z
CNH - HĐH và vai trò của nó trong quá trình tiến lên CNXH ở nước ta
Tiểu luận kinh tế chính trị:
Đề tài: Hình thái KTXH
1
LỜI NÓI ĐẦU
Trong gần 10 năm trở lại đây, nền kinh tế nước ta có sự thay đổi và
đạt được nhiều thành tựu to lớn. Để đạt được những thành tựu ấy chúng ta
không thể quên được bước ngoặt lịch sử trong cơ chế chuyển đổi nền kinh
tế đất nước, mà cột mốc của nó là Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986
đã làm thay đổi bộ mặt kinh tế Nhà nước).
Đối với nước ta, từ một nền kinh tế tiểu nông, muốn thoát khỏi
nghèo nàn lạc hậu và nhanh chóng đạt đến trình độ của nước phát triển thì
tất yêú phải đổi mới.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: Xây
dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện
đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với tính chất
và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần
cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng văn minh. Mục tiêu đó là sự cụ thể hoá học thuyết Mác về hình thái
kinh tế - xã hội và hoàn cảnh cụ thể của xã hội Việt Nam. Nó cũng là mục
tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta.
Đề tài: Học thuyết hình thái kinh tế xã hội với việc nhận thức
tính tất yếu của con đường lựa chọn xã hội chủ nghĩa vào Việt Nam là
một nội dung phức tạp và rộng. Do trình độ hạn hẹp và có hạn trong một
bài tiểu luận nên em không tránh khỏi những khiếm khuyết trong việc
nghiên cứu. Em rất mong được sự góp ý của thầy giáo, cô giáo để bài viết
này của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
2
I. HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI MÁC- LÊ NIN.
Mọi người đều biết trong lịch sử tư tưởng nhân loại trước Mác đã có
không ít cách tiếp cận, khi nghiên cứu lịch sử phát triển của xã hội. Xuất
phát từ những nhận thức khác nhau, với những ý tưởng khác nhau mà có sự
phan chia lịch sử tiến hoá của xã hội theo những cách khác nhau. Chẳng
hạn như nhà triết học duy tâm Hê - ghen (1770 - 1831) phân chia lịch sử xã
hội loài người thành ba thời kỳ chủ yếu: thời kỳ phương Đông, thời kỳ cổ
đại, thời kỳ Gree - ma - ni. Nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng Pháp Phu- ri-ê
(1772-1837) chia lịch sử xã hội thành bốn giai đoạn: giai đoạn mông muội,
giai đoạn dã man, giai đoạn gia trưởng, giai đoạn văn minh.
Mọi người cũng đã quen với những khái niệm thời đại đồ đá, thời đại
đồ đồng, thời đại cối xay gió, thời đại máy hơi nước. . . và gần đây là các
nền văn minh: văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp, văn minh hậu
công nghiệp.
Mỗi cách tiếp cận trên có những điểm hợp lý nhất định và do đó đều
có ý nghĩa nhất định, nhưng chưa nói lên bản chất sự phát triển của xã hội
theo một cách toàn diện tổng thể mà do đó có những hạn chế.
Dựa trên những kết quả nghiên cứu lý luận và tổng thể quá trình lịch
sử, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã vận dụng phép biện chứng duy vật
để nghiên cứu lịch sử xã hội, đưa ra quan điểm duy vật về lịch sử và đã
hình thành nên học thuyết về “hình thái kinh tế xã hội”.
Hình thái kinh tế xã hội là một khái niệm chủ nghĩa duy vật lịch sử
dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn nhất định. Với một quan hệ sản xuất c
trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản
xuất và một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những
quan hệ sản xuất ấy.
