Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Đề tài: Thực trạng và giải pháp để đẩy lùi tình trạng nhiễm HIV ở trẻ em lang thang thành phố doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.39 KB, 23 trang )

BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
Đề tài
Thực trạng và giải pháp để đẩy lùi tình trạng
nhiễm HIV ở trẻ em lang thang thành phố
1
1
Mục Lục
Lời mở đầu Trang
I. Thực trạng tình trạng nhiễm HIV ở trẻ em lang thang …… 2
II. Phạm vi áp dụng …………………………………… 5
III.Chiến lược marketing đề xuất …………………………… 6
1. Phân đoạn thị trường mục tiêu……………………………………… 6
2. Các thành phần của chương trình marketing xã hội………………… 9
3. Đánh giá và kiểm tra chương trình ………………………………… 19
Kết Luận………………………………………………………… 21
2
2
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, ở các thành phố lớn của Việt Nam chúng ta thấy có rất nhiều trẻ em
lang thang kiếm sống, các em chủ yếu là đến từ các vùng nông thôn và làm đủ mọi
nghề để kiếm sống như đánh giầy, bán báo,làm cửu vạn…Trong số các em vì
không có đủ kiến thức và kinh nghiệm nên đã có rất nhiều em tiêm chích ma tuý
và lây nhiễm HIV, có nhiều em đang mang trong mình căn bệnh thế kỷ nhưng các
em không hề hay biết và vì vậy đã vô tình truyền bệnh cho người khác và ngày
càng làm gia tăng tỉ lệ người nhiễm HIV. Đó là một vấn đề đáng báo động, nó đã
gieo một hồi chuông cảnh báo đối với toàn xã hội khi mà ngày càng có nhiều trẻ
em lang thang và nhiễm HIV.Trẻ em là tương lai của đất nước và vì vậy để giải
quyết vấn đề này phải được coi là trách nhiệm của toàn xã hội chứ không phải là
công việc của riêng ai.
Là nhóm sinh viên khoa marketing trường ĐHKTQD trong khuôn khổ của môn
học Marketing xã hội và tính cấp bách của xã hội chúng tôi đã chọn đề tài: "Thực


trạng và giải pháp để đẩy lùi tình trạng nhiễm HIV ở trẻ em lang thang thành
phố” làm nội dung nghiên cứu. Mục đích của chúng tôi là phân tích thực trạng và
tìm nguyên nhân nhiễm HIV ở trẻ em lang thang thành phố, từ đó xây dựng nên
các giải pháp để làm giảm tình trạng này, giúp các em có cuộc sống tốt đẹp hơn
trong tương lai và giảm tình trạng nhiễm HIV ở Việt Nam.
Đề tài của chúng tôi bao gồm các nội dung như sau:
I.Thực trạng nhiễm HIV của trẻ em lang thang thành phố
II. Phạm vi áp dụng chương trình marketing xã hội
III. Chiến lược marketing đề xuất.
3
3
Trong quá trình thực hiện đề tài chúng tôi cũng xin chân thành gửi lời cảm ơn đến
cô giáo Ths.Doãn Hoàng Minh đã tận tình hướng dẫn và chỉ bảo để đề tài nghiên
cứu được hoàn thành
I. Thực trạng tình hình lây nhiễm HIV ở trẻ em lang thang thành phố
“Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”. Trẻ em chính là tương lai của đất
nước, tương lai của dân tộc. Trẻ em có được nuôi dưỡng tốt, có đủ sức khỏe và
được giáo dục tốt thì mới có tương lai tốt, mới tạo ra tương lai tươi sáng cho đất
nước.
Tuy nhiên có một thực trạng đáng báo động hiện nay đó là số lượng trẻ vị
thành niên nhiễm HIV ngày một nhiều, tốc độ gia tăng ngày càng nhanh.Theo
UNAIDS, vào cuối năm 2004 ước tính có 121.000 trẻ em đang cùng sống với
HIV/AIDS tại Châu á và Thái Bình Dương, chỉ riêng năm 2005 ước tính có
khoảng 47.000 trẻ mới bị nhiễm. Theo số liệu của Tổng cục thống kê 1/3 dân số
Việt Nam hiện nay đang ở độ tuổi từ 10 đến 24 tuổi, tương đương với khoảng 24
triệu người. Dự báo trong vòng 10 năm tới, số người trẻ tuổi sẽ chiếm phần lớn
nhất của dân số Việt Nam. Với việc Việt Nam mở rộng cửa hội nhập với thế giới
thì bên cạnh những cơ hội, các thách thức mới cũng xuất hiện như HIV/AIDS,
buôn lậu, ma túy Mà những người trẻ tuổi luôn là những người chịu tác động
trước tiên trước mỗi thách thức.

Hiện nay ở Việt Nam đã có 76.000 ca HIV dương tính được báo cáo, trong
đó có tới hơn 70% những người bị mắc có độ tuổi dưới 30 (Theo thống kê của Bộ
Y tế cuối năm 2005, Việt Nam chỉ có khoảng 8.500 trẻ dưới 15 tuổi nhiễm HIV,
trong đó trẻ em đường phố chiếm đại đa số). Số lượng ca mắc mới ngày càng tăng
nhanh trong khi những người trẻ tuổi lại không được trang bị đầy đủ kiến thức để
đối mặt với hiểm họa này. Những quan niệm sai lầm về giáo dục giới tính, về
4
4
HIV/AIDS, về việc tuyên truyền sử dụng bao cao su vẫn đang tồn tại. Bên cạnh đó
là sự kỳ thị, xa lánh, sợ hãi của những người xung quanh đối với nạn nhân của căn
bệnh thế kỉ HIV/AIDS. Sự phân biệt đối xử đang ngày một lan rộng đặc biệt là với
các nạn nhân trẻ tuổi. Họ thường bị bỏ rơi tại bệnh viện, trại cải tạo mà ít có sự
quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ của cộng đồng.
Mặt khác hiện nay các chương trình xã hội nhằm mục đích tuyên truyền,
giáo dục để đẩy lùi HIV/AIDS đặc biệt là tình trạng lây nhiễm HIV/AIDS ở trẻ em
đường phố hoạt động không hiệu quả, chưa dành được sự quan tâm đúng mức từ
phía cộng đồng. Các giáo dục viên đường phố vẫn còn thụ động với công tác này.
Họ khá e ngại khi phải đối mặt với trẻ có nguy cơ bị nhiễm HIV và việc nhận
chăm sóc trẻ đường phố bị nhiếm HIV cũng chỉ là những tấm lòng hảo tâm của
một vài cá nhân chứ chưa có chính sách dành cho đối tượng này. Có một số điểm
khám sức khỏe miễn phí nhưng chưa phát huy tác dụng, hoạt động không liên tục,
nhân viên y tế không thân thiện
Khi xây dựng chương trình này, chúng tôi muốn nhắm tới 2 mục đích:
- Mục đích trước mắt:
+ Thu hút sự quan tâm, giúp đỡ của cộng đồng dành cho trẻ em lang
thang đường phố
+ Giáo dục, nâng cao khả năng tự bảo vệ của các em trước sự tấn
công của HIV/AIDS đặc biệt là những em nghiên ma túy.
+ Cung cấp các dịch vụ, phương tiện cho các em để các em có thể
tự phòng tránh

