Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Luận văn tốt nghiệp: Hợp tác giữa Việt Nam - Liên minh Châu Âu trong lĩnh vực dệt may phần 4 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (69.18 KB, 6 trang )

nhập cho sản phẩm của mình vào thị trờng của nhau, hai bên sẽ
dành cho nhau các điều kiện thuận lợi nhất về nhập khẩu và xuất
khẩu và thoả thuận xem xét cách thức biện pháp nhằm loại bỏ hàng
rào thơng mại giữa hai bên, đặc biệt là hàng rào phi thuế quan
hai bên đã có rất nhiều cuộc gặp gỡ trao đổi nhằm thúc đẩy thơng
mại ngành dệt may
Dựa trên sự phân tích thực trạng thơng mại với EU trong lĩnh vực
dệt may và Hiệp định dệt may Viềt Nam EU giai đoạn 1998- 2000
, hoạt động buôn bán hàng dệt may với EU trong thời gian tới sẽ đợc
tăng cờng theo các hớng sau :
- Mục tiêu cơ bản của ngành dệt may Việt Nam đối với thị trờng
EU vẫn là : phấn đấu nâng cao sản phẩm cải tiến mẫu mã đáp ứng
đợc đúng thị hiếu cuẩ ngời tiêu dùng tạo uy tín để chiếm lĩnh thị
trờng EU tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu , hạn chế việc khai thác
sản phảm bằng hình thức gia công thuần tuý , gia tăng hình thức
mua nguyên vật liệu và bán thành phẩm .
- Việc xuất khẩu vào EU những sản phẩm liệt kê tại phụ lục II(Hiệp
định dệt may Việt Nam EU giai đoạn 1998 2000) đợc tăng
cờng , nhng phải đợc hạn chế tốt số lợng đơc EU ấn định cho
hàng năm . Trong việc phân bố quota xuất khẩu vào EU , các cơ
quan hữu quan của Việt Nam sẽ không phân biệt đối xử với các
công ty do các nhà đầu t EU sở hữu một phần hay toàn bộ đang
hoạt động tại Việt Nam .
- Việc quản lý hạn ngạch xuất khẩu sang thị trờng EU có những
điểm khác biệt so với các năm trớc . Tổng lợng hạn ngạch do EU
ấn định sẽ đợc chia làm 3 phần đợc phân bố cho các doanh
nghiệp xuất khẩu hàng dệt may sang EU làm bằng vải sản xuất
trong nớc , phần còn lại sẽ cho đấu thầu nhằm giảm cơ chế xin
cho và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tự vận động trong cơ chế
thị trờng .
- Trong trờng hợp cần thiết , Liên bộ Thơng mại và Bộ công


nghiệp sẽ sử dụng trớc một phần quota của năm kế tiếp ấn định tại
phụ lục II ( Hiệp định dệt may Việt Nam EU giai đoạn 1993-
1997 ) cho mỗi chủng loại sản phẩm tới mức 5% quota của năm
thực hiện . Tất nhiên , phần sử dụng trớc phải trừ vào lợng quota
ấn định cho năm kế tiếp đó , số lợng quota không sử dụng hết của
năm trớc sẽ đợc chuyển sang cho năm kế tiếp đối với mỗi chủng
loại tới mức 7% quota cụ thể của năm thực hiện .
- Các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm dệt may sang thị trờng EU
đợc phép chuyển giao giữa các chủng loạI 4,5,6,7,8 nhng chỉ giới
hạn ở mức 7% quota của chủng loại đợc chuyển đổi . Có thể
chuyển sang bất kỳ loại nào thuộc các nhóm 2, 3, 4, 5 từ bất kỳ
chủng loại
nào thuộc các nhóm 1, 2, 3, 4, 5 tới mức 7% quota của chủng loại
đợc chuyển tới .

3.3. Các giải pháp nhằm thúc đẩy hợp tác thơng mại Việt Nam-EU
trong lĩnh vực dệt may .

Tăng cờng khai thác thị trờng EU là một trong những mục tiêu của
ngành dệt may Việt Nam góp phàn làm cho ngành dệt may phát huy
vai trò là những công nghiệp xuất khẩu chủ lực . Tuy nhiên qua phân
tích thực trạng thơng mại Việt Nam Eu trong lĩnh vực dệt may cho
thấy quá trình thâm nhập thị trờng EU gập rất nhiều khó khăn . Nời
tiêu Châu Âu rất khó tính đối với hàng may mặc liên kết giữa các quốc
gia Châu Âu rất chặt chẽ cạnh tranh trên thị trờng găy gắt trong khi
khả năng của chúng ta lại có hạn chế : Thiếu vốn , công nghệ lạc hậu
do đó sản phẩm của chúng ta chất lợng cha cao , mẫu mã không
phong phú . Vì vậy ngành dệt may Việt Nam cần phảI có hệ thống biện
pháp phù hợp từ tầm vĩ mô đến vi mô thì mới có thể khai thác đợc thị
trờng EU .


