước
ta thông qua các yếu tố cung cầu, giá cả, sức mua của đồng tiền,
tỷ giá hối đoái vv để điều tiết các hoạt động của nền kinh tế, ổn
định gía cả, nhằm đạt hiệu quả cao trong môi trường hợp tác và
cạnh tranh, đồng thời nền kinh tế nước ta là nền kinh tế hàng hoá,
do đó chúng ta phải xem xét và coi trọng yếu tố giá cả cũng như
sự biến động của nó. Chính vì vậy việc tính chỉ số giá tiêu dùng là
một công việc rất cần thiết, chúng ta sẽ tìm hiểu cụ thể về chỉ số
giá tiêu dùng và vấn đề vận dụng phương pháp chỉ số trong thống
18
kê vào việc tính chỉ số giá tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay như thế
nào.
1.Khái niệm và công thức tính chỉ số giá tiêu dùng.
Chỉ số giá tiêu dùng là chỉ số dùng để phản ánh xu hướng và
mức độ biến động của giá cả khi người tiêu dùng nua hàng hoá và
chi trả cácdịch vụ phục vụ trực tiếp cho đời sống hàng ngày.
Giá tiêu dùng được thể hiện thông qua giá bán lẻ hàng hoá ở thị
trường và giá dịch vụ phục vụ sinh hoạt đời sống của dân cư.
Chỉ số giá tiêu dùng được tính từ giá bán lẻ hàng hoá tiêu dùng
và giá dịch vụ phục vụ đời sống dân cư thuộc tất cả các thành
phần kinh tế tham gia bán lẻ hàng hoá và hoạt động kinh doanh
dịch vụ trên thị trường.
Hiện nay ở nước ta đang sử dụng công thức Laspayres để tính giá
tiêu dùng với quyền số và giá kỳ gốc là năm 2000, công thức như
sau:
I
p =
∑
∑
00
0
pq
pq
t
.
100%
=
∑
0
D
.
0
p
p
t
.100
Trong đó : I
p
là chỉ số giá tiêu dùng
P
t
là giá kỳ báo cáo
P
0 ,
q
0
là giá và lượng các mặt hàng kỳ gốc
D
0
là quyền số cố định kỳ gốc: D
0
=
∑
00
00
qp
qp
Để tính chỉ số giá
tiêu dùng, chúng ta phải thực hiện một số các công đoạn rất phức
tạp, khó khăn, những công việc này sẽ được trình bày trong những
phần tiếp theo sau đây.
2.Lập bảng giá kỳ gốc cố định.
Ở Việt Nam ta hiện nay, giá gốc so sánh của chỉ số giá tiêu dùng
hàng tháng, hàng năm là giá tiêu dùng bình quân năm 2000 và sẽ
cố định trong khoảng 5 năm, thu thập giá bán lẻ bình quân năm
2000 của các mặt hàng đại diện để sử dụng làm làm giá kỳ gốc cố
định hay là giá kỳ gốc. Các tỉnh, thành phố lập bảng giá kỳ gốc và
cố định trong một số năm để làm gốc so sánh cho tất cả các tháng
từ năm 2001, nguồn số liệu để lập bảng giá kỳ gốc là: Báo cáo “
Giá bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng” 12 tháng của năm 2000.
Đối với các mặt hàng và dịc vụ đã điều tra giá trong các tháng của
năm 2000, tính giá bình quân bằng phương pháp bình quân số học
giản đơn giá của các mặt hàng đó trong tháng. Những mặt hàng và
dịch vụ có trong danh mục nhưng chưa điều tra giá trong năm
2000 thì phải lấy lại giá của một số tháng trong năm 2000 bằng
19
phương pháp hồi tưởng và tính giá bình quân bằng phương pháp
bình quân số học giản đơn các mặt hàng đó của các tháng.
3. Lập quyền số kỳ gốc.
Quyền số năm 2000 được sử dụng để tính chỉ số giá tiêu dùng
và được cố định trong khoảng 5 năm, quyền số này là cơ cấu chi
tiêu hộ gia đình năm 2000, là tỷ trọng từng nhóm hàng trong danh
mục so với tổng chi của hộ gia đình.
