MỞ ĐẦU
Bentonit là loại khoáng sét tự nhiên, thuộc nhóm smectit gồm montmorilonit và
một số khoáng khác. Bentonit có các tính chất đặc trưng là trương nở, kết dính, hấp
phụ, trơ, nhớt và dẻo [1,3,4,35,37]. Do những tính chất này mà bentonit được ứng
dụng từ xa xưa như làm đồ gia dụng (bát đĩa, nồi, chum, vại…) và ngày nay được sử
dụng làm chất xúc tác [2,8,10,20,39], chất tạo huyền phù trong sơn, thuốc nhuộm,
vecni, làm chất hấp phụ trong xử lý nước thải [11,17,20,26,27], khử giấy, mực, làm
chất đầu chế tạo nanocompozit [7,14]…
Sét hữu cơ là sản phẩm của quá trình tương tác giữa sét bentonit và các hợp chất
hữu cơ phân cực hoặc các cation hữu cơ, đặc biệt là các amin bậc 1, bậc 2, bậc 3, bậc
4 có mạch thẳng, nhánh và vòng [9,11,25,31]. Sét hữu cơ có tính chất đặc biệt như ưa
hữu cơ, nhớt, hấp phụ. Do có những tính chất trên mà sét hữu cơ được ứng dụng làm
chất chống sa lắng trong sơn, dầu nhờn, mực in,… và gần đây là điều chế vật liệu
nanocompozit, làm chất hấp phụ các chất hữu cơ và dầu mỏ trong xử lý môi trường
nước [17,20,26,27,30].
Do có nhiều ứng dụng trong các lĩnh vực khác nhau, sét hữu cơ đã và đang được
các nhà khoa học trên thế giới nghiên cứu ngày càng nhiều. Ở Việt Nam có một trữ
lượng khoáng sét dồi dào song mới được khai thác trong phạm vi nhỏ và mới được sử
dụng làm vật liệu gốm, vật liệu xây dựng, xử lý môi trường,… mà chưa được nghiên
cứu nhiều để nâng cao tính năng sử dụng. Do đó việc nghiên cứu để sử dụng một
cách có hiệu quả nguồn khoáng sét ở Việt Nam là nhiệm vụ cấp thiết, có ý nghĩa
khoa học và thực tiễn của các nhà khoa học Việt Nam.
Để đóng góp một phần nhỏ vào việc nghiên cứu về bentonit và điều chế sét hữu
cơ từ bentonit ở Việt Nam, trong luận văn này chúng tôi trình bày các kết quả khảo
sát quá trình điều chế sét hữu cơ từ bentonit Bình Thuận hàm lượng MMT >90% với
cetyl trimetyl amoni bromua và dodecyl amoni clorua, sau đó tiến hành xác định cấu
trúc và tính chất của sản phẩm sét hữu cơ điều chế được.
1
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN
1.1. Giới thiệu về bentonit [1,3,4]
Bentonit là loại khoáng sét tự nhiên thành phần chính là montmorilonit (MMT)
vì vậy nó còn có tên là MMT. Công thức đơn giản nhất của MMT là
Al
2
O
3
.4SiO
2
.nH
2
O ứng với nửa tế bào đơn vị cấu trúc. Trong trường hợp lí tưởng,
công thức của MMT là Si
8
Al
4
O
20
(OH)
4
ứng với một đơn vị cấu trúc. Tuy nhiên thành
phần của MMT luôn khác với thành phần biểu diễn lý thuyết do có sự thay thế đồng
hình của ion kim loại Al
3+
, Fe
3+
, Fe
2+
, Mg
2+
… với ion Si
4+
trong tứ diện SiO
4
và Al
3+
trong bát diện AlO
6
. Như vậy thành phần hóa học của MMT ngoài sự có mặt của Si
và Al còn thấy các nguyên tố khác như Fe, Zn, Mg, Na, K… trong đó tỷ lệ Al
2
O
3
:
SiO
2
từ 1: 2 đến 1: 4 [1,3-6].
Ngoài thành phần chính là MMT, trong bentonit còn chứa một số khoáng sét
khác như hectorit, saponit, beidelit, nontronit,… và một số khoáng phi sét như canxit,
pirit, manhetit, một số muối kim loại kiềm khác và hợp chất hữu cơ.
1.1.1. Cấu trúc của bentonit
Cấu trúc không gian mạng lưới của montmorilonit được trình bày trên hình 1.
Hình 1.1. Cấu trúc không gian mạng lưới của montmorilonit
2
Trong trường hợp lý tưởng, các nguyên tử Si nằm ở tâm của các tứ diện, còn các
nguyên tử Al nằm ở tâm các bát diện của MMT. Do MMT có cấu trúc 2:1 dạng diocta
nên cấu trúc lớp của MMT đã được hình thành từ hai lá tứ diện liên kết với một lá bát
diện ở giữa tạo nên một lớp aluminosilicat. Giữa các lớp aluminosilicat là các cation
có khả năng trao đổi bị hydrat hóa. Khoảng cách giữa các lớp trong cấu trúc cơ bản
của MMT là 9,6Å, khoảng cách này bị thay đổi ít hay nhiều tùy thuộc vào số lượng,
bản chất các cation trao đổi và lượng nước bị hấp phụ, thường có thể đến 15Å.
Sơ đồ cấu trúc không gian mạng lưới của MMT ở hình 1.1 là cấu trúc trung hòa
điện. Nếu Si
4+
ở tâm tứ diện hay Al
3+
ở tâm bát diện bị thay thế đồng hình bởi các
cation dương có điện tích nhỏ hơn thì các mạng lưới đó tích điện âm. Điện tích âm
của mạng lưới sẽ được bù trừ bằng các cation mang điện tích dương như Na
+
, K
+
,
Ca
2+
, Fe
2+
, Mg
2+
... ở khoảng không gian giữa các lớp. Các cation này có khả năng trao
đổi với các cation kim loại hoặc cation hữu cơ khác. Như vậy dung lượng trao đổi
cation của MMT tương đương với điện tích của các lớp.
1.1.2. Tính chất của bentonit
1.1.2.1. Tính chất trao đổi ion [10]
Đặc trưng cơ bản của bentonit là khả năng trao đổi ion do trên bề mặt của các
lớp sét có các trung tâm (O, OH) mang điện tích âm có khả năng hấp phụ và trao đổi
cation. Đồng thời, tính chất đó có được là do sự thay thế đồng hình của các cation. Ví
dụ như khi Si
4+
trong mạng tứ diện bị thay thế bởi Al
3+
hoặc Fe
3+
, hoặc Al
3+
trong
mạng bát diện bị thay thế bởi Mg
2+
, Fe
3+
, Cr
3+
, Zn
2+
..., thì sự thay thế các ion điện tích
cao này bằng các ion điện tích thấp hơn sẽ gây ra sự thiếu hụt điện tích dương trong
cấu trúc tứ diện và bát diện tạo ra điện tích âm trên bề mặt phiến sét.
