Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Đề tài " Hàng thủy sản Việt Nam và xuất khẩu thuỷ sản sang Nhật " pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.94 KB, 25 trang )

Đề tài
Hàng thủy sản Việt Nam và xuất khẩu
thuỷ sản sang Nhật
2
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU………………………………………………………………… 1
CHƯƠNG I: MÔ TẢ TÌNH HUỐNG……………………………………… 3
1.1. Đánh giá chung…………………………………………………………….3
1.2. Động cơ của việc Nhật tăng cường kiểm soát, siết chặt quản lý chật
lượng thuỷ sản nhập khẩu từ Việt Nam………………………………………4
1.3. Tác động của chính sách này…………………………………………… 5
1.3.1. Tác động đối với Nhật…………………………………………… 5
1.3.2. Tác động đối với doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam…….6
1.4. Phản ứng của các tổ chức, quốc gia và phía ViệtNam………………… 7
1.4.1. Phản ứng của các tổ chức, quốcgia……………………………… 7
1.4.2. Phản ứng từ phía Việt Nam……………………………………… 8
CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH TÌNHHUỐNG……………………………… 10
2.1. Đánh giá về thị trường Nhật, tình hình xuất khẩu thuỷ sản VN………10
2.2. Nguyên nhân của việc Nhật tăng cường kiểm soát. quản lý chất lượng
thuỷ sản Việt Nam…………………………………………………………… 13
CHƯƠNG III: BÀI HỌC RÚT RA, ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP……… 17
3.1. Bài học kinh nghiệm rút ra………………………………………………17
3.2. Đề xuất các giải pháp.……………………………………………………18
3.2.1. Giải pháp từ phía cơ quan quản lý Nhànước… 18
3.2.2. Giải pháp từ các doanh nghiệp xuất khẩu, cơ sở chế biến, người
nuôi và đánh
bắt…………………………………………………………………… 18
KẾT LUẬN………………………………………………………………… 20
3
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài


Trong tiến trình hội nhập nền kinh tế toàn cầu, Việt Nam đã đạt được
những thành quả đáng kể ở nhiều mặt. Song nếu đi sâu vào tìm hiểu, theo
nhiều nhà quan sát trong và ngoài nước Việt Nam vẫn chưa đạt được
những lợi thế nhất định. Việt Nam được công nhận có rừng vàng biển bạc,
có lợi thế về xuất khẩu các mặt hàng thuỷ sản, dệt may, giày dép. Từ cuối
thế kỷ 90 của thế kỷ trước đến nay xuất khẩu thuỷ sản được coi là trong
những ngành mũi nhọn mà Đảng, Nhà nước ta đã vạch ra cùng với xuất
khẩu dệt may, giầy dép kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản không ngừng tăng
lên. Các thị trường mà thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu sang chủ yếu là Mỹ,
Nhật, EU, Nga, Từ năm 2004 đến nay thị trường Nhật được coi là một
trong những thị trường chiếm tỷ lệ nhập khẩu của thuỷ sản Việt Nam lớn
(từ 21-25%). Đây cũng là thị trường mà thuỷ sản Việt Nam xuất sang được
giá khá cao (từ 250-300USD/tấn), cao hơn nhiều so với các thị trường
khác. Riêng mặt hàng tôm hàng năm đạt trên 500 triệu USD.
Nhật cũng là một thị trường khá khó tính về ý thức vệ sinh an toàn
thực phẩm cũng như những yêu cầu trong giám sát từ nuôi trồng, chế biến
tới bảo quản xuất khẩu.Hai năm gần đây Chính phủ Nhật liên tục thực
hiện chính sách quản lý nghiêm, giám sát chặt trong việc kiểm tra chất
lượng, độ dư lượng kháng sinh trong các mặt hàng thuỷ sản được nhập
khẩu vào. Hàng năm kim ngạch xuất khẩu của thuỷ sản Việt Nam sang
Nhật đạt hơn 1 tỷ USD. Trước việc thực hiện siết chặt quản lý, tăng cường
giám sát chất lượng hàng thuỷ sản của Nhật Bản đã ảnh hưởng không nhỏ
tới xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
4
Tìm hiểu và nghiên cứu thực trạng hàng thuỷ sản Việt Nam trong
thời gian qua và trong tương lai trước những chính sách tăng cường kiểm
soát, quản lý chất lượng thuỷ sản nhập khẩu của Nhật. Đồng thời đề tài
cũng xin đề xuất một số giải pháp cho các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ
sản, ngành thuỷ sản Việt Nam khi xuất khẩu thuỷ sản sang Nhật.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
Hoạt động nuôi trồng, đánh bắt, chế biến, xuất khẩu thuỷ sản Việt
Nam trước những chính sách thương mại mà Nhật đã, đang áp dụng trong
thời gian qua.
"Thực trạng hàng thuỷ sản Việt Nam trong thời gian qua và trong tương lai
trước những chính sách tăng cường kiểm soát, quản lý chất lượng thuỷ sản
nhập khẩu của Nhật".
Nội dung của đề tài gồm 3 chương.
Chương I: Mô tả tình huống.
Chương II: Phân tích tình huống
Chương III: Những bài học rút ra và đề xuất các giải pháp giải
quyết tình huống.
Bài viết có sử dụng nhiều tài liệu, các tập tin trên một số tờ báo kinh
tế, một số thông tin của Bộ Thuỷ sản, Cục Hải quan và một số nguồn thông
tin khác. Việc đi sâu vào tìm hiểu tuy đã có cố gắng xong cũng gặp một số
hạn chế nhất định, mong nhận được sự góp ý của Quý thầy cô và bạn đọc.
CHƯƠNG I
5
MÔ TẢ TÌNH HUỐNG
1.1. Đánh giá chung.
Liên tiếp từ cuối năm 2006 đến nay một số mặt hàng thuỷ sản Việt Nam
khi xuất sang Nhật bị trả lại. Các lô hàng thuỷ sản bị trả lại được phía Nhật kết
luận là có dư lượng kháng sinh cấm và một số hoá chất dư lượng quá mức cho
phép. Từ đầu năm 2007 tới hết tháng 6/2007 phía Nhật cũng đưa ra một số lời
cảnh báo với các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam về việc tăng cường
kiểm soát, siết chặt quản lý chất lượng đối với các mặt hàng thuỷ sản được xuất
khẩu từ phía Việt Nam. Phía Nhật tuyên bố nếu các doanh nghiệp này không
giải quyết các vấn đề một cách triệt để có thể cho ngừng nhập khẩu thuỷ sản.
Theo ông Trần Thiện Hải-Chủ tịch Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản
(VASEP): "Phía Nhật đã tăng kiểm tra số lô hàng từ 50% lên 100% với thuỷ sản