Ví dụ năm 2003 ta xác định được quyền số như sau:
Quyền số 10 nhóm tiêu dùng cấp 1 của Việt Nam.
STT Nhóm hàng Quyền số (%)
1 Lương thực, thực phẩm:
+ Lương thực
+ Thực phẩm
47,90
13,08
28,58
2 Đồ uống và thuốc lá 4,50
3 May mặc, giày dép, mũ nón 7,63
4 Nhà ở và vật liệu xây dựng 8,23
5 Thiết bị và đồ dùng gia đình 9,20
6 Dược phẩm, y tế 2,40
7 Phương tiện đi lại, bưu điện 0,07
8 Giáo dục 2,89
9 Văn hoá, thể thao, giải trí 3,81
10 Hàng hoá và dịch vụ khác 3,36
( Nguồn: Niên giám Thống kê năm 2003)
4. Chọn danh mục mặt hàng đại diện.
Khi chúng ta tính chỉ số giá tiêu dùng, ta phải tính được giá tiêu
dùng, giá này được thống kê trên cơ sở giá bán lẻ của các mặt
hàng và dịch vụ đại diện mà ta đã chọn. Các Cục Thống kê thuộc
các tỉnh, thành phố căn cứ vào tình hình tiêu dùng và thị hiếu tiêu
dùng thực tế của địa phương, đối chiếu danh mục mặt hàng và
dịch vụ đại diện do Tổng Cục Thống kê đã chọn làm chuẩn, với
các mặt hàng và dịch vụ có quy cách, phẩm chất, nhãn hiệu rõ
ràng làm danh mục hàng hoá và dịch vụ đại diện của địa phương.
Do cơ cấu các mặt hàng trên thị trường luôn có sự thay đổi do đó
hiện nay Tổng cục Thống kê đã tiến hành điều chỉnh lại danh mục
hàng hoá và dịch vụ để loại bỏ các loại hàng hoá và dịch vụ đã lạc
hậu, ít được tiêu dùng trên thị trường, đồng thời bổ sung các loại
hàng hoá và dịch vụ mới xuất hiện trở nên phổ biến được nhiều
người tiêu dùng, và hiên nay danh mục hàng hoá và dịch vụ đại
diện để tính chỉ số giá tiêu dùng bao gồm 396 mặt hàng và dịch
vụ, các mặt hàng đại diện được chia thành 10 nhóm cấp 1, 34
20
nhóm cấp 2, và 86 nhóm cấp 3, trong đó có 32/86 nhóm cấp 3 đã
được chia thành 75 nhóm cấp cơ sở (cấp 4), các nhóm cấp 3 còn
lại vẫn giữ nguyên như trứơc.
Từ danh mục hàng hoá và dịch vụ đại diện chuẩn của cả nước,
các Cục Thống kê, tiến hành chọn các mặt hàng cụ thể tại địa
phương theo các yêu cầu sau:
Trên cơ sở các nhóm mặt hàng của danh mục chuẩn, xác định
tên mặt hàng và dịch vụ của địa phương với qui cách, phẩm cấp
cụ thể, mô tả rõ ràng, chi tiết, để bảo đảm thu thập được giá các
mặt hàng cùng chất lượng giữa các kỳ điều tra. Cụ thể là:
- Đối với hàng hoá, cần xác định rõ các đặc tính mô tả của mỗi
mặt hàng như: nhãn hiệu, thành phần cấu tạo, số moden, kiểu
dáng, cỡ, loại, mầu, dạng đóng gói ví dụ: Bánh qui mặn AFC
của công ty Kinh Đô, hộp giấy 200 gram; áo sơmi nam Việt tiến,
dài tay, 70% cotton, cỡ 39
- Đối với các mặt hàng có nhiều nhãn hiệu, chủng loại, qui cách
phẩm cấp, kích cỡ khác nhau, dễ bị nhầm lẫn với một mặt hàng
khác – (ví dụ: sữa bột, đồ dùng nhà bếp, quần áo may sẵn ) cần
hướng dẫn kỹ để điều tra viên thu giá đúng mặt hàng có phẩm cấp
qui cách đã xác định trong danh mục.