- Mục đích lâu dài:
+ Đẩy lùi HIV/ AIDS ra khỏi cộng đồng
+ Hạn chế và tiến tới xóa bỏ tình trạng trẻ em nông thôn bỏ ra thành
phố kiếm sống, trẻ bỏ nhà đi lang thang.
5
5
Đối tượng công chúng mục tiêu mà chúng tôi lựa chọn cho chương trình
marketing xã hội này chính là: Những trẻ em lang thang đường phố, đặc biệt là
những đứa trẻ nghiện ma túy xuất phát từ những nguyên nhân cơ bản sau:
- Theo báo cáo của tổ chức WHO, cuối năm 2001 ở Việt Nam có khoảng
2500 trẻ em nhiễm HIV nhưng đến đầu năm 2006 đã có 8500 trẻ nhiễm. Đây là
những con số đáng báo động. Nó cho thấy tốc độ gia trẻ nhiễm HIV ngày càng
nhanh và sự đe dọa của hiểm họa HIV/ AIDS với trẻ em ngày càng lớn
- Trong số 8500 trẻ bị nhiễm HIV/ AIDS trẻ đường phố chiếm tỷ lệ đại đa
số. (Thống kê của Bộ Y tế). Đây là những đứa trẻ dưới 16 tuổi kiếm sống bằng
nhiều nghề khác nhau như ăn xin, bán báo, bán vé số, đáng giầy, bán hàng rong,
trộm cắp, móc túi, bán dâm
- Kết quả điều tra tại Hà Nội cho thấy 69% trẻ em nhiễm HIV do tiêm chích
ma túy, 13% do mẹ truyền sang con, 2.9% do lây qua đường tình dục
- Trẻ em đường phố rất dễ bị lây nhiễm HIV/ AIDS vì không có thông tin,
không có kiến thức về căn bệnh nguy hiểm này trong khi cuộc sống của các em rất
đơn độc, phải ngủ ngoài đường, không ai bảo vệ, phải tự kiếm kế mưu sinh nên rất
dễ bị lôi kéo sử dụng ma túy, bán thân để kiếm sống và thỏa mãn cơn nghiện. Các
em không đủ khả năng tự bảo vệ để tránh khỏi nguy cơ lây nhiễm HIV.
- Kiến thức về HIV của trẻ em đường phố rất hạn chế. Có đến 20% trên 400
trẻ được hỏi cho rằng AIDS là bệnh của người lớn, trẻ em không bị AIDS. Các em
này cũng cho rằng bệnh này có thể chữa khỏi. Điều này càng chứng tỏ trẻ em
đường phố có nguy cơ lây nhiễm HIV rất cao và chưa được quan tâm đúng mức,
chưa được giáo dục, phổ biến các kiến thức để tự bảo vệ bản thân và cộng đồng.
- Đôi khi những đứa trẻ nghiện ma túy cũng có ý thức sợ nhiễm HIV muốn

đi cai nghiện nhưng chúng không biết phải làm như thế nào lại không có tiền
II. Phạm vi áp dụng
6
6
Chương trình Marketing xã hội này sẽ được triển khai trước tiên ở 2 thành
phố lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh bởi vì đây là hai trung tâm kinh tế
lớn nhất của cả nước, nơi tụ họp của hầu hết trẻ lang thang đường phố. Trong số tẻ
em lang thang đường phố có tới 3/4 trẻ là từ các vùng nông thôn nghèo bỏ ra thành
phố. Chúng bị cuộc sống giàu sang ở thành phố cuốn hút, lôi kéo. Theo thống kê
hiện nay chỉ riêng thành phố Hồ Chí Minh đã có tới hơn 10.000 trẻ em lang thang
đang bị đại dịch HIV đe dọa
Mặt khác đây là các thành phố lớn có nhiều điều kiện tốt hơn về nhân lực,
tài chính, phương tiện để triển khai chương trình. Từ những thành công của
chương trình có thể nhân ra các thành phố, địa phương khác dễ dàng hơn.
III.Chiến lược marketing đề xuất:
1.Phân đoạn đối tượng mục tiêu:

Hoàn cảnh bình thường Lang thang đường phố
Trẻ em
Người trưởng thành
Tình trạng nhiểm HIV của trẻ em đường phố có quan hệ trực tiêp hoặc
gián tiêp đến không ít các đối tượng,thành phần trong xã hội.Vì vậy để thu được
hiệu quả như mong muốn,chúng ta phải xác định hết sức rõ ràng các đoạn công
chúng mục tiêu của chương trình Marketing xã hội
Trong số các đối tượng trẻ em lang thang thì có không ít các trường hợp
đã bị nhiễm HIV từ các nguyên nhân khác nhau. Bên cạnh đó cũng có các đối
tượng chưa bị nhiễm HIV.Vơí phạm vi của đề tài chúng tôi lựa chọn các đói tưọng
trẻ em lang thang đường phố chưa bị nhiểm HIV làm công chúng mục tiêu.Gia
7
7