Việt Nam. Mới đây ngày 25/6/2007, VASEP đã nhận được thông cáo từ Đại sứ
Nhật về việc nếu phía Việt Nam không đưa ra những giải pháp ngăn chặt triệt để
tình trạng thuỷ sản Việt Nam có dư lượng kháng sinh cao có thể sẽ xem xét
ngừng nhập khẩu các mặt hàng thuỷ sản Việt Nam" (Trích bài viết của tác giả
Quang Trí trên báo kinh tế Việt Nam).
Theo VASEP đến cuối 5/2007 Việt Nam đã xuất sang Nhật 39.090 tấn sản
phẩm thuỷ hải sản trị giá 240 triệu USD. Nếu tính so với cùng kỳ năm ngoái thì
giá trị xuất khẩu giảm gần 20%. Trong 6 tháng đầu năm 2007Việt Nam xuất
khoảng 6000 lô hàng thuỷ sản sang Nhật, trong đó có 94 lô bị phía Nhật cảnh
cáo có dư lượng kháng sinh (chiếm 1,6%). Các sản phẩm này chủ yếu nhiễm
CAP (55 lô), AOZ (17 lô), SEM (6 lô), COLIFORM (7 lô), SUNFUARADIOXIDE
(2 lô). Đã có 48 doanh nghiệp có lô hàng bị cảnh báo, trong đó có 2 Công ty bị
phát hiện trên 4 lô, 10 Công ty 3 lô, 3 Công ty 2 lô và 23 Công ty có 1 lô bị cảnh
báo. Các nhóm hàng bị CAP là tôm biển cỡ nhỏ, mực ống, mực nang.
Tôm là mặt hàng chủ yếu mà Việt Nam xuất khẩu sang Nhật hàng năm
giá trị xuất khẩu tôm sang thị trường Nhật trên 500 triệu USD (chiếm 56,7%).
Đến cuối năm 2006 tới nay thì tỷ lệ vi phạm của mặt hàng này cũng vượt
6
ngưỡng 1,6%. Trong đó chất CAP chiếm 6,7%, tổng các lô hàng được kiểm tra
tại cảng nhập khẩu của Nhật Đồng thời từ đầu năm tới nay cũng có nhiều lô
hàng xuất khẩu tôm Việt Nam bị phía Nhật trả về. Đầu tháng 3 năm 2007
TOKYO đã cảnh báo trên mạng của Bộ Ytế lao động và phúc lợi của Nhật là có
2 lô hàng tôm sú nhập khẩu từ Việt Nam có hàm lượng chất AOZ quá mức cho
phép. Trước đó cơ quan này đã công bố việc tìm thấy dư lượng CAP ở một số lô
hàng mực nhập khẩu từ Việt Nam và Trung Quốc. Đồng thời cũng tìm thấy vi
khuẩn Ecoli trong một số lô hàng tôm đông lạnh chiên sẵn từ Việt Nam. Đièu đó
cho thấy giá trị xuất khẩu mặt hàng này đã giảm sút đáng kể.Việc Nhật Bản mất
đi vị trí dẫn đầu trong nhập khẩu thuỷ Việt Nam là một sự thật đáng buồn cho
các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản. Thậm chí trongt hời gian tới nếu không có
những chuyển biến tích cực, các doanh nghiệp thuỷ sản chúng ta sẽ mất hẳn đi

thị trường này. Nừu quả xảy ra thật thì “ đau quá” cho ngành thủy sản Việt Nam.
1.2. Động cơ của việc Nhật Bản tăng cường kiểm soát và quản lý chất lượng
thuỷ sản nhập khẩu từ Việt Nam
Thứ nhất: Nhật là một thị trường có sức tiêu thụ lớn về hàng thuỷ sản, song
lại khá khó tính nên tiêu dùng những mặt hàng có ảnh hưởng không tốt tới sức
khoẻ sẽ làm người tiêu dùng cảm thấy bất an. Một nền kinh tế phát triển thì việc
bảo đảm an toàn cho người tiêu dùng là một điều cần thiết và cần được thực hiện
một cách chặt chẽ. Không chỉ Chính phủ Nhật là các cơ quan lãnh đạo khác cũng
muốn đảm bảo cho người tiêu dùng được sử dụng những sản phẩm có độ an toàn
cao. Việc Chính phủ Nhật tăng cường kiểm soát và quản lý chặt đối với hàng
thuỷ sản được nhập khẩu không chỉ đối với thuỷ sản Việt Nam và với nhiều
quốc gia xuất khẩu vào thị trường này. Với những mặt hàng thuỷ sản không đảm
bảo chất lượng đã và đang được phía Nhật trả lại, họ không muốn người tiêu
dùng trong nước sử dụng những mặt hàng này.
Thứ hai: Qua việc siết chặt chính sách thương mại đối với hàng thuỷ sản
nước ngoài họ mong muốn làm giảm áp lực cho các doanh nghiệp thuỷ sản
trong nước . Rõ ràng cạnh tranh trên một thị trường có sức tự do cao là rất khốc
7
liệt. Một khi không biết và nắm bắt tốt về những thị trường này tính khốc liệt sẽ
làm cho bất kỳ doanh nghiệp nào thất bại. Siết chặt quản lý chất lượng thuỷ sản
nhập khẩu, tăng cường kiểm tra chất lượng tại các cảng nhập sẽ tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thuỷ sản, có điều kiện về thời gian, về
lực để tranh thủ chiếm chính thị trường trong nước của mình. Nhật là một quốc
gia có đường biển dài bao quanh, có lượng tàu thuyền lưu thông lớn trên thế
giới, do đó thuỷ sản ở Nhật cũng là một ngành khá phát triển. Khi có sự xâm
nhập từ ngoài vào thì áp lực cạnh tranh sẽ tăng lên, điều đó cũng chứng minh
việc Chính phủ Nhật mong muốn giảm bớt áp lực này cho các doanh nghiệp
thủy sản trong nước của mình.
Thứ ba: Nhật Bản mong muốn qua chính sách này sẽ cảnh báo tới các doanh
nghiệp xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam là họ chỉ cho phép các doanh nghiệp đủ