3
Lý luận về hình thái kinh tế xã hội nghiên cứu lịch sử xã hội trên cơ
sở xem xét cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cả cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng. Tức toàn bộ các yếu tố cấu thành bộ mặt của thời
đại: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật. . . Do đó, nó cắt
nghĩa xã hội được sáng tỏ hơn, toàn diện hơn, chỉ ra cả bản chất và quá
trình phát triển của xã hội. Học thuyết hình thái kinh tế xã hội mới với tư
cách là “Hòn đá tảng” của xã hội học Mác xít nói chung cho phép chúng ta
hình dung quá trình phát triển của lịch sử là một quá trình tự nhiên. Loài
người đã trải qua năm hình thái kinh tế: xã hội cộng sản nguyên thuỷ,
chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và ngày nay đang quá độ lên
hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Hình thái kinh tế xã hội có tính lịch sử, có sự ra đời phát triển và diệt
vong. Chế độ xã hội lạc hậu sẽ mất đi, chế độ xã hội mới cao hơn sẽ thay
thế. Đó là khi phương thức sản xuất cũ đã trở nên lỗi thời, hoặc khủng
hoảng do mâu thuẫn của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất quá hơn
không thể phù hợp thì phương thức sản xuất này sẽ bị diệt vong và xuất
hiện một phương thức sản xuất mới toàn diện hơn, có quan hệ sản xuất phù
hợp với lực lượng sản xuất.
Như vậy, bản chất của sự thay thế trên là phụ thuộc vào mối quan hệ
biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Để hiểu rõ về mối
quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất chúng ta
phải nắm bắt được thế nào là quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
1) Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, là
biểu hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong từng giai đoạn
lịch sử nhất định. Lịch sử sản xuất là một thể thống nhất hữu cơ giữa tư liệu
sản xuất (quan hệ nhất là công cụ lao động) với người lao động với kinh
4
nghiệm và kỹ năng lao động nghề nghiệp. Lực lượng sản xuất đóng vai trò
quyết định phương thức sản xuất.
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong sản xuất vật
chất thể hiện ở quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức
quản lý trao đổi hoạt động với nhau và quan hệ phân phối sản phẩm. Trong
quan hệ sản xuất quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất giữ vị trí quyết định
các quan hệ khác.
Quan hệ sản xuất do con người tạo ra song nó được hình thành một
cách khách quan không phụ thuộc vào yếu tố chủ quan của con người.
Quan hệ sản xuất mang tính ổn định tương đối với bản chất xã hội và tính
phương pháp đa dạng trong hình thức biểu hiện.
Giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất có mối quan hệ biện
chứng với nhau biểu hiện ở chỗ:
+ Xu hướng của sản xuất vật chất là không ngừng biến đổi phát triển.
Sự biến đổi đó bao giờ cũng bắt đầu bằng sự biến đổi và phát triển của lực
lượng sản xuất mà trước hết là công cụ.
+ Công cụ lao động phát triển dẫn đến mâu thuẫn gay gắt với quan hệ
sản xuất hiện có và xuất hiện ddòi hỏi khách quan, phải xoá bỏ quan hệ sản
xuất cũ thay thế bằng quan hệ sản xuất mới.
+ Quan hệ sản xuất vốn là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất
(phù hợp) nhưng do mâu thuẫn của lực lượng sản xuất (đông) với quan hệ
sản xuất (ổn định tương đối) quan hệ sản xuất lạI trở thành xiềng xích kìm
hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất (không phù hợp ). Phù hợp và
không phù hợp là biểu hiện mâu thuẫn biện chứng của lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất, tức là sự phù hợp trong mâu thuẫn và bao hàm mâu
thuẫn.
5
+ Khi phù hợp cũng như không phù hợp với lực lượng sản xuất , quan
hệ sản xuất luôn có tính độc lập tương đối với lực lượng sản xuất thể hiện
trong nội dung sự tác động trở lạI đối với lực lượng sản xuất, mục đích xã
hội của lực lượng sản xuất, xu hướng phát triển của quan hệ lợi ích. Từ đó
hình thành những yếu tố thúc đẩy và kìm hãm sự phát triển của lực lượng
sản xuất. Sự tác động trở lại nói trên của quan hệ sản xuất bao giờ cũng
thông qua các quy luật kinh tế - xã hội đặc biệt là quy luật kinh tế cơ bản.