đình, nhà trường, đoàn thanh niên, hội phụ nữ,các cán bộ an ninh cơ sở…là các
đoạn công chúng ảnh hưởng.
a.Công chúng mục tiêu:
Trẻ em lang thang là một nhóm xã hội hết sức nhạy cảm.Đại đa số các em
bị thất học, từ nông thôn lên thành phố kiếm sống, phải chịu nhiều sức ép từ cuộc
sống, cộng với sự mặc cảm sẵn có với xã hội bên ngoài làm cho các đối tượng này
trở lên rất khó tiêp cận.
Các đói tượng này có độ tuổi dao động khoảng từ 8 đến 16 tuổi.Hầu hết
các em đều có trình độ văn hoá thấp, bỏ học sớm .Trong số các đối tượng này
cũng đã có một số em có đôi chút hiểu biết về HIV/AIDS,các con đường lây
truyền cũng như biện pháp phòng tránh.Tuy nhiên con số này là rất nhỏ, nếu
không muốn nói là hiếm hoi.
Số trẻ em lang thang thường cú nhiều biến động.Nhúm trẻ này đến rồi đi,
khi cỏc em lang thang trờn hố phố kiếm sống, khi làm việc trong những điều kiện
tương đối ổn định và đụi khi cỏc em kiếm sống bằng cỏc hoạt động rất đỏng ngờ.
Một số trẻ về quờ giỳp đỡ gia đỡnh trong dịp mựa màng rồi lại đến ỏc thành phố
vỡ vậy nờn rất khú kiểm soỏt
Trung tâm truyền thông sức khoẻ thành phố Hà Nội vừa tiến hành một
cuộc khảo sát trực tiếp bằng cách phỏng vấn trực tiếp khoảng 400 trẻ em lang
thang đường phố.Kết quả cho thấy, đa số các em đều không biết dùng chung bơm
kim tiêm khi sử dụng ma tuý, quan hệ tình dục không an toàn với nhiều người là
đối diện với nguy cơ bị lây nhiễm HIV.Thậm chí một số em còn cho rằng, AIDS
là căn bệnh của người lớn và hoàn toàn có thể chữa khỏi. Điều này đem đến cho
chúng ta một thực trạng hết sức đáng báo động: mỗi trẻ em lang thang đều có nguy
cơ bị lây nhiễm hay có thể lây nhiểm HIV cho người khác, trong khi chúng
không hề có một chút kiến thức nào để phòng tránh.
8
8
Các trẻ em này hầu hết đều có hoàn cảnh đặc biệt, gia đình khó khăn,phải
gánh chịu sức ép kiếm tiền nuôi sống bản thân và gia đình. Dẫu đã có một số em

nhận thức đựơc nguy cơ của mình song vì nhiều lí do khỏc nhau mà lí do lớn hơn
cả là sức hút vật chất trước mắt nên đành nhắm mắt đưa chân.Vì thế khả năng đưa
các em trở về nhà từ bỏ cuộc sống lang thang là rất nhỏ.Thực tế thì đã có các
chương trình gom trẻ em lang thang đem trả về gia đình song chỉ một thời gian
ngắn sau khi trở về gia đình các em lại tiếp tục bỏ nhà lên thành phố tái lang
thang. Đã có những trường hợp trẻ em lang thang đường phố được các anh chị
giáo dục viên đường phố hướng dẫn cách phòng tránh HIV song nếu còn nhớ thì
cũng do nguyên nhân này hay nguyên nhân khác mà các em bỏ qua, không hề áp
dụng chúng.
Cho dù số lượng bao nhiêu hay hoàn cảnh sinh sống như thế nào thì mỗi
trẻ em lang thang đều ở trong tình trạng hết sức dễ bị tổn thương. Đường phố với
những hiểm hoạ khôn lường sẽ có những tác động tiêu cực đến sự phát triển của
bản than các em. Những bài học từ đường phố ngày càng tàn nhẫn hơn với các em.
Trẻ em đường phố không được đến trường học, không được chăm sóc sức khoẻ
thich đáng, không được chăm lo phát triển tinh thần và hỗ trợ để trở thành những
công dân khoẻ mạnh và toàn diện và đặc biệt là các em luôn phải đối mặt với nguy
cơ HIV/AIDS rình rập sãn sang bổ xuống đầu bất cứ lúc nào.
b,Công chúng ảnh hưởng:
Nguy cơ mà nhóm công chúng mục tiêu nêu trên phải đối mặt là hệ quả
tất yếu của vấn nạn lao động trẻ em-một vấn đề xã hội nhức nhối đang được
ra.Đây là một vấn đề có liên quan đến không ít các lực lượng xã hội mà nổi bật
nhất đó là bản thân các gia đình(người chủ gia đình: cha, mẹ,ông, bà…)có con em
bỏ nhà ra thành phố hay các cơ quan đoàn thể,trường học cơ sở.
*Các bậc cha mẹ:
9
9
Như đã nói ở trên, đại đa số trẻ em lang thang đường phố đều có hoàn
cảnh gia đình hết sức khó khăn,cha mẹ mất sớm hay ốm đau bệnh tật.Song bên
cạnh đó cũng có không ít các bậc cha mẹ chỉ vì cái lợi nhỏ trước mắt mà bắt con
cái mình phải bỏ nhà lên thành phố kiếm tiền, đánh mất tương lai.Trình độ hiểu