3.3.1.Tăng cờng quan hệ kinh tế đối ngoại :

Trong các thể chế của Liên minh Châu Âu, Uỷ ban Châu Âu là cơ
quan phụ trách kinh tế đối ngoại . Chính vì thế muốn mở rộng quan hệ
với Eu nói chung và trong lĩnh vực dệt may nói riêng, chúng ta cần tăng
cờng quan hệ với Uỷ ban Châu Âu. Mặt khác, để hoà nhập vào thị
trờng EU, đIều quan trọng là chúng ta cần phảI xác định đợc cầu
nối trong quan hệ với EU. Trong tất cả các mối quan hệ giữa chúng ta
với các quốc gia thành viên của EU thì mối quan hệ Việt- Pháp là lâu
dàI và sâu sắc nhất. Với những tiềm năng kinh tế và ảnh hởng của
Pháp trên thị trờng quốc tế, thực sự là cầu nối Việt Nam và EU.
Pháp có ảnh hởng lớn lạI nằm trong nhiều khối liên minh, vì vậy,
chúng ta cần có các mối quan hệ Việt- Pháp ngày càng có hiệu quả
hơn. Bên cạnh đó, chúng ta cũng phảI có những chính sách riêng đối
với Pháp.
Một cầu nối khác không kém phần quan trọng là thông qua
ASEAN. Với t cách là một thành viên đầy đủ ASEAN, chúng ta cần
khai thác những lợi ích của các phơng tiện và các hoạt động hợp tác
trong khuôn khổ hợp tác EU-ASEAN. NgoàI ra, để hàng dệt may Việt
Nam có đủ sức cành tranh với các đối thủ khác thị trờng EU, Việt
Nam cần xúc tiến mạnh mẽ việc gia nhập WTO, đặc biệt là khi Hiệp
định đa sợi đã đợc thay thế bằng Hiệp định về hàng dệt may. Để thấy
đợc sự cần thiết của việc gia nhập WTO đối với hoạt động xuất khẩu
hàng dệt may sang thị trờng EU.
Theo MFA, các nớc nhập khẩu có thể thông qua các thoả thuận
song phơng hoặc trong trờng hợp không đI đến thoả thuận song
phơng có thể đơn phơng thiết lập hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt may
đối với từng nớc xuất khẩu và mức tăng của hạn ngạch thay đổi tuỳ
theo mỗi nớc. Nh vậy, MFA đIều tiết buôn bán hàng dệt may không

tuân thủ nguyên tắc không phân biệt đối xử và loạI bỏ hạn chế số lợng
của GATT.
Ngời ta cho rằng MFA đã làm biến dạng hình thức buôn bán và
sản xuất các sản phẩm dệt may, các nớc đợc hởng lợi trong buôn
bán quốc tế hàng dệt may là các nớc công nghiệp phát triển.
Năm 1994, trong khuôn khổ vòng đàm phán Urugoay của WTO.
Hiệp định về hàng dệt may (ATC) ra đời. Theo ATC hàng dệt may sẽ
đợc hội nhập dần dần theo các quy tắc thông thờng của GATT, chấm
dứt trờng hợp ngoạI lệ trong kinh doanh các sản phẩm dệt may nh
quy định của MFA. Các thoả thuận về hạn chế số lợng trớc đây giữa
các nớc xuất khẩu và nhập khẩu sẽ đợc hạn chế loạI bỏ dần dần, thời
gian cho việc này kéo dàI trong 10 năm, đợc chia thành các giai đoạn:
Từ ngày 1/1/1995 đến 31/12/1997: 16% tổng khối lợng hàng dệt may
nhập khẩu trong năm 1990, sẽ không bị hạn chế về số lợng trong buôn
bán hàng dệt may giữa các nớc xuất khẩu và nhập khẩu. Từ ngày
1/1/1998 đến 31/12/2000, tơng tự là 17%. Từ 1/1/2001 đến
31/12/2004 là 18%. Từ 1/1/2005 là tất cả các số lợng hàng còn lại.
Trong từng giai đoạn, mỗi nớc nhập khẩu có quyền chọn bất kì
một sản phẩm nào trong 4 loạI: sợi, vảI, sản phẩm dệt và quần áo may
sẵn để đa vào danh mục buôn bán không hạn chế số lợng. Đối với
những sản phẩm buôn bán , theo hạn chế về số lợng các nớc áp dụng
phảI chứng minh đợc các sản phẩm này đang làm thiệt hạI nghiêm
trọng đến sản xuất các sản phẩm tợng tự ở trong nớc. ACT là một kết
quả rất quan trọng của vòng đàm phán Urugoay. Hiệp định ACT sẽ làm
tăng khả năng tiếp cận thị trờng nớc ngoàI cho các nhà sản xuất hàng
dệt may, hứa hẹn tăng việc làm và cơ hội kinh doanh cho các nớc
đang phát triển. Chính vì thế, Việt Nam cần xúc tiến việc gia nhập
WTO để đợc hởng các tiến bộ của ATC và có đủ sức cạnh tranh với
các đối thủ khác trên thị trờng EU.