điều kiện mới được hoạt động trên thị trường này. Phía Nhật sẵn sàng cấm nhập
khẩu các hàng thuỷ sản đối với các doanh nghiệp vi phạm các tiêu chuẩn cho
phép. Đây là điều cần để các doanh nghiệp Việt Nam lưu tâm, chú ý,và cũng thể
hiện động cơ rõ ràng nhất để phía Nhật áp dụng chính sách thương mại này với
thuỷ sản Việt Nam.
1.3. Tác động của việc tăng cường kiểm soát, siết chặt quản lý chất lượng
hàng thuỷ sản
1.3.1. Tác động đối với phía Nhật
Thứ nhất: Tác động tới tiêu ding trên thị trường Nhật: Giảm thiểu những
mặt hàng thuỷ sản không đảm bảo chất lượng được nhập khẩu vào thị trường.
Đồng thời có tác động lớn tới sức tiêu dùng và tâm lý tiêu dùng của người tiêu
dùng Nhật Bản. Một khi công tác quản lý chất lượng được thực hiện nghiêm thì
hiệu quả của nó tạo ra là rất rõ rệt. Người tiêu dùng sẽ yên tâm hơn việc họ được
bảo đảm an toàn khi sử dụng những mặt hàng thuỷ sản nhập khẩu. Những mặt
hàng thuỷ sản nhập khẩu vào Nhật không chỉ dùng để bán ngay ra thị trường mà
một số còn được sử dụng để chế biến tạo ra các sản phẩm, thực phẩm liên quan.
8
Thứ hai: Tác động tới hoạt động của các doanh nghiệp thuỷ sản của Nhật:
Việc thực hiện siết chặt quản lý chất lượng cũng tác động không nhỏ tới các
doanh nghiệp thuỷ sản trong nước. Một phần họ có đủ điều kiện trong việc nâng
cao cạnh tranh trên thị trường, một phần họ cũng bị ảnh hưởng từ việc nhập
khẩu nguồn nhiên liệu từ nước ngoài vào. Nhật là một thị trường có sức tiêu thụ
tôm khá lớn, tôm được coi là một mặt hàng sử dụng chủ yếu để chế biến các sản
phẩm mà người tiêu dùng Nhật rất thích. Một khi Chính phủ Nhật tăng cường
kiểm soát, quản lý chất lượng với mặt hàng này, thì lượng tôm nhập khẩu sẽ
giảm rõ rệt.
1.3.2. Tác động tới các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam
Với việc Chính phủ Nhật tăng cường kiểm soát, siết chặt quản lý chất
lượng hàng thuỷ sản được nhập khẩu từ Việt Nam đã ảnh hưởng tới kim ngạch
xuất khẩu thuỷ sản của các doanh nghiệp và toàn ngành thuỷ sản nói chung.

Nhật Bản trong những năm trước vẫn là một trong hai thị trường có sức tiêu thụ
thuỷ sản Việt Nam xuất sang lớn nhất. Đây được coi là một thị trường truyền
thống đối với các doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam. Hàng năm sản lượng thuỷ
sản tiêu thụ tại Nhật, đem lại nguồn doanh thu hơn 1 tỷ đô cho phía Việt Nam.
Các mặt hàng chủ yếu mà các doanh nghiệp Việt Nam xuất sang là mực, tôm sú,
tôm đông lạnh chiên sẵn, một số mặt hàng cá. Từ cuối năm 2006 khi mà phía
Nhật áp dụng chính sách siết chặt quản lý chất lượng đối với các doanh nghiệp
xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam, thì sản lượng các mặt hàng thuỷ sản này đã giảm
rõ rệt, điều đó cũng ảnh hưởng tới giá trị sản lượng xuất khẩu của các doanh
nghiệp đang làm ăn trên thị trường này. Ví dụ: Công ty xuất khẩu thuỷ sản
Thaimex là một doanh nghiệp có giá trị thuỷ sản hàng năm sang Nhật lớn thứ 3
trong nước, trước đây trung bình mỗi tháng doanh nghiệp này xuất sang Nhật từ
10-15 tấn thuỷ sản. Nhưng từ cuối năm 2006 đến nay Công ty này hầu như
không xuất được một lô hàng thuỷ sản nào sang Nhật. Hơn 7 tháng qua doanh
thu của Công ty từ thị trường này là không đáng kể. Hai Công ty Nam Hải và
Hải Nam cũng ở trong tình trạng tương tự với Thaimex. Rất nhiều Công ty xuất
9
khẩu thuỷ sản khác cũng đã bị giảm đáng kể sản lượng thuỷ sản xuất khẩu sang
Nhật. Ước tính doanh nghiệp nào làm ăn hiệu quả trên thị trường Nhật cũng chỉ
xuất sang đạt 78,7% so với cùng kỳ 6 tháng đầu năm 2006.
Một phần vì các doanh nghiệp bị phía Nhật trả lại hàng, phần do các
doanh nghiệp này không giám xuất sang Nhật sợ ảnh hưởng tới uy tín, do đó đã
ảnh hưởng khá lớn tới giá trị xuất khẩu. Điều này cũng ảnh hưởng tới các mặt
hàng liên quan được xuất sang Nhật. Ví dụ các mặt hàng về chế biến thực phẩm
xuất khẩu có sử dụng nguồn nguyên liệu là thuỷ sản: Sản phẩm đông lạnh, đồ
hộp, một số nông hải sản khác. Khi sản lượng giảm ắt sẽ ảnh hưởng tới các
doanh thu của các doanh nghiệp xuất khẩu. Chẳng hạn như Công ty Thaimex
trung bình mỗi tháng xuất từ 10-15 tấn hàng với giá 8,98USD/1kg thì doanh thu
đạt từ 90 ngàn-135 ngàn USD. Nhưng trong 6 tháng đầu năm nay, thì doanh thu
mà Công ty thu lại chưa đầy 10 ngàn USD. Đồng thời giá của các mặt hàng này