Đối với bentonit, sự thay thế đồng hình chủ yếu xảy ra trong lớp bát diện, ở
giữa hai lớp tứ diện của phiến sét. Do đó liên kết của cation với bề mặt lớp sét là liên
kết yếu và các cation đó có thể bị thay thế bởi các cation khác. Khả năng trao đổi
mạnh hay yếu phụ thuộc vào lượng điện tích âm bề mặt và số lượng ion trao đổi. Nếu
3
số lượng điện tích âm càng lớn, số lượng cation trao đổi càng lớn thì dung lượng trao
đổi càng lớn.
Khả năng trao đổi ion của lớp aluminosilicat còn phụ thuộc vào điện tích và bán
kính ion của cation trao đổi. Cation có điện tích thấp dễ trao đổi hơn cation có điện
tích cao:
Me
+
> Me
2+
> Me
3+
Đối với cation cùng điện tích, bán kính ion càng nhỏ thì khả năng trao đổi càng
lớn, có thể sắp xếp theo trật tự sau:
Li
+
> Na
+
> K
+
> Cu
2+
> Fe
2+
> Al
3+
Tuy nhiên khả năng trao đổi của bentonit chủ yếu vẫn phụ thuộc vào điện tích
âm bề mặt và điện tích âm trong mạng lưới. Bề mặt của bentonit gồm bề mặt trong và
bề mặt ngoài. Khả năng trao đổi ion bề mặt ngoài phản ánh kích thước hạt tinh thể,
phụ thuộc vào sự đứt gãy liên kết và khuyết tật bề mặt. Kích thước hạt càng nhỏ thì
khả năng trao đổi càng lớn. Khả năng trao đổi ion bề mặt trong phản ánh lượng điện
tích âm trên mạng lưới và khả năng hấp phụ của bentonit. Nó phụ thuộc vào lượng
cation bù trừ trong mạng lưới. Số lượng cation càng lớn thì khả năng trao đổi càng
lớn. Dung lượng cation trao đổi dao động từ 80 đến 150 meq/100g. Dung lượng trao
đổi anion dao động từ 15 đến 40 meq/100g.
Sự trao đổi ion của bentonit còn liên quan đến sự thay thế các nguyên tử hyđro
trong các nhóm hyđroxyl của montmorilonit. Theo một số nghiên cứu thì ở đỉnh của
các tứ diện SiO
2
hướng ra ngoài của lớp cấu trúc, các nguyên tử oxi được thay thế bởi
các nhóm hiđroxyl và các nhóm này đảm nhiệm việc duy trì liên kết yếu giữa các lớp
và góp phần vào sự cân bằng điện tích. Ngoài ra trong cấu trúc của bentonit còn có
các nhóm hiđroxyl khác nằm ở đỉnh các bát diện. Trong sáu đỉnh của bát diện có hai
đỉnh là nhóm OH còn bốn đỉnh kia là oxi, trong đó nhóm hiđroxyl của liên kết Si –
OH không có khả năng trao đổi hiđro. Nhóm hiđroxyl của liên kết Al – OH có tính
axit yếu nên khả năng trao đổi yếu. Nhóm Si – O –Al có tính trao đổi mạnh nên có
tính quyết định đến trao đổi cation H
+
.
4
1.1.2.2. Tính chất trương nở [9,37]
Khi nước, các phân tử phân cực hoặc các cation bị hấp phụ vào khe trống giữa
các lớp sẽ làm tăng chiều dày lớp cấu trúc, tính chất này gọi là tính chất trương nở.
Mức độ trương nở phụ thuộc vào bản chất khoáng sét, cation trao đổi, sự thay thế
đồng hình của các ion trong các lớp và sự có mặt của các ion, các phân tử phân cực
trong môi trường phân tán. Lượng nước được hấp phụ vào giữa các lớp sét phụ thuộc
vào khả năng hydrat hóa của các cation trao đổi.
Khi bentonit hấp phụ hơi nước hay tiếp xúc với nước, các phân tử nước phân
cực sẽ thâm nhập vào bên trong các lớp, làm khoảng cách này tăng lên ít nhất 14÷15Å
tùy thuộc vào loại bentonit và lượng nước bị hấp phụ. Sự tăng khoảng cách d
001
được
giải thích là do sự hydrat hóa của các cation giữa các lớp.
Độ trương nở của bentonit phụ thuộc vào bản chất cation trao đổi trên bề mặt
lớp sét. Ví dụ, ion Na
+
với điện tích +1 có thể liên kết với một tâm tích điện âm trên
mặt lớp sét. Do vậy khi bị hyđrat hóa, bentonit Na có khả năng trương nở từ khoảng
cách ban đầu giữa 2 phiến sét là từ 9,2Å đến ít nhất 17Å. Trong môi trường kiềm
bentonit-Na bị hiđrat hóa mạnh hơn, lớp nước hấp phụ tăng mạnh. Do vậy trong môi
trường kiềm, huyền phù bentonit-Na rất bền vững.
Cation Ca
2+
liên kết với 2 tâm tích điện âm trên 2 phiến sét do vậy khi bentonit-
Ca bị hydrat hóa, khoảng cách giữa 2 phiến sét chỉ tăng từ 12,1Å đến 17Å. Điều này
hạn chế sự trương nở hay khả năng tạo độ nhớt của bentonit-Ca. Độ trương nở của
bentonit-Ca từ 100 đến 150%, đối với bentonit-Na độ trương nở lớn hơn.
1.1.2.3. Tính hấp phụ [1,7]
Tính chất hấp phụ của bentonit được quyết định bởi đặc tính bề mặt và cấu trúc
lớp của chúng. Với kích thước hạt nhỏ hơn 2µm và có cấu trúc mạng tinh thể dạng
lớp nên bentonit có bề mặt riêng lớn. Diện tích bề mặt của bentonit gồm diện tích bề
mặt ngoài và diện tích bề mặt trong. Diện tích bề mặt trong được xác định bởi bề mặt
của khoảng không gian giữa các lớp trong cấu trúc tinh thể. Bề mặt ngoài phụ thuộc
vào kích thước hạt. Sự hấp phụ bề mặt trong của bentonit có thể xảy ra với chất bị
5
hấp phụ là các ion vô cơ, các chất hữu cơ ở dạng ion hoặc chất hữu cơ phân cực. Các
chất hữu cơ phân cực có kích thước và khối lượng nhỏ bị hấp phụ bằng cách tạo liên
kết trực tiếp với các cation trao đổi nằm giữa các lớp hoặc liên kết với các cation đó
qua liên kết với nước hoặc liên kết với các trung tâm mang điện tích trên bề mặt các
lớp sét. Nếu các chất hữu cơ phân cực có kích thước và khối lượng phân tử lớn,
chúng có thể kết hợp trực tiếp vào vị trí oxi đáy của tứ diện trong mạng lưới tinh thể
bằng lực Van der Walls hoặc liên kết hiđro. Sự hấp phụ các chất hữu cơ không phân
cực, các polime và đặc biệt là vi khuẩn chỉ xảy ra trên bề mặt ngoài của bentonit
[5,6].