biết của họ là hết sức thấp kém. Họ hoàn toàn không biết thâm chí có những
trường hợp biết rõ nguy cơ mà con em mình phải đối mặt song vẫn chấp nhận
nhắm mắt làm ngơ.
Một cuộc điều tra mới đây cho thấy có gần 40% cha mẹ của trẻ lao động
sớm cho rằng trách nhiệm chăm sóc, giáo dục trẻ là của xã hội và cộng đồng.
Cũng theo kết quả trên, chỉ có 67,5% bậc cha mẹ cho rằng gia đình là môi trường
sống tốt nhất cho trẻ, 96% bậc cha mẹ được hỏi không rõ các quy định về quyền
trẻ em…
Để giải quyết tạn gốc tình trạng trẻ em lang thang thì vai trò của các bậc
cha mẹ là rất lớn.Tuy có những trường hợp cha mẹ vì quá tham lợi trước mắt mà
đẩy con cái ra ngoài xã hội đối đầu với đầy rẫy những nguy cơ phải đối mặt.Song
phần lớn các bậc cha mẹ đều rất thương con, chỉ hoàn toàn là do hoàn cảnh hay
thiếu hiểu biết nên mơí dẫn đến tình trạng đã nêu ở trên.Để họ có cách nghĩ,các
làm khác tuy khó nhưng khả năng thành công là không nhỏ.
*Các lực lượng xã hội khác: nhà trường, đoàn thanh niên, hội phụ nữ,cán bộ
địa phương…
Hàng ngày, hàng giờ trẻ em lang thang luôn phải đối mặt với những nguy
cơ lây nhiễm HIV rất cao song điều này không hề được xã hội quan tâm đúng
mức. Đã có một số chương trình xã hội được triển khai nhằm giải quyết tình trạng
trên song hiệu quả là chưa cao. Các chương trình hầu như chỉ được triển khai với
quy mô nhỏ, thiếu hoàn toàn những chính sách, chiến lược dài hơi để giải quyết
tình trạnh đã nêu ở trên.
10
10
Bên cạnh đó, sự nhận thức chưa đúng đắn về phòng ngừa và xoá bỏ lao động
trẻ em của các ngành, các cấp đã dẫn đến hậu quả là việc quan tâm, chỉ đạo, đầu tư
kinh phí, nhân lực cho việc giải quyết vấn đề này còn hạn chế cũng là một nguyên
nhân không nhỏ dẫn đến nguy cơ cao về HIV của trẻ em đường phố. Các bộ,
ngành, đoàn thể chưa có sự phối hợp đồng bộ thống nhất và triệt để việc giải quyết
vấn đề trên.Thêm vào đó vẫn còn một số người có thái độ xa lánh,coi trẻ em lang

thang là những đối tượng hoàn toàn hư hỏng không thể cải tạo hay giáo dục lại từ
đầu nên không hề có ý thức can thiệp dẫn đến tình trạng ngày càng xấu đi.
Vì vậy ngoài các đối tượng trực tiếp là trẻ em lang thang chương trình cũng
cần hướng tới các đối tương công chúng có ảnh hưởng như đã nêu ở trên. Điều đó
cho phép chúng ta đạt được hiệu quả trong các chương trìng hoạt động một cách
rõ ràng và toàn diện hơn.
2.Các thành phần của chương trình Marketing xã hội:
a,Sản phẩm:
Các chương trình Marketing xã hội được triển khai sẽ cung cấp cho các đối
tượng những sản phẩm hữu ích với ba cấp độ đó là sản phẩm cơ bản, sản phẩm bổ
sung và những lợi ích mang lại.
*Sản phẩm cơ bản:
Sản phẩm cơ bản mà chúng ta cung cấp cho các đối tượng công chúng mục
tiêu là trẻ em lang thang đó là việc không sử dụng ma tuý, không dùng chung
bơm kim tiêm khi sử dụng ma tuý, không có quan hệ tình dục và sử dụng bao cao
su khi có quan hệ tình dục.
Đối với các đối tượng trẻ em lang thang thì nguy cơ HIV xâm nhập và phá
hoại tương lai chính là từ việc sử dụng ma tuý và có các hoạt động tình dục không
an toàn.Những sản phẩm cơ bản của chương trình Marketing xã hội vùa nêu ở trên
cho phép các đối tượng công chúng mục tiêu của chung ta giảm thiểu được nguy
11
11
cơ nhiểm HIV đồng thời có khả năng tự bảo vệ bản thân, gia đình và người thân từ
những hiểm hoạ của đường phố.
Việc xác định sản phẩm cơ bản của chương trình Marketing xã hội giúp
chúng ta có được cái nhìn toàn cảnh về nhu cầu của các đối tượng mục tiêu. Nó
đóng vai trò quyết định trong việc xây dựng các biến số còn lại trong chương trình
mà chúng ta thực hiện.
*Sản phẩm bổ sung:
Những sản phẩm cơ bản đó được cụ thể hoá thành những vật dụng như bơm

kim tiêm & bao cao su hay các dịch vụ như chăm sóc sức khoẻ, khám chữa bệnh
miễn phí hay các chương trình truyền thông, giáo dục về các kiến thức phòng
tránh HIV/AIDS, những kĩ năng tự bảo vệ cũng như bảo vệ cộng đồng.
Những sản phẩm đó không hề khó cung cấp song vấn đề đặt ra là phải làm
thế nào để chúng được các đối tượng mục tiêu của chúng ta sử dụng.Thực tế cho
thấy đã có không ít các sản phẩm như thế được cung cấp trong các chương trình
trước đó song nó hoàn toàn mang lại hiệu quả. Ngoài những nguyên nhân khách
quan xuất phát từ phía các đối tượng mà chúng ta hướng tới thì cũng có không ít
các nguyên nhân xuất phát tư phía chính các sản phẩm mà chúng ta đã cung cấp.
Đôi khi các sản phẩm của chúng ta thiếu hoàn chỉnh chẳng hạn như các chương
trình giáo dục, tuyên truyền chiếu lệ không có được sự tâm huyết làm việc hết
mình của các giáo dục viên hay cộng tác viên đường phố. Điều này đặt ra cho
chúng ta một sự đòi hỏi đó là tính chất lượng của các sản phẩm được cung cấp.
Đây là một vấn đề nhạy cảm và khá quan trọng thường nảy sinh trong các chương
trình Marketing xã hội. Bởi các chương trình này hoạt đọng không với mục đích
đơn thuần là lợi nhuận, cái mà các chương trình mang lại không phải lợi ích trực
tiếp của người cung cấp sản phẩm mà là những lợi ích của cộng đồng.
*Lợi ích mang lại cho các đối tượng mục tiêu:
12
12
Khi sử dụng sản phẩm mà chương trình mang lại các đối tượng trẻ em lang
thang sẽ có đầy đủ kiến thức, kĩ năng cũng như các công cụ để phòng tránh lây
nhiểm HIV/AIDS.Có thể phân tích một cách rõ hơn về lợi ích mà các sản phẩm
này mang lại thông qua việc phân chia thành ba loại lợi ich, đó là những lợi ích
mang tính chức năng, những lợi ích mang tính tinh thần và những lợi ích mang
tính biểu tượng.
Về những lợi ích mang tính chức năng, đó là sự an toàn, là việc sức khoẻ của
các đối tưọng được đảm bảo.Khi sử dụng những sản phẩm mà chương trình cung
cấp các em sẽ không bị lây nhiễm HIV,bảo vệ sức khoẻ. Đối với trẻ em lang thang
thì lợi ích này là cơ bản và quan trọng nhất. Khi mà nguy cơ về sức khoẻ và bệnh