trong thời gian qua cũng đã giảm rõ rệt. Ví như giá tôm trong cùng kỳ năm
ngoái là 8,89USD/1kg thì sang hết tháng 5 năm 2007 giá trung bình giảm còn
8,48USD/1kg. Đó là xét trên khía cạnh về doanh thu thu được nếu nhìn một
cách thẳng thắn và trực quan thì với việc Nhật áp dụng chính sách này sẽ làm cho
các doanh nghiệp nhập khẩu thuỷ sản Việt Nam có thể sẽ mất đi chính thị trường
này, điều đó cũng sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới toàn ngành thuỷ sản và các chỉ
tiêu kinh tế mà Việt Nam đã đặt ra trong năm nay.
Như vậy với việc áp dụng chính sách thương mại mà Nhật đang làm đã
ảnh hưởng đặc biệt tới xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam trong thời gian qua và
tương lai gần.
1.4. Phản ứng của các tổ chức, Quốc gia, từ phía Việt Nam.
1.4.1. Phản ứng của các tổ chức, quốc gia
Việc Nhật áp dụng các biện pháp tăng cường kiểm soát hàng thuỷ sản
xuất khẩu từ Việt Nam đã kéo theo các phản ứng khác nhau từ các tổ chức kinh
tế và các quốc gia nhập khẩu hàng thuỷ sản Việt Nam. Mỹ từ đầu năm 2007 tới
10
nay cũng đã thay đổi cách thức kiểm tra chất lượng các lô hàng thuỷ sản xuất
khẩu từ Việt Nam bằng việc tăng cường kiểm tra 100% lô hàng với một số mặt
hàng: Cá tra, cá ba sa, tôm. Không chỉ thực hiện kiểm tra các lô hàng tại cảng
nhập, phía Mỹ cũng yêu cầu phía Việt Nam phải có những chứng nhận về độ an
toàn của các lô hàng được xuất sang. Mỹ cũng đã cử một số đoàn chuyên gia
sang kiểm tra một số ấp nuôi và các cơ sở chế biến, doanh nghiệp xuất khẩu
thuỷ sản sang thị trường này. Đây là động thái mà phía Mỹ áp dụng đối với thuỷ
sản Việt Nam thời gian qua. Cùng với Nhật, Mỹ cũng đặt ra những yêu cầu khắt
khe về an toàn thực phẩm với thuỷ sản nhập khẩu, đó là các tiêu chuẩn về
GMP,các tiêu chuẩn do Cục Quản lý thực phẩm Mỹ đề ra.
Còn tại Nga và EU cũng có những biện pháp tương tự, thậm chí các đoàn
thanh tra mà họ cử tới để tìm hiểu kiểm tra còn làm chặt chẽ hơn rất nhiều, nếu
phát hiện những ngư dân, các cơ sở chế biến vi phạm về an toàn thực phẩm lập
tức họ sẽ áp dụng các biện pháp yêu cầu phía Việt Nam tạm ngừng xuất khẩu

các sản phẩm tại các cơ sở này. Ví dụ: Từ ngày 13-28/4/2007 một đoàn thanh tra
của Cục kiểm dịch động thực vật Liên Bang Nga (VPSS) đã đến Việt Nam để
thực hiện kiểm tra hoạt động nuôi trồng thuỷ sản, hoạt động chế biến ở một số
nhà máy tại An Giang và Bình Thuận, đồng thời đoàn cũng có những buổi thảo
luận chuyên môn về giữ gìn vệ sinh ATTP với Cục quản lý chất lượng, Cục thú y
thuỷ sản Việt Nam (Nafiquaved). Nga là một thị trường tiềm năng và đang lên,
do đó nếu nắm bắt, và thực hiện tốt những điều kiện tiêu chuẩn tại các thị trường
hẳn các doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội làm ăn hơn.
1.4.2. Phản ứng từ phía Việt Nam
Ngay sau khi nhận được những thông tin về việc liên tiếp các lô hàng thuỷ
sản Việt Nam xuất khẩu sang Nhật bị trả lại và bị cảnh báo, Bộ thuỷ sản đã các
văn bản tới các thành phố, Cục quản lý chất lượng vệ sinh ATTP, các doanh
nghiệp xuất khẩu thuỷ sản, cơ sở chế biến, các ngư dân nuôi, yêu cầu tăng
cường đảm bảo chất lượng hàng thuỷ sản. Đồng thời yêu cầu các cơ quan xử lý,
11
giám sát, kiểm soát chặt chẽ tới các hoạt động đánh bắt, nuôi trồng của ngư dân,
hoạt động chế biến của các cơ sở.
Bộ cũng yêu cầu Cục hải quan sẵn sàng trả lại những lô hàng vi phạm
ngay tại sản xuất, đồng thời yêu cầu các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản phải có
giấy chứng nhận xuất sứ nguồn nguyên liệu thuỷ sản. Đối với các doanh nghiệp
đã có lô hàng xuất khẩu thuỷ sản yêu cầu phải kiểm tra 100% với các sản phẩm
xuất trong thời gian tới. Bộ thuỷ sản yêu cầu các cơ quan quản lý sẵn sàng cấm
xuất khẩu với các doanh nghiệp thường xuyên vi phạm, cố tình vi phạm về vệ
sinh an toàn chất lượng hàng xuất khẩu. Đóng cửa các cơ sở chế biến, các ấp
nuôi đánh bắt có sử dụng chất kháng sinh cấm.
Hiệp hội ngành hàng thuỷ sản Việt Nam (VASEP) cũng đã gửi một số
công văn tới Bộ thuỷ sản yêu cầu tạm ngừng xuất khẩu thuỷ sản sang Nhật trong
một thời gian. Đồng thời yêu cầu tới các Cục quản lý tại các địa phương thực hiện
kiểm tra chặt chẽ hơn hoạt động đánh bắt chế biến. Đây được coi là động thái
tích cực để chúng ta có thời gian kiểm soát một cách toàn diện trước khi xuất