Do bentonit có cấu trúc lớp và độ phân tán cao nên có cấu trúc xốp phức tạp và
bề mặt riêng lớn. Cấu trúc xốp ảnh hưởng rất lớn đến tính chất hấp phụ của các
khoáng sét, đặc trưng của nó là tính chọn lọc đối với chất bị hấp phụ. Chỉ có phân tử
nào có đường kính đủ nhỏ so với lỗ xốp thì mới chui vào được. Dựa vào điều này
người ta có thể dùng bentonit hoạt hóa làm vật liệu tách chất. Đây cũng là một điểm
khác nhau giữa bentonit và các chất hấp phụ khác.
1.1.2.4. Tính kết dính
Khi trộn với nước, bentonit sẽ có khả năng kết dính mạnh nên từ thời xa xưa con
người đã biết sử dụng loại sét này để nặn thành các vật dụng nhằm mục đích phục vụ
đời sống. Lợi dụng tính chất kết dính này, trong các xưởng đúc gang, bentonit được
dùng làm chất kết dính để vê quặng bột thành viên trước khi đưa vào lò nung, hoặc
làm chất kết dính trong khuôn cát để đúc.
1.1.2.5. Tính trơ
Bentonit trơ và bền hóa học nên không độc, có thể ăn được. Người ta dùng
bentonit làm chất độn trong dược phẩm, thức ăn gia súc, mỹ phẩm, làm chất lọc sạch
và tẩy màu cho bia, rượu vang và mật ong...
1.1.2.6. Tính nhớt và dẻo
6
Do có cấu trúc lớp, có độ xốp cao, có khả năng trương nở mạnh trong nước nên
bentonit có tính nhớt và dẻo. Do có các tính chất này mà bentonit được sử dụng làm
phụ gia bôi trơn mũi khoan, gia cố thành của lỗ khoan, làm phụ gia trong xi măng
Portland, chế vữa và chất dính kết đặc biệt.
1.1.3. Ứng dụng của bentonit
1.1.3.1. Làm chất xúc tác trong các quá trình tổng hợp hữu cơ [1,10,12,28]
Do có độ axit cao nên bentonit có thể được dùng làm chất xúc tác trong các
phản ứng hữu cơ. Bề mặt của bentonit mang điện tích âm do sự thay thế đồng hình
của các ion Si
4+
bằng ion Al
3+
ở tâm tứ diện và ion Mg
2+
thay thế ion Al
3+
ở tâm bát
diện. Các ion thay thế Al
3+
, Mg
2+
có khả năng cho điện tử nếu tại đó điện tích âm của
chúng không được bù trừ bởi các ion dương. Do vậy tâm axit Lewis được tạo thành
từ ion Al
3+
và ion Mg
2+
ở các đỉnh, các chỗ gãy nứt và các khuyết tật trên bề mặt
bentonit. Nếu lượng Al
3+
và Mg
2+
tăng lên ở bề mặt bentonit sẽ làm tăng độ axit
Lewis của chúng.
Trên bề mặt bentonit tồn tại các nhóm hiđroxyl. Các nhóm hiđroxyl có khả năng
nhường proton để hình thành trên bề mặt bentonit những tâm axit Bronsted. Số lượng
nhóm hiđroxyl có khả năng tách proton tăng lên sẽ làm tăng độ axit trên bề mặt của
bentonit.
Trong các vật liệu sét chống (pillared clays), giữa cột chống và các lớp
aluminosilicat của bentonit có những liên kết cộng hóa trị thực sự. Các liên kết này
dẫn đến sự giải phóng các phân tử nước và proton làm tăng độ axit và bền hóa cấu
trúc của bentonit chống.
Việc biến tính bentonit bằng phương pháp trao đổi cation kim loại đa hóa trị
như Ti
4+
, Zr
4+
, Al
3+
, Si
4+
,... tạo ra vật liệu sét chống có độ axit và độ xốp cao hơn, có
khả năng xúc tác cho một số phản ứng hữu cơ. Ví dụ; việc sử dụng sét chống làm
chất xúc tác axit rắn trong phản ứng hữu cơ ở pha lỏng thuận lợi hơn nhiều so với
axit lỏng. Sau khi kết thúc phản ứng chỉ cần lọc hỗn hợp phản ứng có thể tách chất
xúc tác rắn ra khỏi hỗn hợp phản ứng.
7
Ngoài ra, do bentonit có khả năng hấp phụ cao nên có thể hấp phụ các chất xúc
tác trên bề mặt trong giữa các lớp. Vì vậy, bentonit được sử dụng làm chất mang xúc
tác cho nhiều phản ứng tổng hợp hữu cơ.
1.1.3.2. Làm vật liệu hấp phụ [18]
Bentonit được dùng rộng rãi làm chất hấp phụ trong nhiều ngành công nghiệp.
Trong công nghiệp lọc dầu, lượng bentonit được sử dụng với lượng rất lớn, bao gồm
bentonit tự nhiên và bentonit đã hoạt hóa. Lượng bentonit tự nhiên tiêu tốn cho quá
trình lọc dầu là 25% khối lượng dầu và lượng bentonit đã hoạt hóa bằng 10% khối
lượng dầu. Việc sử dụng bentonit làm chất hấp phụ ưu việt hơn hẳn phương pháp cũ
là phương pháp rửa kiềm. Lượng bentonit mất đi trong quá trình tinh chế chỉ bằng
0,5% lượng dầu được tinh chế. Ngoài ra, phương pháp dùng bentonit còn có mức hao
phí dầu thấp do tránh được phản ứng thủy phân.
Trong công nghiệp hóa than, bentonit được sử dụng để tinh chế benzen thô và
các bán sản phẩm khác.
Với tư cách là một chất hấp phụ đặc biệt tốt, bentonit có thể tạo ra các dung dịch
khoan với chất lượng đặc biệt cao và chi phí nguyên liệu thấp. Vì thế, cùng với sự
phát triển của ngành thăm dò và khai thác dầu, lượng bentonit được sử dụng trong
việc chế tạo dung dịch khoan ngày càng tăng. Ngày nay ở Mỹ, lượng bentonit được
sử dụng làm dung dịch khoan chiếm tới 40% tổng sản lượng bentonit của nước này.
Các chức năng quan trọng của bentonit trong dung dịch khoan là:
+ Làm tăng khả năng lưu chuyển của dung dịch khoan do có độ nhớt cao ngay
cả khi nồng độ chất rắn thấp.
+ Tạo huyền phù với các tác nhân và mùn khoan gây lắng khi ngừng lưu chuyển
dung dịch khoan vì một lí do nào đó.
+ Ngăn cản sự mất dung dịch vào các tầng có áp suất thấp, thấm nước nhờ việc
tạo nên lớp bánh lọc không thấm nước trên thành lỗ khoan. Lớp bánh lọc này không
8
chỉ ngăn khỏi bị mất dung dịch mà còn có tác dụng như một cái màng cứng làm bền
thành lỗ khoan.