3.3.2. CảI cách hệ thống để đẩy mạnh xuất khẩu.

Việc áp dụng thuế giá trị gia tăng thay cho thuế doanh thu vừa qua
của Nhà nớc đã tạo ra một môI trờng bình đẳng giữa các doanh
nghiệp. Thuế doanh thu đánh trùng lặp nhiều lần đối với giá trị sản
phẩm. Ví dụ, doanh nghiệp may phảI chịu thuế doanh thu trên giá trị
mà doanh nghiệp phảI từ doanh nghiệp khác để sản xuất, trong khi đó,
phân xởng may của một doanh nghiệp dệt dùng vảI của doanh nghiệp
mình thì không phảI tính thuế. Do đó, nhiều doanh nghiệp dệt đã mở
thêm phân xởng may ngoàI mục đích tạo công ăn việc làm cho công
nhân còn vì lí do tránh bị đánh thuế trùng lặp nh doanh nghiệp may.
Vì vậy chi phí sản phẩm may mặc của doanh nghiệp may cao hơn phân
xởng may của doanh nghiệp dệt, gây ra tình trạng cạnh tranh không
bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Khi áp dụng thuế giá trị gia tăng thì
khắc phục đợc đIều này, chi phí sản xuất của các doanh nghiệp sẽ
giảm do nỗ lực của từng doanh nghiệp chứ không phảI do cơ chế tính
thuế.
Tuy nhiên chính sách thuế đối với sản phẩm dệt may của chúng ta
cũng còn rất nhiều bất cập. Cách đánh thuế vào nguyên liệu là một
trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trong kim ngạch xuất
khẩu hàng dệt may Việt Nam sang EU, tỉ lệ sản phẩm gia công chiếm
80%. Đối với doanh nghiệp may, nếu dùng vảI nội, phảI bỏ vốn ra để
mua vảI vừa phảI chịu mấy lần tính thuế ( thuế sợi, vảI mộc, vảI thành
phẩm), còn trong phơng pháp gia công, hiện nay doanh nghiệp may
dùng tất cả các nguyên liệu phụ của đối tác EU và không phảI chịu
thuế (tạm nhập, táI xuất).
Trớc tình hình đó, nên miễn giảm thuế cho các sản phẩm dùng
nguyên liệu trong nớc giảm thuế với vảI sản xuất bằng thiết bị mới
NgoàI ra cần phảI xem xét lạI thời hạn 90 ngày đối với nhập nguyên
vật liệu và táI xuất của ngành may. Bởi lẽ từ khâu kí kết hợp đồng, mua

nguyên liệu, sản xuất và xuất khẩu khó thực hiện trong thời gian đó,
tuy nhiên nếu kéo dàI thời hạn với hàng tạm nhập và táI xuất thì nớc
có thể bị thất thu về thuế nhng thời hạn này cũng phảI đủ để không
gây khó khăng cho các doanh nghiệp gia công. Theo các chuyên gia thì
thời hạn lí tởng là t 120 ngày đến 180 ngày.

3.3.3. Đẩy mạnh phát triển nguyên liệu trong nớc.