khẩu trở lại và đảm bảo với bạn hàng về chất lượng hàng, lấy lại uy tín trên thị
trường. VASEP đã gửi công văn tới Cục hải quan đề nghị không thông quan
những lô hàng xuất khẩu sang Nhật của các doanh nghiệp bị cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền Nhật phát hiện dư lượng kháng sinh cấm từ sau ngày 24/11/2006.
Tất cả các doanh nghiệp xuất khẩu tôm sang thị trường Nhật từ 12/12/2006 trở
đi đều phải đăng ký qua Cục quản lý chất lượng an toàn vệ sinh và Cục thú y
thủy sản.
Còn phản ứng từ các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản thì rất khác nhau.
Một số doanh nghiệp thực hiện nghiêm tăng cường đảm bảo chất lượng hàng
thuỷ sản xuất khẩu và duy trì việc xuất khẩu hàng thuỷ sản vào thị trường Nhật.
Một số doanh nghiệp khác đã tính nước chuyển sang một số thị trường khác
như: Nga, Canada, EU hay Mỹ. Tính đến hết tháng 6/2007 trong số 31 doanh
nghiệp có lô hàng bị cảnh báo thì có 22 doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn xuất khẩu,
2 doanh nghiệp chưa đạt, 2 doanh nghiệp chưa xác định được là đơn vị kinh
12
doanh hay đơn vị sản xuất. Mới đây ngày 11/7 Thứ trưởng Bộ thuỷ sản Lương
Lê Phương đã ký quyết định số 06 về việc áp dụng các biện pháp cấp bách
kiểm soát dư lượng hoá chất kháng sinh cấm đối với thuỷ sản xuất khẩu Nhật.
Trong quyết định, Bộ thuỷ sản yêu cầu chỉ các doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn đảm
bảo vệ sinh an toàn thực phẩm của Bộ mới được phép xuất khẩu, đồng thời phải
thực hiện kiểm tra chứng nhận Nhà nước về dư lượng hoá chất kháng sinh đối với
100% số lô hàng giám xác, nhuyễn thể chân đầu và các sản phẩm phối chế từ các loại
nguyên liệu thuỷ sản trước khi xuất sang Nhật.
13
CHƯƠNG II
PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG
2.1. Đánh giá về thị trường Nhật, tình hình xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam
Nhật Bản là một thị trường truyền thống và chiếm tỷ trọng lớn đối với
hàng thuỷ sản xuất khẩu Việt Nam. Từ năm 2002-2005 chiếm tỷ lệ 25% tổng
kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam ra nước ngoài. Từ năm 2006 tới hết

tháng 6/2007 tỷ lệ này giảm còn 18,7% và mất đi vị trí dẫn đầu về nhập khẩu
thuỷ sản Việt Nam (báo cáo Cục hải quan tháng 6/2007). Mặt hàng chủ yếu mà
Việt Nam xuất sang Nhật là các mặt hàng về tôm: tôm sú, tôm chiên, đồ đông
lạnh, một số mặt hàng về mục. Mỗi năm các loại mặt hàng này chiếm 56,7%
tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam vào thị trường Nhật. Đây cũng là thị
trường hấp dẫn các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam về giá cả.
Thường giá thị trường này nhập cao gấp 2-3 lần so với giá nhập của các thị
trường ở Nga, Canada. Với mức giá như vậy hẳn doanh nghiệp nào cũng muốn
được xuất khẩu vào đó. Điều này càng thu hút nhiều doanh nghiệp xuất khẩu
thuỷ sản Việt Nam mong muốn được làm ăn trên thị trường này. Nhưng cũng
cần nhắc lại ý thức tiêu dùng tại Nhật là rất cao, nhu cầu tiêu dùng của người
Nhật luôn gắn liền với yêu cầu về độ an toàn vệ sinh thực phẩm. Điều đó dường
như được minh chứng một phần tại sao người Nhật lại có tuổi trung bình cao
nhất thế giới.
14
Bảng 1: Nhập khẩu tôm đông lạnh (tất cả các loại) vào Nhật Bản,
1998 & 2001 – 2005 đơn vị: tấn
Các dạng sản phẩm 1998 2001 2002 2003 2004 2005
Sống 364 577 406 293 383 271
Tươi ướp đá 85 99 36 19 33 19
Đông lạnh, nguyên con 238906 245048 248868 233195 241445 232443
Khô/ muối/ngâm nước
muối 2349 1704 1875 1977 2351
2008
Luộc, đông lạnh 10338 14045 13936 13927 16745 17051
Luộc & xông khói 376 515 468 453 618 422
Chế biến sẵn/ bảo
quản(bao gồm tempura
& tôm đóng hộp) 13984 23980 27678 33361 39692
42181

Sushi (với cơm) 50 160 194 92 341 263
Tổng cộng 266038 286128 293461 283318 301608 294658
Nguồn: Infofish Trade New, No4/2005, No.3/2006
Theo ước tính của VASEP đến hết tháng 4/2007 Việt Nam có trên 500 cơ sở
chế biến thuỷ hải sản, hàng ngàn điểm nuôi to, nhỏ và số lượng thuyền bè đánh
bắt rất lớn. Trong số 500 cơ sở chế biến mới có trên 300 cơ sở được công nhận
đạt tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm (62,4%). Còn gần 200 cơ sở thì một
số chưa được công nhận, một số chưa được kiểm tra theo dõi. Tuy nhiên lại có
rất nhiều đầu mối xuất khẩu thuỷ sản sang Nhật. Từ đầu năm tới nay xuất khẩu
thuỷ sản Việt Nam tuy có tăng nhẹ xong xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường Nhật
lại giảm đáng kể. Trong 6 tháng đầu năm 2007 kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt
39.090 tấn thuỷ sản trị giá 240 triệu USD, trong đó xuất khẩu tôm sang Nhật đạt
4.564 tấn trị giá 38,7 triệu USD (giảm 15,6% về sản lượng, 20% về giá trị so với
cùng kỳ năm ngoái). Đây là giá trị cuất khẩu thấp nhất của chúng ta trong 3 năm
15
qua tại thị trường này. Không những vậy giá của các mặt hàng thuỷ sản cũng đã
giảm nhiều trong thời gian qua. Giá các mặt hàng tôm giảm còn 8,48USD/1kg
so với 8,89Usd/1kg cùng kỳ năm ngoái (giảm 0,41 USD/1kg)
Rõ ràng việc Chính phủ Nhật siết chặt quản lý chất lượng, tăng cường kiểm
soát đã ảnh hưởng không nhỏ tới giá trị xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam, nhưng
cũng cần thừa nhận là các doanh nghiệp xuất khẩu, cơ quan quản lý đã quá lơ là
về ý thức đảm bảo chất lượng hàng xuất khẩu. Chúng ta lỏng lẻo từ khâu quản
lý, kiểm tra tới ý thức của người nuôi và các cơ sở chế biến. Nếu không cải thiện
được tình hình rất có thể chỉ tiêu đạt 3,7 tỷ USD cho ngành thuỷ sản trong năm
nay hẳn không đạt được. Khi mà chúng ta đánh mất đi thị trường hàng năm
mang lại nguồn thu hơn 1 tỷ USD là Nhật. Trước việc Nhật thực hiện chính sách
này với thuỷ sản Việt Nam thì phía Chính phủ Việt Nam, các cơ quan quản lý
của ngành thuỷ sản đã và đang có những phản ứng ra sao? Chúng ta đã có những
biện pháp cấp bách để hạn chế mối lo ngại cho đối tác, song hỏi những biện
pháp này đã thực sự được thực hiện một cách nghiêm túc hay chưa? Và khi đề ra