Ngoài ra, do có khả năng hấp phụ tốt nên bentonit còn được sử dụng làm chất
hấp phụ các chất hữu cơ và dầu mỏ trong xử lý môi trường…
1.1.3.3. Làm vật liệu điều chế sét hữu cơ và nanocompozit [4,13]
Gần đây với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ nano, nhiều ngành công
nghiệp đã sử dụng bentonit ngày càng nhiều. Công nghệ nano sử dụng sét hữu cơ trộn
với các chất khác để chế tạo ra các vật liệu mới. Ví dụ, sét hữu cơ được trộn với các
polime để chế tạo các nanocompozit, gọi là composit-nano-bentonit. Các polime có
thể được trộn thêm các hạt nanobentonit khi được kéo thành màng sẽ cho màng kín
hơn rất nhiều so với polime không trộn vì khi kéo, cán, các lá nanobentonit này nằm
song song với bề mặt, có khả năng ngăn cản hiệu quả nhiều loại phân tử đi qua. Các
hạt nanobentonit này trộn với polime không những kín mà còn bền hơn nhiều, do đó
đáp ứng yêu cầu làm các ống mềm để truyền dẫn thuốc, dẫn máu trong y tế.
1.1.3.4. Dùng trong một số lĩnh vực khác
Một lượng lớn bentonit đã được sử dụng làm chất độn trong công nghiệp sản
xuất vật liệu tổng hợp (xà phòng, vải sợi...). Đặc biệt trong công nghiệp sản xuất
giấy, việc trộn thêm bentonit làm tăng hàm lượng cao lanh, giảm lượng xenlulo cần
có trong giấy, làm tăng đáng kể chất lượng và giảm giá thành của giấy.
Trong công nghiệp bia, rượu, bentonit hấp phụ các chất hữu cơ, các chất béo,
các sản phẩm phụ không mong muốn trong quá trình lên men, đồng thời hấp phụ cả
ion sắt, đồng và các tác nhân gây bệnh của rượu, lại không làm mất hương vị của
rượu, bia.
Bentonit còn được sử dụng làm sạch nguồn nước mặt. Do bentonit làm kết tủa
các vẩn đục, hấp phụ các ion gây độc, một lượng lớn vi khuẩn gây bệnh và chất hữu
cơ có trong nước với giá thành tương đối rẻ.
9
Do có đặc tính trơ, không độc hại nên bentonit còn được dùng làm phụ gia trong
thuốc tiêu hóa thức ăn và giúp điều tiết axit cho động vật, làm phụ gia dược phẩm.
1.1.4. Làm giàu, làm sạch bentonit
10
Các mỏ bentonit kiềm trên thế giới thường có hàm lượng MMT cao, nên các
công trình nghiên cứu về làm giàu, làm sạch bentonit kiềm để nâng cao hàm lượng
MMT-Na của các tác giả trên thế giới không nhiều. Đối với những mỏ bentonit kiềm
có hàm lượng MMT cao như bentonit kiềm Wyoming (Mỹ) người ta có thể trực tiếp
sử dụng mà không cần qua giai đoạn làm giàu, hoặc biến tính nó để thu được sản
phẩm cho những mục đích khác nhau.
Tuy nhiên đối với loại quặng bentonit có hàm lượng MMT thấp - như bentonit
Tuy Phong, Bình Thuận của Việt Nam, người ta phải sử dụng phương pháp tuyển
trọng lực như của các tác giả ở công trình [2] hoặc phương pháp ướt như của các tác
giả ở Mỹ ở các công trình [3,4]. Theo phương pháp này, bentonit được pha với nước
theo một tỷ lệ thích hợp. Sử dụng chất phân tán Na(PO
3
)
6
để làm lắng các khoáng phi
sét theo nhiều giai đoạn, sau đó huyền phù mịn được lọc, sấy khô và nghiền mịn để
thu sản phẩm. Một số tác giả khác sử dụng phương pháp tuyển thủy xyclon, xử lý
nhiệt và hóa học để nâng cao hàm lượng MMT trong bentonit.
11
Trên thế giới số lượng khoáng bentonit kiềm thổ (chứa các cation Ca
+2
, Mg
+2
,
…) với hàm lượng MMT cao tương đối nhiều, nhưng dạng bentonit kiềm lại mang lại
nhiều ứng dụng hơn trong nhiều lĩnh vực, vì vậy đã có rất nhiều nghiên cứu để
chuyển hóa bentonit kiềm thổ về dạng bentonit kiềm. Những nghiên cứu này đã có từ
trước những năm 1950 tại nhiều nước như Mỹ, Liên Xô cũ, ...[1,2,...]. Ngày nay công
nghệ chuyển hóa bentonit kiềm thổ sang dạng bentonit kiềm đã được đưa vào nhiều
nhà máy vận hành và sản xuất ra hàng trăm nghìn tấn sản phẩm cho những lĩnh vực
khác nhau, như ở Hàn Quốc mỗi năm sản xuất hơn 800 nghìn tấn sản phẩm bentonit
hoạt hóa cho những mục đích khác nhau. Phương pháp hoạt hóa để chuyển bentonit
kiềm thổ về dạng bentonit kiềm như sau: quặng bentonit kiềm thổ được phân cấp,
đập, nghiền đến cỡ hạt thích hợp. Sau đó quặng được trộn đều với tác nhân hoạt hóa
(là các muối của natri như Na
2
CO
3
, NaCl, ...) theo một tỷ lệ thích hợp và nung hỗn
hợp trong lò quay với nhiệt độ trong khoảng 300÷500
o
C, sản phẩm hoạt hóa sau đấy
được đóng bao và đưa đi sử dụng. Một điều đáng lưu ý ở đây là quặng bentonit kiềm
thổ trên thế giới thường có hàm lượng MMT cao nên quặng được đưa vào hoạt hóa
ngay mà không qua giai đoạn làm giàu, còn đối với quặng bentonit kiềm thổ Di Linh-
Lâm Đồng của chúng ta, do hàm lượng MMT không cao (khoảng 30÷40%) nên để sử
dụng cho một số mục đích chế tạo vật liệu sét hữu cơ thì trước khi hoạt hóa nên làm
giàu quặng để nâng hàm lượng MMT.
Người ta cũng sử dụng các tác nhân hoạt hóa khác như axit vô cơ (H
2
SO
4
,
HNO
3
, HCl) và các chất hữu cơ khác để hoạt hóa bentonit kiềm và bentonit kiềm thổ
nhằm thu nhanh các sản phẩm hoạt hóa cho những mục đích sử dụng khác nhau.
1.1.5. Giới thiệu về bentonit Bình Thuận – Việt Nam
Ở nước ta bentonit được phát hiện ở nhiều nơi: Cổ Định (Thanh Hóa), Di Linh
(Lâm Đồng), Bình Thuận, Mộc Châu v.v... với trữ lượng dồi dào. Trong đó mỏ
bentonit Bình Thuận có trữ lượng lớn hàng trăm triệu tấn, mới được tìm thấy năm
1987.
12
Bình Thuận được đặc trưng bởi khí hậu khô nóng, lượng mưa ít và là nơi phân
bố rộng rãi đá magma giàu kiềm (giàu Na và K). Với những đặc điểm trên bentonit
tạo thành bởi hai quá trình thủy phân và quá trình hấp phụ trao đổi cation. Trữ lượng
có thể khai thác được ở Nha Mé khoảng 42 triệu tấn còn ở thung lũng Vĩnh Hảo
khoảng 33 triệu tấn [6]. Hàm lượng MMT-Na trong sét Bình Thuận khá thấp, khoảng
từ 12% đến 20%. Tạp chất chủ yếu trong khoáng sét là canxit, thạch anh vi tinh thể,
phenspat, cao lanh. Trên bảng 1.1 đưa ra thành phần hóa học của bentonit Bình Thuận
[3,6].