- Đối với dịch vụ, tuy có khó khăn hơn trong việc xác định đặc
tính, chất lượng của chúng, tuy nhiên cần chọn những tiêu thức
mô tả nổi bật về từng loại dịch vụ để đưa vào danh mục. Ví dụ:
trong dịch vụ y tế, nếu chọn dịch vụ chữa răng thì cần phải ghi rõ:
công hàn một răng thường tại phòng khám tư nhân; hoặc công
khám đa khoa thông thường tại phòng khám dịch vụ của bệnh
viện; hoặc trong dịch vụ vui chơi giải trí, chọn vé vào bể bơi .
Danh mục hàng hóa ở chỉ số giá bán lẻ hàng hoá và dịch vụ
được xét theo tiêu thức người bán còn chỉ số giá tiêu dùng dựa
trên tiêu thức người mua, do đó việc phân chia các nhóm hàng,
ngành hàng có khác nhau, cụ thể như sau:
Trong điều tra doanh số bán lẻ hàng hoá và dịch vụ, toàn bộ
hàng hoá và dịch vụ được chia thành hai nhóm lớn là hàng hoá và
dịch vụ. Trong mỗi nhóm lớn lại được chia thành nhiều nhóm,
trong từng nhóm chia thành các phân nhóm nhỏ, và trong mỗi
phân nhóm nhỏ sẽ có một hay nhiều mặt hàng đại diện, cụ thể như
sau:
Toàn bộ hàng hoá và dịch vụ được chia thành 2 nhóm lớn là :
Hàng hoá và dịch vụ.
Hàng hoá được chia thành:
+Hàng lương thực, thực phẩm.
21
+Hàng phi lương thực, thực phẩm.
Hàng lương thực, thực phẩm được chia thành:
+Hàng lương thực
+Hàng thực phẩm
Hàng lương thực được chia thành 3 phân nhóm:
+Gạo, gạo nếp các loại.
+Lương thực chế biến.
+Lương thực khác.
Trong điều tra chi tiêu hộ gia đình, hàng hoá và dịch vụ được
phân tổ theo hoạt động chi tiêu chính của dân cư, từ đó danh mục
mặt hàng được chia thành 3 cấp:
Cấp 1: gồm những khoản chi phản ánh từng hoạt động chính
cho đời sống hàng ngày: Ăn, Uống và hút, May mặc, Nhà ở, Thiết
bị và đồ dùng gia đình, Y tế và chăm sóc sức khoẻ, Đi lại và bưu
điện, Giáo dục, Văn hoá thể thao và giải trí, Chi phí cho đồ dùng
và dịch vụ khác.
Cấp 2: bao gồm nhiều nhóm thuộc mỗi ngành cấp1, chẳng hạn
như Ngành Uống và hút bao gồm: Đồ uống không cồn, rựu bia,
Thuốc hút.
Cấp 3: bao gồm các nhóm nhỏ hơn thuộc mỗi ngành cấp 2.
Chỉ số giá tiêu dùng đo lường sự thay đổi giá của những hàng
hóa và dịch vụ được các hộ gia đình tiêu dùng, do đó cần thu
thập giá của những hàng hoá và dịch vụ có chất lượng, đặc điểm
tương tự nhau qua các thời kỳ so sánh, chính vì vậy phải quy định
cụ thể chất lượng, các tính chất và đặc điểm của các loại hàng hoá
và dịch vụ. Các mặt hàng đại diện phải đảm bảo được những yêu
cầu : Xuất hiện nhiều lần trong tiêu dùng, ổn định giữa cung và
cầu, chiếm tỷ trọng lớn trong nhóm hàng và phải được đa số
người tiêu dùng.
Vậy làm thế nào để ta có thể thu thập được giá của những hàng
hoá và dịch vụ đạt được những yêu cầu đặt ra? Chúng ta hãy xem
thực tế quá trình thu thập giá diễn ra như thế nào.