những biện pháp trước mắt rồi cần có những nhóm giải pháp hiệu quả thực sự
cho lâu dài. Hay cũng cứ "Nước xảy đến đâu ta đối phó đến đó", nếu vậy thì
nguy cơ mất hẳn thị trường Nhật vẫn còn quá nhẹ đối với thuỷ sản Việt Nam.
Mà hậu quả của nó còn to lớn không chỉ là một thị trường mà nhiều thị trường.
2.2. Nguyên nhân của việc Nhật tăng cường kiểm soát quản lý chất lượng
hàng thuỷ sản.
"Không có lửa làm sao có khói" lời người xưa đã nói và chúng ta những
người làm công tác chuyên môn cần ngẫm lại lời chỉ dậy đó. Rõ ràng trong
những tháng qua không chỉ trên truyền thống mà ở các phương tiện thông tin
khác chúng ta đều thấy những điều bất ổn trong việc thực hiện đảm bảo vệ sinh
ATTP cho hàng xuất khẩu. Và điều đó đã làm thuỷ sản Việt Nam phải ngậm
"Trái đắng" từ các phản ứng của nhiều thị trường nhập khẩu khác. Nguyên nhân
của việc hàng thuỷ sản Việt Nam bị trả lại và bị cảnh cáo quy lại bởi các nhóm
yếu số sau:
Nhóm yếu tố trong khâu nuôi trồng, đánh bắt của ngư dân: Người nuôi
thuỷ sản đã không ý thức được độ dư lượng kháng sinh mà vẫn sử dụng phục vụ
16
cho công tác nuôi trồng. Họ thường xuyên sử dụng các loại kháng sinh để phòng
trị bệnh cho vật nuôi trong quá trình nuôi. Khi thuỷ sản nuôi có triệu trứng bị
bệnh vì cái lợi trước mắt, vì tài sản của mình họ đã sử dụng kháng sinh, thậm chí
cả các chất cấm để chữa trị cho vật nuôi. Nhưng sau đó khi mà vật nuôi đã hết
bệnh thì người nuôi lại không báo cáo với cơ quan quản lý, với các doanh nghiệp
cơ sở thu mua để được hướng dẫn các biện pháp giảm thái dư lượng kháng sinh
trước mùa thu hoạch. Ngay cả việc con giống phục vụ cho việc nuôi trồng cũng
có vấn đề, nhiều người nuôi phản ánh họ thường xuyên mua phải những giống
vật nuôi có chất lượng xấu nên trong quá trình nuôi thường bị chết hàng loạt.
Trong khi đó đối với các cơ sở đánh bắt họ cũng sử dụng chất CAP để giữ tươi
thuỷ sản thay vì ướp đá. Bởi đây là phương pháp giữ tươi hữu hiệu và khá rẻ. Vì
dụ tại Bình Thuận Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản tỉnh đã nhiều lần tổ
chức tuyên truyền vận động ngư dân không sử dụng kháng sinh trong nuôi trồng,

bảo quản thuỷ sản. Đã phát hàng ngàn tờ rơi rồi tuyên truyền trên các phương
tiện thông tin đại chúng, thậm chí đến tận ghe, thuyền, ấp nuôi có ngư dân để
kêu gọi, song kết quả thu được chẳng là bao. "Có lẽ cái lợi trước mắt đã làm
người ta quên đi lợi ích chung của ngành thuỷ sản Việt Nam cũng như sức khoẻ
người tiêu dùng”. Quan trọng hơn là những sản phẩm mà người nuôi tạo ra còn
phục vụ cho công tác chế biến xuất khẩu. Khi đã làm “mờ mắt họ” thì hẳn hậu
quả sẽ “khôn lường”. Người tiêu dùng trong nước “được” sử dụng những sản
phẩm không tốt cho sức khoẻ của họ. Doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu có thể
“được” nhận lại những mặt hàng họ xuất khẩu ra nước ngoài. Theo kết quả kiểm
tra dư lượng các chất độc hại của tổ chức Cục thú y trong tháng 4 năm 2007 đã
phát hiện dư lượng chất FQL trong các mẫu cá tra vùng nuôi Mỏ Cày- Bến Tre,
mẫu tôm sú tại xã Hoà Bình, Châu Thành-Trà Vinh, chất SFM trong mẫu cá tra
6 tháng tuổi tại An Lạc Tây-Sóc Trăng. Đây hẳn là nhóm nguyên nhân “gốc” để
có tiếp những nhóm nguyên nhân sau. Đầu có “vấn đề” thì đuôi hẳn không trơn
tru được như những thiết bị công nghệ nhập khẩu phục vụ cho sản xuất khi gặp
trục trặc sẽ tạo ra những sản phẩm lỗi.
17
Nhóm nguyên nhân từ cơ sở chế biến, doanh nghiệp xuất khẩu: Đó là việc
thiếu kiểm tra trong công tác thu mua nguyên liệu và bảo quản trong chế biến.
Nhiều cơ sở nuôi đã sử dụng chất CAP để bảo quản sản phẩm của mình, một số
cơ sở khi thực hiện thu mua thì thiếu kiểm tra xuất sứ của sản phẩm nếu có cũng
chỉ thực hiện qua loa. Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu thì nhiều doanh
nghiệp xuất khẩu không đủ tiêu chuẩn, không được chứng nhận đảm bảo an toàn
vệ sinh thực phẩm (khoảng gần 40%), cũng tìm mọi cách để xuất đi những lô
hàng nhằm thu lợi. Một số doanh nghiệp khác để đối phó với kiểm tra và thông
quan đã mượn danh các Công ty xuất khẩu khác. Đó được coi là hình thức mượn
"Code" nhau để xuất khẩu hàng. Họ chỉ cần vượt qua cửa khẩu nhập là trót lọt
thương vụ và thu lợi. Cách làm này nghe tưởng khó nhưng khi đã móc hoặc
được thì dễ hơn nhiều khi tự mình làm thủ tục xin phép cuất khẩu. Họ chỉ cần
bớt môth chút lời cho đối tác chứ không muốn mất chi phí cho giấy tờ, them chí