Trong thực tế, tùy theo mục đích sử dụng cho từng lĩnh vực mà đòi hỏi về hàm
lượng montmorilonit cũng khác nhau, như khi dùng làm khuôn đúc trong ngành thép
hoặc để sử dụng trong nông nghiệp thì có thể dùng bentonit nguyên khai hay chỉ qua
khâu xử lý quặng sơ bộ, còn nếu dùng cho mục đích làm chất xúc tác, sử dụng trong
ngành y, dùng để sản xuất sét hữu cơ thì đòi hỏi phải làm sạch, làm giàu bentonit để
nâng hàm lượng montmorilonit trong bentonit lên cao. Có hai phương pháp hoạt hóa
bentonit thường được sử dụng là hoạt hóa bằng kiềm, hoạt hóa bằng axit.
Bảng 1.1. Thành phần hóa học của bentonit Bình Thuận
Thành phần
hóa học
SiO
2
Al
2
O
3
Fe
2
O
3
TiO
2
FeO CaO MgO K
2
O Na
2
O CO
2
Hàm lượng
(% trọng lượng)
68,4 9,26 2,1 0,49 0,48 5,8 1,51 1,26 1,87 3,31
1.2. Giới thiệu về sét hữu cơ [15]
Sét hữu cơ là sản phẩm được tạo thành bởi sự thay thế cation vô cơ trong một số
sét thuộc nhóm smectit có thể trao đổi với cation hữu cơ của nhiều dạng khác nhau.
Cation hữu cơ được sử dụng gồm các cation amoni hữu cơ (bậc 1, bậc 2, bậc 3, bậc 4,
13
mạch thẳng, mạch nhánh, mạch vòng), các aminoaxit, ancol,… trong đó các cation
amoni hữu cơ bậc 4 được dùng phổ biến nhất. Cụ thể là các loại khoáng sét
montmorilonit, beidelit và nontronit đã được chế hóa với các dung dịch muối amoni
hữu cơ khác nhau. Khoáng sét hấp phụ các cation hữu cơ, làm tăng khoảng cách giữa
các lớp so với cùng loại khoáng sét đã được làm bão hòa bởi cation nhỏ hơn như
canxi hoặc hydro. Liên kết của các cation hữu cơ với lớp silicat của montmorilonit
tạo thành một tập hợp hữu cơ - vô cơ, có tính chất đặc biệt là ưa hữu cơ, nên có khả
năng hấp phụ các hợp chất hữu cơ trong môi trường lỏng trội hơn hẳn khiến chúng
trở thành tiềm năng hữu ích trong nhiều ứng dụng.
Các nghiên cứu về tương tác giữa các khoáng sét và các hợp chất hữu cơ đã
được thực hiện từ những năm đầu của thế kỷ XX và tăng lên không ngừng về số
lượng và đa dạng về đề tài. Nghiên cứu sự thâm nhập của các phân tử hữu cơ vào
khoảng cách giữa các lớp của các khoáng sét tự nhiên cũng đã được bắt đầu từ những
năm 20 của thế kỉ XX, sau khi xuất hiện phương pháp nhiễu xạ tia X vào năm 1913.
Một trong những bài báo sớm nhất là của Smith vào năm 1934 đã thông báo về sự
tương tác của khoáng sét với nicotin. Tuy nhiên, việc ứng dụng các khoáng sét làm
vật liệu hấp phụ hữu cơ thì đã được con người thực hiện sớm nhất là khoảng 7.000
năm trước công nguyên.
Hiện nay, ứng dụng quan trọng của các sét hữu cơ là trong lĩnh vực điều chế các
polime nanocompozit. Việc thêm sét hữu cơ vào môi trường polime sẽ làm tăng các
tính chất hóa học, vật lý và cơ học của môi trường và làm giảm giá thành trong một
số trường hợp. Điển hình là sét hữu cơ thay thế các chất độn (fillers) talc hoặc thủy
tinh ở tỷ lệ 3:1. Ví dụ, việc sử dụng 5% sét hữu cơ có thể thay thế cho 15÷50% chất
độn như canxi cacbonat để làm giảm giá thành và làm tăng các tính chất cơ học. Sét
hữu cơ là vật liệu thương mại ưu thế nhất để điều chế các polime nanocompozit,
chiếm khoảng 70% khối lượng đã sử dụng [28].
Sét hữu cơ cũng được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Các ứng dụng
này bao gồm các chất hấp phụ, các tác nhân kiểm soát tính lưu biến trong sơn, dầu
14
mỡ, mỹ phẩm, các sản phẩm chăm sóc dành cho cá nhân, chất lỏng khoan giếng dầu,
làm chất hấp phụ dầu tràn trên biển,...
Trong số các khoáng sét, smectit, đặc biệt là montmorilonit đã được sử dụng
rộng rãi để điều chế các sét hữu cơ vì các tính chất đặc biệt của nó, chẳng hạn như
dung lượng trao đổi ion cao, có khả năng trương nở mạnh, có các tính chất hấp phụ
cao và diện tích bề mặt lớn. Ngoài montmorilonit, các khoáng sét khác cũng đã được
sử dụng, như hectorit (Vougaris và Petridis, 2002), fluoro-hectorit tổng hợp nhân tạo
(Gorassi và các cộng sự, 2003), sepiollit (Akyüz và Akyüz, 2003),...
1.2.1. Cấu trúc của sét hữu cơ [21-24,28]
Sự tương tác của khoáng sét với các hợp chất hữu cơ đã được nhiều nhà khoa
học nghiên cứu. Bản chất của sự tương tác này là hấp phụ các chất hữu cơ phân cực
như ancol và liên kết ion giữa các cation và anion trên bề mặt và ở rìa cạnh của các
lớp sét. Tuy nhiên sự hấp phụ các phân tử hữu cơ lên các trung tâm điện tích dương
phân bố ở bề mặt cạnh và rìa các phiến sét thường rất nhỏ nên ít được xem xét.
Sự hấp phụ các chất hữu cơ phân cực như rượu bậc thấp, glycol và các amin trên
bề mặt phiến sét có chứa các trung tâm mang điện tích âm cũng tương tự như hấp phụ
nước ở cùng một mức năng lượng hấp phụ như nhau. Vì vậy các hợp chất hữu cơ
phân cực khi tiếp xúc với các khoáng sét sẽ dễ dàng đẩy và chiếm chỗ các phân tử
nước nằm ở khoảng không gian giữa 2 lớp sét tạo thành sét hữu cơ.
Các phân tử liên kết yếu với oxi bề mặt của đỉnh tứ diện đơn vị cấu trúc trong
sét bằng lực Van der Walls. Do vậy các phân tử hữu cơ phân cực trên bề mặt lớp sét
rất linh dộng và dễ dàng bị thay thế bằng các phân tử khác.
Sự định hướng của các ion amoni hữu cơ trong các khoáng sét đã lần đầu tiên
được Lagaly và Weiss (1989) đề xuất và được đưa ra trên hình 1.2.