ơ
5. Mạng lưới thu thập giá.
5.1. Lựa chọn số lượng khu vực điều tra, điểm điều tra.
Công việc tiếp theo cần được thực hiện là ta phải thu thập được
giá của các mặt hàng đã được lựa chọn. Ở nước ta việc thu thập
giá theo danh mục được thực hiện thông qua mạng lưới điều tra
giá ở các tỉnh, thành phố trên cả nước bao gồm các khu vực điều
tra và các điểm điều tra như tại các chợ, các điểm buôn bán, các
cơ sở, các trung tâm dịch vụ phục vụ khách hàng vv Các điểm
điều tra nhiều hay ít tuỳ thuộc vào số lượng dân cư của từng địa
22
phương, cũng như sức tiêu dùng hàng hoá và dịch vụ để lựa chọn
một cách chính xác, sao cho có thể đảm bảo tính đại diện cao nhất
của toàn vùng. Muốn vậy khi lựa chọn các khu vực, địa điểm điều
tra với một số lượng hợp lý ta phải lưu ý những vấn đề sau:
-Về lựa chọn khu vực điều tra: Các tỉnh, thành phố thuộc trung
ương cần chọn các khu vực điều tra ở cả thành thị và nông thôn,
các khu vực điều tra này phải có đủ các mặt hàng và dịch vụ đại
diện cho tiêu dùng cảu địa phương để cung cấp giá cho việc tính
chỉ số giá khu vực nông thôn, thành thị và cả tỉnh, thành phố.
Những thành phố trực thuộc trung ương, khu vực điều tra ở thành
thị là khu vực ở các quận, khu vực điều tra ở nông thôn là khu
vực ở các huyện. Những tỉnh còn lại, khu vực điều tra ở thành thị
là khu vực ở thành phố, thị xã của tỉnh, khu vực điều tra ở nông
thôn là khu vực ở các huyện.
-Về lựa chọn điểm điều tra: ta cũng cần lưu ý các điểm sau:
+ Địa điểm điều tra phải là nơi tập trung bán lẻ hàng hoá hoặc
nơi tập trung các dịch vụ phục vụ có tính chất đại chúng.
+ Phải kết hợp nhiều địa điểm điều tra đề phòng khi có một số
địa điểm điều tra không có mặt hàng trong danh mục.
- Về số lượng khu vực, điểm điều tra:
Số lượng các khu vực điểu tra được quy định như sau
:
+ Hai thành phố Hà Nội và Hồ Chí Minh chọn 6 khu vực điều
tra.
+ Các tỉnh vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa chọn 2 khu vực
điều tra.
+ Các tỉnh thành phố còn lại chọn từ 3-5 khu vực điều tra.
Số điểm điều tra, điều tra viên quy định như sau
:
+ Tuỳ theo tình hình cụ thể và số lượng, loại mặt hàng điều tra,
số người bán hàng tại từng khu vực để xác định số điểm điều tra
cần thiết trong mỗi khu vực.
+ Đối những mặt hàng thường co sự khác nhau về giá, cần chọn
số điểm điều tra nhiều hơn so với những mặt hàng giá tương đối
ổn định.
+ Mỗi điều tra viên phụ trách thu thập giá của khoảng 100 mặt
hàng
+ Mỗi khu vực điều tra thành thịcần 3-4 điều tra viên, mỗi khu
vực điều tra nông thôn cần 2-3 điều tra viên. Cụ thể ta có:
Bảng quy định số lượng khu vực điều tra và điều
tra viên cho từng tỉnh, thành phố.
TT
TỈNH, THÀNH PHỐ
Khu vực
điều tra
Số lượng điều
tra viên
1 Hà Nội 6 20
23
2 Hải Phòng 5 17
3 Thái Nguyên 4 14
4 Sơn La 3 11
5 Quảng Ninh 3 11
6 Lạng Sơn 3 11
7 Thái Bình 3 11
8 Thanh Hoá 4 14
9 Thừa Thiên Huế 4 14
10 TP Đà Nẵng 3 11
11 Bình Định 3 11
12 Khánh Hoà 4 14
13 Bình Thuận 3 11
14 Lâm Đồng 3 11
15 TP Hồ Chí Minh 6 20
16 Bình Dương 3 11
17 Đồng Nai 4 14
18 An Giang 4 14
19 Kiên Giang 3 11
20 Cần Thơ 4 14
Tổng số 75 265
(Nguồn: Phụ lục Bảng quy định số lượng khu vực điều tra và
điều tra viên cho từng tỉnh, thành phố- năm 2004-Tổng Cục
Thống Kê)
5.2. Phương pháp điều tra giá tiêu dùng.
Việc điều tra giá tiêu dùng được thực hiện như sau:
Trước tiên căn cứ vào danh mục hàng hoá và dịch vụ đại diện
của tỉnh/thành phố để chọn khu vực, điểm điều tra và phân công
cho từng điều tra viên cần thu thập giá các mặt hàng, dịch vụ cụ
thể.