còn mát thời gian để đợi chờ. Hành vi này ít nhiều đã có hiệu quả khi thông
quan được các cửa xuất khẩu và một số đến tận ngọn đem lại doanh thu cho
doanh nghiệp. Đây là nhóm nguyên nhân phổ biến tại nhiều doanh nghiệp xuất
khẩu Việt Nam. Không chỉ những doanh nghiệp làm ăn trên thị truờng Nhật, mà
trên nhiều thị trưòng khác. Không biết các doanh nghiệp này khi tính toán làm
ăn trên các thị trường này có tìm hiểu kỹ những quy định về tiêu chuẩn xuất
khẩu hay không? Nếu có thì hẳn họ đã “cố tình” không tuân theo những quy
định này, còn khi đã không rồi thì chắc họ “nhắm mắt” làm liều nhằm kiếm lời
cho doanh nghiệp mình. Nhóm nguyên nhân này được coi là cố hữu trước “lợi
nhuận” mà doanh nghiệp nhìn thấy
Nhóm nguyên nhân trong công tác quản lý chất lượng của các cơ quan có
thẩm quyền. Đây là nhóm nguyên nhân cơ bản,và tác động lớn tới những gì đã
dõên ra trong thời gian qua, đã tạo ra những kẽ hở để doanh nghiệp, người nuôi
nách qua. Trong thời gian qua nhiều cơ quan quản lý chất lượng tuy đã nhận thức
được vấn đề cũng như có những động thái chỉ đạo thực hiện quản lý chặt đối với
xuất khẩu thuỷ sản sang Nhật song việc thực hiện còn quá kém. Cả nước ta có
18
hàng trăm doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu thuỷ sản, hàng ngàn ghe thuyền
đánh bắt và không ít các ấp, trại nuôi, điều đó cũng phần nào gây khó khăn cho
công tác quản lý, giám sát về thực hiện an toàn vệ sinh thực phẩm. Song không vì
thế mà lơ là, bỏ qua cho doanh nghiệp, cơ sở tự do hoạt động. Nguyên nhân
cũng đến từ sự thiếu đồng bộ trong quản lý kiểm tra, giám sát các hoạt động đảm
bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, điều đó thấy rõ trong 6 tháng đầu năm qua khi
mà nhiều ngư dân, các hiệp hội ngành nghề thuỷ sản địa phương nhờ các phương
tiện thông tin đã biết được việc Nhật Bản siết chặt quản lý thực hiện kiểm tra tất
cả các lô hàng thuỷ sản xuất khẩu từ Việt Nam, vậy mà những người có trách
nhiệm thì vẫn chưa có thông báo gì. Đâu phảI chúng ta không có những cơ quan
theo dõi thông tin ở đó. Các cơ quan này vẫn chưa kiểm soát chặt chẽ hoạt động
chế biến của nhiều cơ sở chế biến, thậm chí nhiều bộ phận kiểm tra đã không
thực hiện một cách thường xuyên, không xuống tận nơi kiểm tra như trong báo

cáo. Nếu như có những hiên tượng “làm giả ăn thật” thì không thể trách ai được
về những gì đã, đang diễn ra cho thuỷ sản Việt Nam
Như vậy việc siết chặt chất lượng hàng thuỷ sản Việt Nam bị phía Nhật
cảnh báo được hội tụ từ 3 nguyên nhân chính trên. Ngoài ra còn có những
nguyên nhân từ chính từ trường Nhật tác động tới. Và chúng ta cần phải làm gì
để giảm thiểu những tác động xấu tới xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang Nhật
trong thời gian tới?
19
CHƯƠNG III
BÀI HỌC RÚT RA VÀ NHỮNG BIỆN PHÁP LÀM TĂNG KHẢ NĂNG
XUẤT KHẨU THUỶ SẢN VIỆT NAM SANG NHẬT
3.1. Bài học từ nuôi trồng, đánh bắt
Việc Nhật Bản thực hiện quy chế siết chặt quản lý chất lượng hàng thuỷ sản
Việt Nam không chỉ tác động tới các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản mà còn
ảnh hưởng tới toàn ngành thuỷ sản Việt Nam. Với những chính sách này thì rõ
ràng Nhật Bản đã, đang muốn hạn chế những mặt hàng thuỷ sản Việt Nam xuất
khẩu vào. Bởi theo họ tình trạng chất lượng hàng thuỷ sản Việt Nam trong suốt 9
tháng qua luôn có dư lượng kháng sinh cao là mối đe doạ tới sức khoẻ cho người
tiêu dùng Nhật.Các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản, các cơ quan, ngành thuỷ
sản xem ra đã nhận thức được vấn đề đảm bảo vệ sinh ATTP nhưng việc thực
hiện vẫn chưa hẳn tốt, chưa nghiêm túc. Qua đó chúng ta cần rút ra một số bài
học về xuất khẩu thuỷ sản thời gian qua:
-Với người nuôi đánh bắt, họ không thể bán được sản phẩm với giá cao, thậm
chí nhiều chủ nuôi khi vật nuôi chết thì chỉ biết đợi mà phá sản.
- Với các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu là rất nhiều lô hàng thuỷ sản bị trả
lại và bị phía Nhật cho tạm ngừng xuất khẩu, thậm chí có những doanh nghiệp
bị cấm xuất khẩu.
- Ngành thuỷ sản Việt Nam cũng đang dần làm mờ đi uy tín mà chúng ta cố
gắng bấy lâu gây dựng. Hàng triệu đô đã dần tuột khỏi tầm tay chúng ta, và nếu
trong tương lai gần không cải thiện được tình hình thì có thể con số lên sẽ là