15
Hình 1.2. Các sự định hướng của các ion ankyl amoni trong các khoảng cách giữa
các lớp silicat: a) lớp đơn; b) lớp kép; c) lớp giả tam phân tử; và d), e) sắp xếp kiểu
parafin của các ion ankyl amoni với góc nghiêng khác nhau của các mạch ankyl.
Sự sắp xếp khác nhau của các phân tử hữu cơ giữa các lớp aluminosilicat phụ
thuộc vào điện tích của lớp sét và độ dài mạch của các ion hữu cơ. Như có thể thấy
trong hình 1.2, các ion hữu cơ có thể nằm song song với nhau trên bề mặt lớp
aluminosilicat để hình thành một lớp đơn, lớp kép hoặc giả tam phân tử. Bên cạnh đó
một cấu trúc nghiêng kiểu parafin với các đuôi chìa ra xa khỏi bề mặt có thể được
hình thành phụ thuộc vào mật độ sắp xếp và độ dài mạch. Trong các lớp giả tam phân
tử, một số đuôi mạch cacbon có thể chuyển vị trí lên một lớp khác, vì vậy sự giãn
cách được xác định bằng độ dày của ba mạch ankyl ([Lagaly và Weiss, 1969],
[Lagaly, 1981], [Lagaly, 1986] và [Bergaya và các cộng sự. 2006]).
Sự hình thành các lớp đơn, lớp kép và lớp giả tam phân tử của các ion ankyl
amoni giữa các lớp aluminosilicat của montmorilonit đã được Lagaly và các cộng sự
(1976) nghiên cứu. Khoảng cách giữa các lớp aluminosilicat của montmorilonit chứa
ankyl amoni thay đổi theo độ dài của ankyl amoni (hình 1.3).
16
Hình 1.3. Sự thay đổi khoảng cách giữa các lớp aluminosilicat của montmorilonit
chứa ankyl amoni theo độ dài mạch cacbon (n
c
) do sự tạo thành các lớp đơn, các lớp
kép, và các lớp giả tam phân tử của các ion ankyl amoni
Cấu trúc lớp đơn được đặc trưng bởi khoảng cách giữa các lớp aluminosilicat
vào khoảng 1,35nm. Sự hình thành cấu trúc lớp đơn là có thể nếu A
c
(=), là diện tích
đòi hỏi cho các cation sắp xếp nằm dọc theo lớp với n
c
nguyên tử cacbon trong mạch,
trở nên lớn hơn so với diện tích đương lượng A
e
, là diện tích có thể sử dụng được đối
với mỗi cation có hóa trị 1 trong một lớp đơn ở giữa hai lớp silicat. Nếu như
A
c
(=) > A
e
, thì phần cuối của các mạch ankyl sẽ bắt buộc phải nằm trong phạm vi lớp
đơn. Khi xâm phạm giới hạn A
c
(=) = A
e
, các lớp kép của các ion ankyl amoni nằm
phẳng sẽ được hình thành với các khoảng không cơ sở khoảng 1,75 nm. Các cấu trúc
lớp kép không thể tồn tại nếu A
c
(=) > 2A
e
. Vì cấu trúc 3 lớp của các ion ankyl amoni
là rất không bền do sự đẩy điện tích, cấu trúc các mạch ankyl sẽ được hình thành theo
kiểu parafin. Trong cấu trúc theo kiểu parafin, các góc giữa các mạch và lớp silicat
tăng lên khi tăng điện tích lớp. Vì thế, mức độ tăng trung bình của khoảng cách giữa
các lớp aluminosilicat khi tăng độ dài mạch của cation sẽ biến đổi theo mật độ điện
tích của bề mặt lớp (Lagaly và Weiss, 1989).
17
Trong một số trường hợp, các mạch ankyl có xu hướng hình thành cấu trúc theo
kiểu parafin hơn là các lớp giả tam phân tử. Xu hướng này do sự tụ hợp kiểu parafin
khiến các nhóm amoni phù hợp với các nguyên tử oxi trên bề mặt hơn so với trường
hợp các mạch sắp xếp đặc khít trong các lớp giả tam phân tử (Lagaly, 1986). Vi cấu
trúc của các mạch ankyl cũng có thể được mô tả theo thuật ngữ của các vùng vô định
hình và kết tinh tinh thể giống như mô hình hai pha của polime, ở đây sự sắp xếp các
mạch trong vùng vô định hình là thấp hơn khoảng 10÷20% so với trong vùng kết tinh
(Lagaly và các cộng sự 1976).
Vaia và các cộng sự (1994) đã đề nghị một cách mô tả thực tế hơn dựa trên các
thực nghiệm về XRD và FTIR để thăm dò cấu trúc giữa các lớp và cấu trúc pha của
ankyl amoni. Bằng cách theo dõi sự chuyển dịch tần số dao động của nhóm CH
2
(giao
động kéo căng và giao động bắt chéo) như là một hàm số của độ sắp xếp đặc khít
giữa các lớp, độ dài mạch và nhiệt độ, họ phát hiện thấy rằng các phân tử thâm nhập
tồn tại ở các trạng thái với mức độ trật tự khác nhau. Các trạng thái phân tử biến đổi
từ giống pha rắn sang giống pha lỏng.
Sự có mặt của trạng thái mất trật tự có cấu trúc giống với chất lỏng là phổ biến
hơn trong khi một trạng thái có trật tự (cấu hình tất cả đều là trans) chỉ có mặt trong
các trường hợp đặc biệt. Nói chung, khi mật độ sắp xếp giữa các lớp hoặc độ dài
mạch giảm xuống hoặc khi nhiệt độ tăng lên thì các mạch đã thâm nhập sẽ chấp nhận
một cấu trúc giống chất lỏng mất trật tự hơn do sự tăng tỷ số cấu hình gauche/trans.
Khi giá trị diện tích bề mặt/mol nằm trong một khoảng nào đó các chuỗi mạch
ankyl được sắp đặt không hoàn toàn mất trật tự mà giữ lại một vài kiểu sắp đặt có trật
tự và định hướng nhất định, giống với trạng thái tinh thể lỏng. Vì các mạch trong
trạng thái giống với trạng thái lỏng được tự do chuyển động và tái định hướng nên
chúng có thể đạt đến cân bằng nhanh hơn nhiều so với khi chúng ở trong trạng thái
rắn.
18
Hình 1.4 đưa ra các kiểu tập hợp đuôi ankyl đã được Vaia và các cộng sự (1994)
đưa ra. Khi số các nguyên tử cacbon tăng lên thì sự sắp xếp các mạch tuân theo những
cấu trúc có trật tự hơn.
Hình 1.4
. Các cách tập hợp đuôi ankyl được Vaia và các cộng sự (1994) đưa ra: a) độ
dài mạch ngắn, lớp đơn ở bên; b) độ dài mạch trung bình, mất trật tự trong mặt
phẳng và đan vào nhau để hình thành kiểu lớp kép; c) mạch dài: trật tự giữa các lớp
tăng lên dẫn đến tạo thành một môi trường polime tinh thể lỏng.
Hackett và các cộng sự (1998) đã sử dụng sự mô phỏng phân tử để nghiên cứu
các sự định hướng của các đuôi ankyl trong các khoáng sét được biến tính hữu cơ.