Tiếp theo tại mỗi điểm điều tra, điều tra viên trực tiếp theo dõi,
quan sát, ghi chép giá hàng hoá hoặc dịch vụ mà khách hàng thực
trả tiền, ghi vào sổ trung gian hoặc ghi trực tiếp vào biểu điều tra.
Sau đó khi điều tra giá cần lưu ý kết hợp quan sát, hỏi cả người
mua và người bán, chú ý các trường hợp người bán hàng hay nói
giá cao, khách hàng mặc cả
Nếu mặt hàng nào tập quán mua bán của địa phương khác với đơn
vị tính qui định trong danh mục, điều tra viên cần qui đổi lại theo
đơn vị chuẩn cho thống nhất.
24
Cuối ngày điều tra, điều tra viên phải kiểm tra lại số liệu đã
ghi chép trong sổ trung gian để ghi vào biểu điều tra hoặc kiểm
tra lại biểu điều tra đã ghi và nộp cho Cục thống kê địa phương
vào ngày hôm sau.
Thời gian thích hợp để lấy giá là lúc mua bán diễn ra bình
thường nhất trong ngày. Thời gian đến các điểm điều tra cần được
qui định thống nhất giữa các kỳ điều tra.
Trong trường hợp hàng hoá hoặc dịch vụ không phát sinh trong
kỳ điều tra do tính thời vụ hoặc lý do nào khác (như hàng kém
phẩm chất, lỗi mốt, thay đổi mẫu mã ) cần ghi chú rõ để cơ quan
thống kê xử lý.
Nếu kỳ điều tra trùng vào những ngày lễ, tết nhu cầu tiêu dùng
thường tăng cao, giá thu thập được sẽ phản ánh cả sự tăng giá
thuần tuý và sự tăng giá do nhu cầu tiêu dùng tăng mạnh đột biến.
Trong trường hợp này, cần kết hợp quan sát, lấy giá ngày trước và
sau thời điểm qui định để đưa ra mức giá trong kỳ phản ánh đúng
xu hướng, loại trừ bớt ảnh hưởng của các yếu tố đột biến .
5.3. Thời gian điều tra giá.
Theo quy định chung, mỗi tháng phải điều tra 3 kỳ để thu thập
giá vào các ngày sau:
- Kỳ 1 vào ngày 25 tháng trước tháng báo cáo.
- Kỳ 2 vào ngày 05 tháng báo cáo.
- Kỳ 3 vào ngày 15 tháng báo cáo.
Tuy nhiên điều này cũng có thể thay đổi tuỳ tình hình cụ thể.
Về thời điểm thu thập giá: những mặt hàng chỉ thu thập giá 1
kỳ/tháng thu thập giá vào kỳ 3. Những mặt hàng do Nhà nước
quản lý thu thập giá của ngày điều chỉnh, sau đó tính lại giá bình
quân tháng theo số ngày trong tháng.
6. Phương pháp tính chỉ số giá tiêu dùng.
Như đã trình bày ở trên để tính chỉ số giá tiêu dùng chúng ta
phải trải qua nhiều giai đoạn phức tạp, khó khăn nhất là quá trình
tổ chức thu thập thông tin. Giai đoạn tính toán là giai đoạn cuối
cùng và cũng phải được thực hiện qua nhiều bước tính toán.
Chỉ số giá tiêu dùng có thể được tính cho mỗi tỉnh, thành phố và
cả nước trên cơ sở chỉ số giá của khu vực thành thị và khu vực
nông thôn.
Chỉ số giá tiêu dùng của mỗi tỉnh, thành phố được tính theo các
bước sau đây:
+ Tính giá bình quân từng kỳ điều tra cho tưng khu vực nông
thôn, thành thị và cho cả tỉnh, thành phố.
25