tật hiển thị rất rõ rang ngay trước mắt thì điều mà các em cần trước tiên đó là sức
khoẻ được bảo vệ. Cần cho đối tượng công chúng mục tiêu của chúng ta thấy rõ
được lợi ích trực tiếp và vô cùng quan trọng đó. Chính lợi ích này sẽ là động lực
lớn nhất để các em từ bỏ những hành vi hiện tại và sử dụng các sản phẩm mà
chương trình Marketing xã hội của chúng ta cung cấp.
Tiếp đến là những lợi ích mang tính tinh thần, đó là các em sẽ không còn lo
lắng về nguy cơ nhiễm HIV của mình, tương lai của các em sẽ được đảm bảo hơn.
Các sản phẩm không chỉ mang đến lợi ích tinh thần cho riêng các đối tượng trẻ em
lang thang mà còn tạo ra sự yên tâm hơn ở phía những người có trách nhiệm với
các em như các bậc cha me, người than, hay cộng đồng.
Cuối cùng là những lợi ích mang tính biểu tượng, đó là các sẽ không còn là
những kẻ nghiện ngập, những kẻ thiếu hiểu biết và là gánh nặng cũng như là mối
đe doạ về nguy cơ lây nhiểm HIV cho cộng đòng trong mắt của những người khác.
Và vì thế các em sẽ không bị người đời khinh bỉ, sợ sệt, đề phòng và xa lánh.Xoá
bỏ nguy cơ lây nhiểm HIV cho trẻ em đường phố là một trong những biện pháp
làm lành mạnh hoá môi trường sống làm cho xã hội, cộng đồng trở lên an toàn và
văn minh.
b, Giá cả:
13
13
Khi lựa chọn sử dụng sản phẩm của chương trình các đối tượng mục tiêu
của chúng ta sẽ phải chấp nhận những sự đánh đổi.Chương trình Marketing xã hội
được triển khai không với mục tiêu lợi nhuận vì thế sự đánh đối của công chúng
mục tiêu không thể hiện ra trong sự trao đổi hang hoá thông thường. Khi chấp
nhận sự thay đổi hành vi theo định hướng của chương trình các đối tượng trẻ em
đường phố sẽ mất đi những cơ hội về tài chính trước mắt có được khi thực hiện
những hành vi trước đây. Đây chính là rào cản lớn nhất ngăn các đối tượng công
chúng mục tiêu tiếp cận và sử dụng sản phẩm của chúng ta. Do đó đối với những
sản phẩm mang tính vật chất như bơm kim tiêm, bao cao su hay các dịch vụ chăm
sóc sức khoẻ, khám chữa bệnh cần được cung cấp miễn phí cho các đối tượng.

Các đối tượng trẻ em lang thang có cuộc sống hết sức khó khăn, luôn luôn
thiếu thốn cả về những điều kiện sống cơ bản nhất. Vì vậy sẽ không hoàn toàn nếu
như các em khi có sử dụng ma tuý sẽ dùng chung bơm kim tiêm hay sử dụng lại
những bơm kim tiêm mà người khác đã dung vứt lại bởi kiếm được thuốc thoả cơn
nghiền đã là điều quá sức với các em. Vì thế nếu không được cung cấp miễn phí
thì chắc chắn tình trạng dùng chung bơm kim tiêm sẽ không thể dừng lại. Trường
hợp sử dụng bao cao su khi có quan hệ tình dục cũng vậy. Thêm vào nữa có những
trường hợp khách không đồng ý, nhất là khách nước ngoài thì các em sẽ sẵn sang
không sử dụng chúng.
Thêm nữa khi chấp nhận những sự thay đổi trong hành vi của mình các em
sẽ có nguy cơ phải chấm dứt cuộc sống lang thang-nguyên nhân sâu xa nhất ngăn
cản các em trong việc thay đổi hành vi. Thực tế cho thấy sức hút từ cuộc sống
nhộn nhịp ở các thành phố lớn tác động đến các em rất mạnh mẽ. Chính vì thế mà
đã có không ít các trường hợp trẻ em lang thang đã được đưa về quê song chỉ một
thời gian rất ngắn sau đó lại tiếp tục bỏ nhà ra thành phố.
Những phân tích ở trên cho thấy để có được hiệu quả như mong muốn
chúng ta cần phải chỉ ra cho các đối tượng công chúng mục tiêu thấy được những
giá trị mà các em nhận được khi sử dụng những sản phẩm của chương trình. Đó
14
14
chính là điều cốt lõi dẫn đến sự thay đổi trong tâm trí cũng như hành vi của các đối
tượng. Cần chỉ ra cho các em thấy được những gì sẽ chờ đợi mình khi vẫn lặp lại
những hành vi nguy hiểm như trước đây. Nhấn mạnh vào sự thay đổi cuộc đời
cũng như những bảo đảm cho tương lai của các em, bởi vì đối với các em một sự
hứa hện cho tương lai rất dài sau này là vô cùng quan trọng. Cho các em thấy rằng
khi chấp nhận thay đổi những hành vi hiện tại chính là việc tự tạo cho mình một
sự đảm bảo cho tương lai đồng thời có cơ hội thay đổi cuộc đời lang thang khổ
cực của mình.
c,Phân phối:
Như đã nêu ở trên, trẻ em lang thang là một lực lượng xã hội khá nhạy