Hình 1.5 đưa ra các hình ảnh của các phân tử chất hoạt động bề mặt trên các lớp
aluminosilicat. Sự sắp xếp bền là một lớp đơn với khoảng cách giữa các lớp
aluminosilicat là 1,32nm, trong khi lớp kép và lớp ba thì tương ứng với các khoảng
cách giữa các lớp aluminosilicat là 1,80nm và 2,27nm. Các sự mô phỏng đã chỉ ra
rằng sự sắp xếp mất trật tự của các mạch cacbon ở trạng thái giống với chất lỏng
không nằm phẳng như ở lớp đơn thay vào đó lại quấn vào các mạch trong lớp đối
diện. Trong lớp kép, gần như một nửa số nhóm CH
2
ở trong lớp đối diện với nhóm
amoni, trong khi trong lớp ba các nhóm CH
2
được trông đợi sẽ nhảy vào lớp giữa
nhưng tương đối ít số lượng của nhóm này sẽ được tìm thấy trong lớp đối diện ở cuối
mạch. Khi mật độ cation hữu cơ tăng cao, sự tăng độ dài mạch cacbon làm tăng tuyến
tính khoảng cách giữa các lớp aluminosilicat, thường thì các cấu trúc với khoảng cách
giữa các lớp aluminosilicat có độ sai lệch tối thiểu so với khoảng cách trong các cấu
trúc lớp đơn hoặc lớp kép sẽ được hình thành. Các ankan mạch dài tạo thành các cấu
19
trúc với một sự phân bố rộng rãi của khoảng cách giữa các lớp làm tăng chiều rộng
của các pic XRD, mặc dù khoảng cách giữa các lớp aluminosilicat vẫn rất gần với
một lớp đơn hoặc lớp kép.
Hình 1.5. Mẫu phân tử của các chất hoạt động bề mặt với các độ dài mạch khác
nhau thâm nhập vào trong các sét có dung tích trao đổi cation khác nhau với: a) lớp
đơn (C
9
, CEC = 0,9 meq/g); b) lớp kép (C11, CEC = 1,0 meq/g); c) lớp ba (C19,
CEC = 1,5 meq/g)
Một phương pháp mô tả sự sắp xếp mạch cacbon của chất hoạt động bề mặt là
thông qua số các cấu hình trans và gauche. Số phần trăm cấu hình trans tăng lên một
cách đột ngột có quan hệ mật thiết với độ dài mạch cực đại trước khi hệ thống chuyển
từ lớp đơn sang lớp kép, bởi vì tại điểm này, các phân tử chất hoạt động bề mặt thích
cấu hình tất cả trans hơn để sắp xếp một cách hiệu quả nhất và cung cấp một số cao
nhất các nhóm CH
2
và CH
3
trong phạm vi một lớp đơn.
Liên kết hyđro giữa các phân tử hữu cơ với khoáng sét có thể là quan trọng, đặc
biệt đối với các phân tử có chứa các nhóm OH, NH
2
, và NH
3
(Moore và Reynolds,
1997).
20
Trong đề tài này chúng tôi sử dụng dodecyl ammoni clorua và cetyl trimetyl
amoni bromua làm tác nhân hữu cơ để khuếch tán vào khoảng không giữa các lớp
trong cấu trúc của bentonit.
1.2.2. Tính chất và ứng dụng của sét hữu cơ [17,21,29]
1.2.2.1. Tính chất của sét hữu cơ
* Tính hấp phụ
Trong cấu tạo của sét hữu cơ có các gốc hiđrocacbon là nhóm ưa dầu, mỡ nên
sét hữu cơ có khả năng hấp phụ các chất hữu cơ. Vì vậy đã có nhiều công trình
nghiên cứu sử dụng sét hữu cơ để hấp phụ dầu tràn trên biển, loại bỏ các chất hữu cơ
khỏi môi trường nước.
* Tính lưu biến
Sét hữu cơ có khả năng trương nở tốt trong các dung môi hữu cơ, là chất ưa hữu
cơ. Khi được phân tán vào môi trường là các chất hữu cơ nó làm tăng độ phân tán của
các chất hữu cơ. Do đó được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau như trong làm
chất chống sa lắng trong sơn, trong mực in, làm sạch nước bị ô nhiễm bởi dầu mỡ.
1.2.2.2. Ứng dụng của sét hữu cơ
* Làm chất hấp phụ [25]
Sét hữu cơ có chức năng tương tự như cacbon hoạt tính, nhựa trao đổi ion và
màng lọc để tách dầu/nước. Bột sét ưa dầu có thể là 1 hợp phần hoặc nguyên liệu
chính của bột sét đông tụ. Chúng là chất hấp phụ cực mạnh để loại bỏ dầu, chất hoạt
động bề mặt, và các dung môi, bao gồm metyl etyl xeton, t-butyl ancol (TBA) và các
chất khác.
Do loại bỏ dầu và dầu nhờn ở tỷ lệ thể tích/khối lượng cao, sét ưa hữu cơ có thể
tiết kiệm tới 50% chi phí hoặc hơn. Sét hữu cơ có thể dùng trong pha trộn nhiên liệu
ở nhà máy nhựa đường hoặc làm chất ổn định.
Ứng dụng môi trường của sét ưa hữu cơ bao gồm: làm sạch nước bề mặt ở bãi
rác cũ và hồ chứa nước ngầm. Ứng dụng trong công nghiệp bao gồm máy nén không
khí, làm lạnh nước, máy nén khí.
21
* Làm chất chống sa lắng trong môi trường hữu cơ [25,26]
Khác với bentonit thông thường, sét hữu cơ trương nở và tạo gel trong dung môi
hữu cơ. Nhờ vậy sét hữu cơ ứng dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Ví dụ, trong
công nghiệp dầu khí sét hữu cơ được dùng làm chất tạo cấu trúc cho dung dịch
khoan, trong sơn lưu hóa nhiệt, chất làm sạch dầu trong nhũ tương dầu/nước. Ngoài
ra, sét hữu cơ vừa có khả năng tan trong nước vừa có khả năng tan trong dung môi
hữu cơ nên khi kết hợp với các phần tử trong sơn sẽ tạo huyền phù. Sét hữu cơ có cấu
trúc rất ổn định ngay cả khi trong dung dịch có mặt một lượng lớn các cation kim
loại. Độ bền của các sét hữu cơ chứa các cation amin bậc 4 một phần là do lực Van
der Walls giữa các mạch hiđrocacbon với bề mặt sét. Vì vậy, huyền phù bentonit hữu
cơ trong dầu khá ổn định nhiệt, điều này cho phép sét hữu cơ có ứng dụng trong việc
làm chất chống sa lắng trong môi trường hữu cơ như sơn, dầu, mực in, dầu nhờn…
* Làm nguyên liệu điều chế nanocompozit [7,9,16]
Vật liệu sét hữu cơ có thể cho vào polime, chất dẻo, nhựa để tạo ra vật liệu
nanocompozit có sức bền cấu trúc được nâng cao. Cũng có thể sử dụng sét hữu cơ
làm phụ gia lưu biến như chất ức chế sự cháy. Vật liệu sét stevensit - hữu cơ có tính
chất thuận lợi là dị thể và dễ dàng tạo ra do đó tạo thành sản phẩm cuối. Hơn nữa,
tính chất của vật liệu này là dễ phân tán hơn nhiều, ví dụ trong polime, do sự phân bố
điện tích thích hợp hơn, tính chất kị nước, sự tách lớp, sự sắp xếp và kích thước thích
hợp hơn.