Phù hợp và không phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là
khách quan và phổ biến của mọi phương thức sản xuất.
Sự thống nhất biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản
xuất như sự thống nhất giữa hai mạt đối lập tạo nên chỉnh thể của sản xuất
xã hội. Trong “Hệ tư tưởng Đức” (1846) lần đầu tiên Mác- Ănghen đã hình
dung sự thống nhất đó như là một “quan hệ song trùng”, giữa hai “sự trao
đổi chất” tất yếu và phổ biến ở mọi nền sản xuất - xã hội. Đó là “trao đổi
chất giữa người với tự nhiên (lực lượng sản xuất) và giữa người với người
(quan hệ sản xuất)”.
Tác động qua lại biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản
xuất được Mác - Ănghen khái quát thành quy luật về sự phù hợp giữa quan
hệ sản xuất với trình độ , tính chất của lực lượng sản xuất.
Đây là một trong những quy luật cơ bản của đời sỗng xã hội. Quy
luật này chỉ rõ động lực và xu thế phát triển của lịch sử.
Tính chất của lực lượng sản xuất là tính chất của tư liệu lao động.
Khi công cụ lao động sản xuất đựoc sử dụng bởi từng cá nhân riêng biệt để
sản xuất ra một sản phẩm cho xã hội không cần đến lao động của nhiều
người thì lực lượng sản xuất có tính chất cá thể, công cụ sản xuất được
nhiều người sử dụng.
6
Trình độ của lực lượng sản xuất được thể hiện ở trình độ tinh xảo và
hiện đại của công cụ sản xuất, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng, kỹ
sảo của người lao động, trình độ phân công lao động xã hội , tổ chức quản
lý sản xuất và quy mô của nền sản xuất. Trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất càng cao thì chuyên môn hoá và phân công lao động càng sâu.
Trình độ phân công lao động và chuyên môn hoá là thứoc đo trình độ của
phát triển của lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành, phát triển và biến đổi
của quan hệ sản xuất. Trong tác phẩm “Sự khốn cùng của triết học”, Mác
nói: “Cái cối xay quay bằng tay cho xã hội có lãnh chúa phong kiến, cái cối
xay chạy bằng hơi nước cho xã hội có nhà tư bản”.
Để nâng cao hiệu quả trong sản xuất và giảm bớt lao động nặng nhọc
con người không ngừng cải tiến, hoàn thiện và chế tạo ra những công cụ, tri
thức khoa học, trình độ chuyên môn kỹ thuật và mọi kỹ năng của người lao
động cũng ngày càng phát triển.
Yếu tố năng động này của lực lượng sản xuất đòi hỏi quan hệ sản
xuất phải thích ứng với môi trường. Lực lượng sản xuất quyết định sự hình
thành và biến đổi của quan hệ sản xuất. Khi không thích ứng với tính chất
và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất sẽ kìm hãm
thậm chí phá hoại sự phát triển của lực lượng sản xuất, mâu thuẫn của
chúng tất yếu sẽ nảy sinh. Biểu hiện của mâu thuẫn này trong xã hội là giai
cấp là mâu thuẫn giữa các giai cấp đối kháng.
Lịch sử đã chứng minh rằng do sự phát triển của lực lượng sản
xuất, loài người đã bốn lần thay đổi quan hệ sản xuất gắn liền với bốn cuộc
cách mạng xã hội, dẫn đến sự ra đời nối tiếp nhau của các hình thái kinh tế
xã hội.
7
Ví dụ: do công cụ sản xuất chủ yếu bằng đã thô sơ, trình độ hiểu biết
hạn hẹp, để duy trì sự sống chống lại mọi tai hoạ của thiên nhiên , con
người phải lao động theo cộng đồng. Do vậy đã hình thành quan hệ sản
xuất cộng sản nguyên thuỷ. Công cụ kim loại ra đời thay thế cho công cụ
bằng đá, lực lượng sản xuất phát triểnnăng suất lao động nâng cao sản
phẩm thặng dư xuất hiện , chế độ chiếm hữu nô lệ dựa trên quan hệ sản
xuất tư hữu.