cảm.Việc tiêp cận các đối tượng này là tương đối khó khăn, nó đòi hỏi chúng ta
cần phaỉ có sự nghiên cứu hết sức kĩ lưỡng về phân phối. Để không chỉ tiếp cận
được với sản phẩm mà trẻ em lang thang sẽ sẵn sàng tiêu dùng chúng.
Đối với các sản phẩm vật chất như bơm kim tiêm,hay bao cao su miễn phí
cần phải đặt tại những nơi thuận tiên, dễ lấy, nơi tập trung nhiều trẻ em đường
phố.Các thùng đựng bao cao su hay bơm kim tiêm miển phí cần phải được đặt tại
vị trí mà các em có thể nhận thấy rõ ràng đồng thời lại không quá thu hút sư chú ý
của người khác.Có một thực tế là không ít các thùng cung cấp miễn phí các sản
phẩm này thường chỉ có sản phẩm ở bên trong trong một thời gian ngắn khi
chương trình mới được thực hiên còn lại sau một thời gian chúng thường rơi vào
tình trạng rỗng không đầy bụi bặm. Điều này chi thấy sự thiếu hiệu quả của các
chương trình và vì thế đòi hỏi cần có sư quan tâm nhiều hơn nữa đối với các
chương trình trên.Các sản phẩm này cũng có thể được phân phối một cách trực
tiếp cho các em thông qua lực lượng cộng tác viên đường phố.
Việc phân phối các sản phẩm vô hình khác của chương trình như các kiến thức về
nguy cơ cũng như các biện pháp phòng tránh HIV của trẻ em lang thang sẽ được thực
hiện trong quá trình truyền thông Trước khi thực hiện các hoạt động này cần phải xác
định cụ thể địa điểm tiếp cận trẻ em lang thang, đồng thời cần phải đào tạo đội ngũ cộng
15
15
tác viên để tạo nên hiệu quả của chương trình.Lực lượng cộng tác viên này ngoài việc
cung cấp các sản phẩm miễn phí họ sẽ là các giáo dục viên cung cấp cho trẻ lang thang
những thông tin về sức khoẻ sinh sản, về nguy cơ HIV đối với các em đồng thời các
biện pháp phòng tránh.
d,Các hoạt động truyền thông:
Thực tế cho thấy nguy cơ mà các đối tượng trẻ em lang thang phải đối mặt là
rất lớn song các em không hề có sự thay đổi trong hành vi của mình. Có nhiều
nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, trong đó nguyên nhân lớn nhất, cơ bản và
bao trùm nhất đó chính là xuất phát từ sự thiếu hiểu biết của các em về chính
những nguy cơ của bản thân. Kiến thức về HIV/AIDS của các trẻ em lang thang là

vô cùng thiếu. Có những trường hợp trẻ em lang thang không hề nghĩ rằng
HIV/AIDS là một bệnh nguy hiểm,chỉ là bệnh của người lớn, thậm chí còn chữa
được, hay như một số em không biết một chút gì về các con đường lây nhiễm HIV
và các cách phòng trách. Các em vẫn sử dụng chung bơm kim tiêm hay không
dung bao cao su khi có quan hệ tình dục mà mảy may không biết rằng đó chính là
con đường huỷ hoại sức khoẻ và tương lai cuộc song của chính bản thân các em.
Thêm một nguyên nhân khác nữa, đó là có một số các đối tượng trẻ em lang
thang có hiểu biết về các con đường lây nhiễm cũng như các biện pháp phòng
tránh HIV/AIDS nhưng các em đã gặp phải không ít trở ngại trong việc từ bỏ
những hành vi, thói quen hết sức nguy hiểm đó. Trở ngại đầu tiên mà các em gặp
phải đó chính là sự thiếu thốn về vật chất của cuộc sống lang thang. Đối với các
em thì việc chi tiêu một khoản trong thu nhập hết sức ít ỏi của mình cho những sản
phẩm tạo ra sự an toàn cho bản thân như bơm kim tiêm mua mới hay bao cao su là
hết sức khó khăn và đối lúc là không thể. Một rào cản nửa đó là tình trạng không
thể tự bảo vệ bản thân từ những cám dỗ, đe doạ từ cuộc sống xung quanh. Đã có
những trường hợp trẻ em lang thang đã được các cộng tác viên đường phố hướng
dẫn về các biện pháp phòng tránh song khi nhận được sự không đồng ý hay thậm
chí đe doạ từ những người xung quanh mà các phải chấp nhận những hành vi đó.
16
16
T nhng phõn tớch trờn thỡ cú th thy c s quan trng ca truyn thụng
trong chng trỡnh m chỳng ta trin khai nh th no. cỏc i tng tr em
lang thang nhn thc c mt cỏch ỳng n v ton din v nguy c cng nh
nhng bin phỏp phũng trỏnh HIV/AIDS cho bn thõn v cng ng thỡ vai trũ
ca cỏc chng trỡnh truyn thụng l rt ln. Vỡ th cn cú mt s u t ỳng
mc cho hot ng ny.
V cỏc thụng ip, ni dung cỏc thụng ip ngoi vic nờu rừ nguy c cng
nh cỏc bin phỏp phũng trỏnh HIV/AIDS cho cỏc i tng mc tiờu thỡ cn ch
rừ cho cỏc em thy li ớch to ln khi cỏc em chp nhn t b nhng hnh vi hin
ti. Cỏc thụng ip cn c thit k mt cỏch d hiu nht v ng thi cho thy