1.2.3. Các phương pháp điều chế sét hữu cơ [32,33,38…]
Quá trình tổng hợp sét hữu cơ dựa trên các cơ chế của các phản ứng mà khoáng
sét có thể có với các hợp chất hữu cơ. Để điều chế sét hữu cơ, người ta thường dùng
hai phương pháp chủ yếu sau:
1.2.3.1. Phương pháp ướt
22
Phương pháp ướt là phương pháp trao đổi giữa cation hữu cơ với bentonit đã
hoạt hóa trong môi trường nước. Có ba phương pháp điều chế sét hữu cơ trên cơ sở
phương pháp ướt:
* Phương pháp khuếch tán trong môi trường nước
Phương pháp này dựa trên sự khuếch tán của các chất hữu cơ và bentonit trong
môi trường nước. Sự khuếch tán được thực hiện nhờ khuấy liên tục hỗn hợp bentonit
và các tác nhân hữu cơ trong môi trường nước ở điều kiện (nhiệt độ, pH, tỷ lệ hữu
cơ/sét,..) nhất định. Ưu điểm của phương pháp này là đơn giản, thực hiện dễ dàng và
chi phí thấp. Đây là phương pháp được sử dụng phổ biến nhất ở Việt Nam cũng như
trên thế giới. Một dạng thiết bị điều chế sét hữu cơ trong phòng thí nghiệm mà chúng
tôi sử dụng để điều chế sét hữu cơ được đưa ra trên hình 1.6.
Hình 1.6. Thiết bị điều chế sét hữu cơ theo phương pháp khuyếch tán trong
nước trong phòng thí nghiệm có dung tích 2 lít và 10 lít
* Phương pháp lò vi sóng
Tương tự phương pháp khuếch tán thì phương pháp lò vi sóng cũng được thực
hiện trong môi trường nước, tuy nhiên phương pháp này dựa trên nguyên tắc sử dụng
vi sóng tác dụng lên hỗn hợp phản ứng và được thực hiện trong lò vi sóng. Ưu điểm
23
của phương pháp này là cho hiệu suất cao hơn phương pháp khuếch tán, tuy nhiên do
chi phí lớn về thiết bị và năng lượng nên phương pháp này chưa được ứng dụng rộng
rãi.
* Phương pháp thủy nhiệt
Trong phương pháp này, quá trình điều chế sét hữu cơ được thực hiện trong thiết
bị thủy nhiệt, để có thể thực hiện phản ứng ở nhiệt độ cao và áp suất cao. Phương
pháp thủy nhiệt có nhiều ưu điểm:
- Cho phép điều chế sản phẩm có tính đồng nhất cao, với thành phần hóa học
được điều chỉnh một cách dễ dàng: quá trình cho phép lấy những lượng chính xác
chất đầu trộn với nhau theo tỷ lệ hóa học của sản phẩm đạt được như mong muốn.
Điều này đặc biệt quan trọng trong việc tổng hợp các vật liệu cao cấp, đòi hỏi tỷ lệ
chính xác của các cấu tử trong vật liệu.
- Cho phép điều chỉnh được tính chất của sản phẩm thông qua điều chỉnh các
điều kiện phản ứng như: pH, nhiệt độ, nồng độ, tốc độ, thời gian của sự thủy phân, sự
kết tinh ảnh hưởng hình thái học, độ lớn và tính chất của các hạt sản phẩm cuối cùng.
Tuy nhiên phương pháp này chưa được sử dụng rộng rãi vì thiết bị sử dụng
trong phương pháp thủy nhiệt rất đắt tiền và dung lượng nhỏ.
1.2.3.2. Phương pháp khô
Theo phương pháp này, phản ứng trao đổi giữa cation với bentonit được thực
hiện bằng cách trộn lẫn chúng trong thiết bị trộn đặc biệt kiểu “warning type blender”
cùng với nhỏ một lượng nhỏ nước và dung môi phân cực không chứa proton như
propylencacbonat, etylencacbonat... Ngoài ra một tác giả đã đề nghị thêm một lượng
nhỏ (< 1%) Na
2
CO
3
vào hỗn hợp để tăng hiệu quả phản ứng.
Các phân tử hữu cơ có thể thâm nhập vào trong các khoáng sét khô bằng phản
ứng pha rắn mà không cần dùng dung môi. Sự vắng mặt các dung môi trong quá trình
điều chế là môi trường tốt và làm cho quá trình điều chế phù hợp hơn với việc công
24
nghiệp hóa. Sự thâm nhập của các hợp chất trung tính vào sét khô montmorilonit và
vermiculit khô là ví dụ không cần thiết phải được giải thích bằng sự vận chuyển
chúng giữa các lớp sét. Các cation có thể duy trì sự tiếp xúc với một lớp sét, nghĩa là
các nguyên tử oxi của bề mặt silicat chiếm cứ các vị trí phối trí của các cation.
Thời gian phản ứng theo phương pháp khô thường ngắn hơn so với phương
pháp ướt. Tuy nhiên trong thực tế nếu sản xuất bentonit hữu cơ theo phương pháp
khô mức độ hấp phụ thay thế bằng các cation hữu cơ chỉ đạt được giá trị cực đại là
80% trên bề mặt lớp sét [34]. Do vậy trong thực tế người ta ít áp dụng phương pháp
khô để sản xuất bentonit hữu cơ.
Trong quá trình nghiên cứu xây dựng quy trình điều chế sét hữu cơ trong phòng
thí nghiệm, chúng tôi đã sử dụng phương pháp khuếch tán trong dung dịch nước vì
phương pháp này dễ thực hiện, trang thiết bị đơn giản và đặc biệt là nó dễ triển khai
với quy mô sản xuất lớn trong thực tế sau này.
1.3. Mục đích và nội dung nghiên cứu của luận văn
1.3.1. Mục đích
Tìm được các điều kiện thích hợp về tỷ lệ chất hữu cơ/bentonit, nhiệt độ huyền
phù, pH huyền phù và thời gian khuấy trộn cho quá trình điều chế sét hữu cơ từ
bentonit Bình Thuận hàm lượng >90% với dodecylamoni clorua và cetyl trimetyl
amoni bromua. Từ đó xây dựng được quy trình chuẩn điều chế sét hữu cơ từ bentonit
Bình Thuận >90% và hai amin trên với quy mô phòng thí nghiệm.
1.3.2. Nội dung nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên chúng tôi sẽ thực hiện những nội dung nghiên
cứu sau:
* Điều chế sét hữu cơ từ bentonit Bình Thuận hàm lượng >90% và cetyl
trimetyl amoni bromua (CTAB)
- Khảo sát ảnh hưởng của tỷ lệ cetyl trimetyl amoni bromua/bentonit
25