hàng tỷ đô. Rồi những khốn đốn trong ngành thuỷ sản Việt Nam tại các thị
trường khác cũng sẽ đến. Đó sẽ là bài học rất đắt mà thuỷ sản Việt Nam có thể
phải trả giá. Do vậy chúng ta cần có những biện pháp cấp bách để cứu lại tình
hình, để minh chứng cho đối tác và nhiều thị trường khác rằng đó chỉ là một
20
cuộc khủng hoảng ngắn. Mà chúng ta sẽ trở lại, xuất khẩu thuỷ sản vẫn sẽ đạt
được những thành công trong tương lai.
3.2. Đề xuất các giải pháp nhằm tăng khả năng xuất khẩu thuỷ sản Việt
Nam sang Nhật.
3.2.1. Giải pháp từ các cơ quan quản lý Nhà nước.
Chính phủ cần có những tác động một cách mạch lạc, trực tiếp tới Bộ
thuỷ sản và các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thuỷ sản. Yêu cầu các doanh
nghiệp phải thực hiện nghiêm quy chế vệ sinh an toàn thực phẩm. Thường
xuyên yêu cầu Bộ thuỷ sản báo cáo tình hình họat động của ngành thuỷ sản. Từ
đó nắm bắt và có hướng giải quyết, giúp đỡ khi ngành thuý sản gặp khó khăn.
Đồng thòi yêu cầu các cơ quan liên quan phối hợp đạt kết quả theo yêu cầu. Phía
Chính phủ cần có những hoạt động thuyết phục phía Nhật đồng nhất cách tiếp
nhận vấn đề về phương thức quản lý kiểm tra chất lượng. Kiến nghị phía Nhật áp
dụng các quy trình quản lý chất lượng HACCP như Mỹ, EU thay vì tập trung
kiểm tra các lô hàng tại cửa nhập khẩu. Đề nghị phía Bạn hỗ trợ trong việc đào
tạo các kiểm nghiệm viên và phương pháp phân tích dư lượng hoá chất.
Bộ thuỷ sản cần giám sát chặt chẽ hơn, hoạt động nuôi trồng, đánh bắt, chế
biến và bảo quản sản phẩm. Bộ cần trực tiếp kiểm tra công tác thực hiện vệ sinh
ATTP đối với các mặt hàng xuất khẩu tại các cơ sở chế biến, và doanh nghiệp
xuất khẩu. Giải quyết triệt để các doanh nghiệp vi phạm trong thời gian qua.
Thậm chí có thể cấm xuất khẩu vĩnh viễn đối với các doanh nghiệp này nếu cố
tình vi phạm. Cùng với cục thú y quản lý thực vật đề ra những giảI pháp hiệu
quả để giúp người nuôI, các ghe đánh bắt thu được những sản phẩm sạch, cung
cấp nguyên liệu cho doanh nghiệp chế biến. Các cơ quan quản lý cần tổ chức
kiểm tra thường xuyên tại các cơ sở nuôi và chế biến thuỷ sản. Khi phát hiện có

sai trái kịp thời xử lý ngay, tránh để những sản phẩm chất lượng xấu xuất khẩu
ra nước ngoài
3.2.2. Giải pháp từ các doanh nghiệp, cơ sở chế biến và ngư dân nuôi
Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản cần thực hiện nghiêm quy
định về quy trình bảo đảm an toàn chất lượng từ chế biến, xuất khẩu. Các cơ sở
21
cần đăng ký với Cục quản lý chất lượng an toàn thực phẩm về an toàn vệ sinh
thực phẩm trước khi xuất khẩu sang Nhật. Trong thu mua nguyên liệu tại của
ngư dân nuôi cần kiểm tra kỹ chất lượng nguyên liệu. Ngoài ra, các doanh
nghiệp cần lưu ý tới kênh phân phối thuỷ sản nhập khẩu của Nhật để đàm phán
hợp lý về chất lượng.Đặc biệt đối với kênh phân phối tôm, cua sống, cua tươi.
Doanh nghiệp Nhật rất coi trọng chữ tín, nên các doanh nghiệp khi xuất khẩu
vào Nhật cần tuân thủ tốt hợp đồng. Cần mua bảo hiểm tránh rủi ro khi hàng bị
kiểm tra, nếu bị phát hiện không đủ tiêu chuẩn cần bị xử lý ngay.
Các cơ sở chế biến cần kiểm tra xuất sứ nguồn nguyên liệu và hàm lượng
hoá chất tại các cơ sở thu mua. Các ấp nuôi, các cơ sở đánh bắt thường xuyên liên
hệ với cơ quan quản lý địa phương để nắm bắt được tình hình trong quá trình nuôi
trồng. Trong quá trình nuôi có những vấn đề xảy ra với vật nuôi cần đề nghị các
cơ quan quản lý địa phương hướng dẫn, tránh sử dụng kháng sinh cấm để trị và
bảo quản sản phẩm
22
KẾT LUẬN
Tóm lại việc đi sâu vào nghiên cứu, tìm hiểu về chính sách thương mại
mà Nhật áp dụng đối với thuỷ sản Việt Nam thời gian qua đã cho chúng ta nhìn
nhận lại một cách chính xác hơn về vấn đề đảm bảo ATTP cho hàng thuỷ sản
xuất khẩu. Thuỷ sản Việt Nam đã có những thành công, xong thành công đó
đang có nguy cơ bị “che lấp” bởi các vấn đề đảm bảo vệ sinh ATTP.chính vì vậy
trong thời gian tới chúng ta cần có những biện pháp cấp bách và hiệu quả để
sua tan đi những đám mây đang che phủ đó. Cần lấy lại uy tín trên thị trường
mà bấy lâu nay chúng ta gọi là truyền thống. Muốn vậy cần có sự phối hợp chặt

chẽ giữa các cơ quan quản lý Nhà nước, các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu
cùng toàn thể ngư dân nuôi trồng đánh bắt. Mong muốn của đề tài là góp một
phần nhỏ bé trong quá trình lấy lại hình ảnh đẹp cho thuỷ sản Việt Nam trước
người tiêu dùng Nhật, chính chủ Nhật và các doanh nghiệp Nhật.

23
CÁC TỪ VIẾT TẮT
ATTP : An toàn thực phẩm
EU : Liên minh Châu Âu
VASEP : Hiệp hội chế biến, xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam
CAP : Chloramphenil
FQL : Fluroquinolones
SFM : Sulfornomides
VPSS : Cục kiểm dịch động thực vật Liên Bang Nga

24
25
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách, Tạp chí
1, PGS.TS Nguyễn Thị Hường: Kinh doanh quốc tế/ tập 1, 2, NXB Lao động-
xã hội 2003.
2, Tạp chí kinh tế và phát triển, Đại học kinh tế quốc dân số ra định kỳ.
Web:
/> /> .
.
.

×