Để thực hiện đợc mục tiêu về diện tích và sản lợng các loạI
nguyên liệu. Đến năm 2010, diện tích trồng bông là 100.000 hécta, dâu
tằm là 40.000 hecta, sản lợng bông xơ là 60.000 tấn, trong khi diện
tích trồng các loạI cây nguyên liệu này đang có sự suy giảm nghiêm
trọng năng suất thấp do không có giống mới, thiết bị cộng nghệ để thu
hoạch và chế biến lạc hậu thì quả là khó khăn. Để mục tiêu này mang
tính khả thi, Tổng công ty dệt may Việt Nam cần phối hợp các bộ
ngành tổ chức hội nghị với các địa phơng để xác định quỹ đất thực có
cho sự phát triển của cây bông, cây dâu nhằm gắn kết quy hoạch ngành
với quy hoạc vùng lãnh thổ, xây dựng và đIều hành kế hoạch giữa bông
nhập khẩu và bông sản xuất trong nớc.
Nhà nớc cần phảI có những chính sách tiến dụng u đãI để tạo
nguồn vốn cho ngời nông dân để họ đầu t cho giống mới và các máy
móc thiết bị trong khâu thu hoạch. Mặt khác, các doanh nghiệp dệt cần
có kế hoạch thu mua bông, tơ cụ thể nhằm đảm bảo sự ổn định giá cả
và thị trờng cho ngời sản xuất. NgoàI ra cho đến năm 2005, nhu cầu
về tơ sợi tổng hợp cũng rất lớn: xơ PE 90.000 tấn, sợi PETEX hơn 1000
tấn trong khi đó cho tới nay mới chỉ có nhà máy dệt Hualon do
Malaysia đầu t ở Đồng Nai sản xuất đợc tơ sợi tổng hợp và khi nhà
máy lọc dầu Dung Quất đI vào hoạt động thì việc sản xuất xơ PE có
triển vọng. Nhng nhìn chung vẫn rất thấp, chính vì thế chúng ta cần
phảI có những biện pháp để thu hút vốn đầu t vào lĩnh vực này.


3.3.4. Nghiên cứu triển khai và đào tạo nhân lực.

Biện pháp này chú trọng đến các hớng chính sau:
+ Chú trọng công tác đào tạo cán bộ quản lí, kĩ thuật và công nhân
lành nghề. Lập kế hoạch và triển khai việc đào tạo lạI và cập nhập
thông tin cho các cán bộ chủ chốt. Có cơ chế gắn kết Viện- Trờng-
Doanh nghiệp trong nghiên cứu- đào tạo và triển khai một cách có
hiệu quả.
+ Củng cố Viện mẫu thời trang thành một cộng cụ mạnh và nghiên
cứu ứng dụng phát triển ngành. Trang bị phòng thí nghiệm cho Viện
và phân viện kinh tế- kĩ thuật dệt- may để xin nhà nớc bổ sung chức
năng kiểm định quốc gia về hàng dệt may.

3.3.5. Đẩy mạnh phơng thức mua nguyên liệu, bán thành phẩm.

Nh đã trình bày ở những phần trớc, kim ngạch xuất khảu hàng dệt
may sang EU trong những năm qua rất khả quan, nhng phơng thức
gia công thuần tuý lạI chiếm một tỉ lệ rất lớn 80% trong kim ngạch
xuất khẩu. Mặc dù trong giai đoạn đầu phơng thvs này đac giảI
quyết một số lợng lao động lớn, giúp doanh nghiệp dệt may Việt
Nam bớc đầu tập dợt tìm hiểu về thi trờng EU, đa về cho đất
nớc một số lợng ngoạI tệ ít ỏi, nhng đổi lạI uy tín sản phẩm (giá
cả, sức mua, tâm lí tiêu dùng, sự biến đổi sở thích) ta không nắm
đợc. Phơng thức này cũng hạn chế sự năng đọng của các doanh
nghiệp dệt may kinh doanh theo kiểu ngồi buôn chứ không phảI
đI buôn. Các doanh nghiệp ngồi tạI chỗ chờ khách đến rồi chạy đI
xin hạn ngạch tơng đối phổ biến ở các doanh nghiệp dệt may Việt
Nam.
Vì thế, để ngành dệt may Việt Nam phát triển bền vững, để khai

thác hiệu quả thị trờng EU chúng ta phảI dần tỉ lệ gia công, nâng
dần phơng thức mua đứt bán đoạn trong kim ngạch xuất khẩu hàng
dệt may sang EU. Để làm đợc đIều này cần có sự hỗ trợ của nhà
nớc thông qua một hệ thốnh chính sách: chính sách đầu t, tín dụng,

×