s ng cm ca xó hi i vi nhng mnh i bt hnh nh cỏc em. Nờn ua
vo ni dung thụng ip nhng tỡnh cm ht sc thõn thit i vi la tui cỏc em
nh tỡnh cm ca cha m, thy cụ giỏo, bn bố hay ngi thõn.
V hỡnh thc truyn thụng cú th la ỏp dng cỏc hỡnh thc truyn thụng cỏ
nhõn , truyn ming ;truyn thụng ti cỏc a im mang tớnh cht cng ng hay
qua cỏc kờnh i chỳng. Trong ú thỡ hai hỡnh thc ựa s c u tiờn hn c.
Kênh cá nhân, truyền miệng: Sử dụng các chuyên gia về HIV/AIDS, các
tình nguyện viên nh thanh niên, học sinh và sinh viên,cộng tác viên đờng phố để
tiếp cận các em hoặc thậm trí những ngời bạn thân , ngời nổi tiếng mà các em
biết để truyền thông điệp đến các em. Khi đó hiệu quả truyền thông sẽ hiệu
quả hơn.
Kênh tại các điểm mang tính chất cộng đồng:Đó là các kênh truyền thông tại
các trung tâm y tế và chăm sóc sức khoẻ, các trung tâm giáo dục và bồi dỡng của
cộng đồng, các bệnh viện và các trung tâm chăm sóc sức khoẻ và t vấn miễn
phí.
17
17
Kênh thông tin đại chúng: Sử dụng các phơng tiện nh đài phát thanh, panô,
apphich tại các địa điểm các em hay lui tới sẽ có tác dụng lớn đối với hoạt động
truyền thông
e,Cụng chỳng:
mt chng trỡnh marketing xó hi thnh cụng thỡ ngoi cỏc thnh phn
trờn khụng th thiu c thnh phn cụng chỳng (cỏ nhõn, nhúm) cú liờn quan
n chng trỡnh, cú tỏc dng rt ln n s thnh cụng hay tht bi ca chng
trỡnh cng nh n s thay i hnh vi ca i tng mc tiờu.
Cụng chỳng ca chng trỡnh marketing xó hi bao gm:Cụng chỳng mc
tiờu v cụng chỳng bờn ngoi.
Cụng chỳng mc tiờu trong chng trỡnh ca chỳng tụi : ú l cỏc cng tỏc
viờn ng ph, cỏc tỡnh nguyn viờn v cỏc chuyờn gia v HIV/AIDS. H phi
hiu c cỏc tỏc hi ca HIV/AIDS i vi sc kho, cuc sng ca cỏc em hin

ti cng nh trong tng lai, cỏc con ng lõy truyn, cỏc ni dung v k hoch
thc hin ca chng trỡnh marketing xó hi.
Cụng chỳng bờn ngoi cú th bao gm c cụng chỳng mc tiờu v cụng
chỳng nh hng nh bn bố, ngi thõn, gia ỡnh, cỏc trung tõm chm súc t vn
sc kho, bnh vin, cỏc t chc a phng ca cỏc em nh hi ph n, on
thanh niờn cú tỏc dng ngn chn hnh vi ca cỏc em ngay ti a phng khụng
cho cỏc em lờn thnh ph kim sng v s cú nguy c tiờm chớch ma tuý v lõy
nhim HIV.Cụng chỳng bờn ngoi cú tỏc dng h tr v ngn cn hay cn tr s
thay i hnh vi ca cỏc em nh h tr cỏc em v nhn thc cỏc tỏc hi ca tiờm
chớch ma tuý v lõy nhim HIV, cung cp cho cỏc em cỏc k nng v phng tin
trỏnh lõy nhim HIV hiu qu, cỏc bin phỏp bo v sc kho ca cỏc em v ngi
thõn.
f, i tỏc:
18
18
Các chương trình marketing xã hội thường phức tạp và đòi hỏi các nguồn
lực lớn nên cần thiết phải huy động được các đối tác khác cùng tham gia. Các đối
tác làm tăng độ tin cậy của chương trình, mở rộng phạm vi hoạt động của chương
trình, tăng cường nguồn lực và nâng cao vị thế của chương trình.
Các đối tác của chương trình có thể là các cơ quan báo chí và truyền thông,
Bộ y tế, các tổ chức phòng tránh và chống lây nhiễm HIV ở Việt Nam và các tổ
chức nhân đạo phi chính phủ đang hoạt động tại Việt Nam với mục đích là làm
giảm tỉ lệ nhiễm HIV, nâng cao nhận thức của người dân, các doanh nghiệp lớn và
thành công trên thị trường như Honda Việt nam, Cà fê Trung Nguyên,các ngân
hang thuơng mại Nhà nước và cổ phần…
Các tổ chức phòng tránh và chống lây nhiễm ở Việt Nam, Bộ y tế cung cấp
cho chúng ta kinh nghiệm thực hiện các chương trình, các cơ quan báo chí và
truyền thông hỗ trợ chúng ta các nguồn lực trong việc thiết kế và truyền thông
điệp đến đối tượng mục tiêu, xây dựng các chương trình truyền thông. Các doanh
nghiệp lớn thành công có thể cung cấp tài chính và các vật dụng miễn phí phục vụ

chương trình, đổi lại ta có thể quảng cáo cho nhãn hiệu của họ.
Để có thể thực hiện chương trình một cách thường xuyên và lâu dài cần
phải có quan hệ tốt với các đối tác và tìm kiếm các đối tác tiềm năng . Các đối tác
tiềm năng phải đem lại lợi ích cho chúng ta và ngược lại họ cũng sẽ nhận được các
lợi ích từ phía chúng ta, tức là quan hệ trao đổi hai bên cùng có lợi .
g,Tài chính:
Các chương trình marketing xã hội để thực hiện được đòi hỏi phải có nguồn
tài chính lớn: cho việc thuê các phương tiện truyền thông, mua các vật dụng cần
thiết và các chi phí bằng tiền khác để thực hiện chương trình .Tuy nhiên để đáp
ứng được nguồn tài chính này người làm marketing xã hội phải biết huy động
được các nguồn trong xã hội. Nguồn này có thể là tiền từ các tổ chức từ thiện, tiền
19
19
tài trợ của các doanh nghiệp, các tổ chức phi chính phủ hoạt động vì mục đích từ
thiện hay tiền của các cá nhân có lòng hảo tâm…
Trong chương chình của chúng tôi, chúng tôi sẽ huy động tài chính từ các
tổ chức từ thiện và tài trợ của các doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn. Để
chương trình có thể hoạt động được chúng tôi cần thực hiện huy động khoảng 8
trđ( tiền chi phí làm quảng cáo, mua bao cao su miễn phí, tiền đi lại, mua vật dụng
cần thiết) và thực hiện trong vòng một tháng rầm rộ tại các thành phố lớn và sau
đó cứ cách hai tháng chúng tôi lại thực hiện lại một lần nữa, tuy nhiên trong thời
gian chương trình không thực hiện bao cao su vẫn được phát miễn phí tại các
điểm và các chương trình quảng cáo như tờ rơi, áp phích vẫn được thực hiện. Vì
chương trình phải thực hiện liên tục như vậy cho nên phải đảm bảo nguồn tài
chính như phải có quan hệ tốt với các đối tác và không ngừng tìm kiếm các nguồn
tài chính khác trong xã hội đảm bảo chương trình được thực hiện liên tục và lâu
dài.
h,Chính sách:
Đó là các quy định, các thủ tục hành chính, các quyền được tiếp cận đối
tượng mục tiêu và được tiến hành thực hiện chương trình một cách thoải mái nhất

mà không có sự cản trở nào từ các lực lượng khác trong xã hội.
Chương trình của chúng tôi vì đối tượng là trẻ em tức là pháp luật vẫn coi
các em là các vị thành niên và chưa có quyền công dân. Vì vậy để được tiếp xúc
với các em, để tuyên truyền tới các em các thông điệp của chương trình mà không
làm ảnh hưởng đến các quyền của các em mà pháp luật bảo vệ cần phải có được
sự cho phép của pháp luật. Chúng tôi sẽ tiến hành xin giấy phép của Bộ y tế hoặc
Sở y tế để có quyền được tiếp xúc với các em mà không vi phạm các quyền về trẻ
em . Các chương trình quảng cáo của chúng tôi như panô, apphích , tờ rơi tại các
địa điểm cũng được xin phép của pháp luật về quảng cáo và chính quyền địa
phương, nhất là các địa điểm đặt các thùng bao cao su miễn phí cũng được xin chỗ
đặt.
20
20
Các nội dung thực hiện chương trình của chúng tôi đều được sự cho phép
của pháp luật và sự bảo vệ của các tổ chức và doanh nghiệp là đối tác của chúng
tôi.Tất cả điều đó sẽ góp phần làm chương trình được tiến hành một cách tốt nhất,
góp phần vào sự thành công của chương trình cũng như làm thay đổi hành vi của
đối tượng mục tiêu.
3. Đánh giá và kiểm tra chương trình:
Khi chương trình được thực hiện xong chúng ta phải tiến hành đánh giá và
kiểm tra sự thành công hay thất bại của chương trình, những điều gì? chương trình
đã làm được, điều gì chưa làm được hoặc làm được bao nhiêu? Các bài học kinh
nghiệm được rút ra cho sự thực hiện các chương trình vào lần sau.
Chúng tôi sử dụng các tiêu chí sau đây để đánh giá sự thực hiện cũng như
sự thành công hay thất bại của chương trình chúng tôi :
- Số lượng trẻ em được tiếp xúc và tuyên truyền các thông điệp của
chương trình ( mục tiêu của chúng tôi là tiếp xúc được 80% số trẻ em
lang thang tại các thành phố lớn).
- Có bao nhiêu % bao cao su miễn phí đã đến được với các em và có bao
nhiêu em đã lấy và sử dụng bao cao su.( mục tiêu của chúng tôi là 90%

các em được tiếp xúc).
- Phạm vi lan rộng của chương trình đến đâu tại một địa phương cụ
thể( mục tiêu là toàn bộ địa phương).
- Các em đã nhận thức được bao nhiêu % nội dung của thông điệp và các
tác hại của HIV và các biện pháp phòng tránh ( mục tiêu là 50% thông
điệp đến với các em và các em có thể hiểu được nội dung).
- Có bao nhiêu % các em đã có sự thay đổi hành vi sau khi chương trình
được thực hiện.( mục tiêu là 50%)…
21
21
Trên đây là một vài tiêu chí để đáng giá sự thực hiện chương trình của
chúng tôi. Nếu các chỉ tiêu đều đạt thì coi như chương trình đã thành công. Nếu
các chỉ tiêu không đạt thì coi như chúng ta đã gieo một hồi chuông cảnh báo đối
với toàn xã hội và sẽ có nhiều em có được sự nhận thức và sẽ có sự thay đổi hành
vi trong tương lai. Khi đó chương trình cũng chưa hẳn là đã thất bại .

Kết Luận
Xây dựng và thiết kế các chương trình marketing xã hội là một vấn đề hết
sức khó khăn và vất vả, đòi hỏi người làm marketing phải có chuyên môn và
nghiệp vụ sâu sắc, phải có các mối quan hệ và kinh nghiệm tốt. Trong bài viết của
chúng tôi, chúng tôi đã phân tích và nêu bật lên được các thực trạng và nguyên
nhân để trẻ em lang thang thành phố bị nhiễm HIV và tiêm chích ma tuý. Chúng
tôi cũng nêu bật lên được các nguyên nhân sâu xa tại sao các em bỏ nhà lên thành
phố kiếm sống, đó là nguyên nhân chủ quan và chúng tôi coi là quan trọng để ngăn
chặn sự hình thành hành vi của các em ngay tại địa phương và gia đình của các
em.
Bài viết của chúng tôi cũng đã phân tích và nêu ra được các biện pháp để
cải thiện tình hình và làm thay đổi hành vi của các em, góp phần nâng cao nhận
thức của các em về sức khoẻ, cũng như những tác hại của tiêm chích ma tuý và
22

22
nhiễm HIV các biện pháp phòng tránh lây nhiễm HIV và bảo vệ sức khoẻ của
chính các em. Các biện pháp này nếu được thực hiện một cách khoa học, thống
nhất và liên tục chúng tôi tin rằng chúng sẽ có tác dụng làm thay đổi hành vi của
đối tượng và góp phần làm giảm tỉ lệ nhiễm HIV ở trẻ em lang thang thành phố ,
tiến tới đẩy lùi tình trạng nhiễm HIV ở Việt Nam
Tuy nhiên vì đây là bài viết của sinh viên khoa Marketing, khi mà chưa có
kinh nghiệm hoạt động marketing xã hội nên bài viết của chúng tôi còn thiếu tính
thực tế và các biện pháp khó triển khai. Rất mong thầy cô giáo và các bạn góp ý để
đề tài có tính thực tế cao hơn. Xin chân thành cảm ơn.
23
23

×