Vào giai đoạn cuối cùng của xã hội phong kiến, ở các nước Tây Âu
lực lượng sản xuất đã mang yếu tố xã hội hoá gắn với quan hệ sản xuất
phong kiến. Mặc dù hình thức bóc lột của các lãnh chúa phong kiến được
thay đổi liên tục từ địa tô lao dịch đến địa tô hiện vật, địa tô bằng tiền song
quan hệ sản xuất phong kiến chật hẹp vẫn không chứa đựng được nội dung
mới của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời thay thế quan hệ sản xuất
phong kiến. Trong lòng nền sản xuất tư bản, lực lượng sản xuất phát triển
cùng với sự phân công lao động và tính chất xã hội hoá công cụ sản xuất đã
hình thành lao động chung của người dân có tri thức và trình độ chuyên
môn hoá cao. Sự lớn mạnh này của lực lượng sản xuất dẫn đến mâu thuẫn
gay gắt với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Giải quyết mâu thuẫn
đó đòi hỏi phải xoá bỏ quan hệ sản xuất tư nhân tư bản chủ nghĩa, xác lập
quan hệ sản xuất mới, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Theo Mác, do có
được những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phát triển sản xuất
của mình và do đó thay đổi phát triển sản xuất làm ăn của mình, loài người
thay đổi các quan hệ sản xuất của mình.
Mặc dù bị chi phối bởi lực lượng sản xuất nhưng với tính cách là
hình thức quan hệ sản xuất củng cố những tác động nhất định trở lại đối với
lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, nó sẽ trở thành động lực thúc đẩy, định
8
hướng và tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển ngược lại. Nếu lạc
hậu hơn so với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hay
chỉ là tạm thời so với tất yếu khách quan của cuộc sống nhưng quan hệ sản
xuất sẽ là xiềng xích kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Phù hợp có thể hiểu ở một số nội dung chủ yếu là: cả ba mặt của
quan hệ sản xuất phải thích ứng với tính chất trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất phải tạo được điều kiện sản xuất và kết hợp với tối ưu
giữa tư liệu sản xuất và sức lao động, đảm bảo trách nhiệm từ sản xuất mở
rộng. Mở ra sau những điều kiện thích hợp cho việc kích thích vật chất,
tinh thần với người lao động.
Vậy quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình
độ của người sản xuất là quy luật chung của sự phát triển xã hội. Do tác
động của quy luật này xã hội là sự phát triển kế tiếp nhau từ thấp đến cao
của các phương thức sản xuất hay chính là của các hình thái kinh tế - xã
hội.
Dưới những hình thức và mức độ khác nhau thì con người có ý thức
được hay không và quy luật cốt lõi này như sợi chỉ đỏ xuyên suốt dòng
chảy tiến hoá của lịch sử không chỉ những lĩnh vực kinh tế mà cả các lĩnh
vực ngoài kinh tế, phi kinh tế.
2) Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Không chỉ đặc trưng bằng quan hệ sản xuất mà nó còn đặc trưng bởi
một kiến trúc thượng tầng xây dựng trên những quan hệ sản xuất của chính
nó.
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những tư tưởng xã hội, những thiết
chế tương ứng và những quan hệ nội tạng của thượng tầng, đó là những
quan đIểm tư tưởng chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật,
9
triết học và các thể chế tương ứng như Nhà nước, Đảng phái, giáo hội và
các toàn thể quần chúng.
Kiến trúc thượng tầng được hình thành trên tổng hợp toàn bộ những
quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một chế độ xã hội nhất định
người ta gọi đó là cơ sở hạ tầng.
Cơ sở hạ tầng bao gồm những quan hệ sản xuất đang giữ địa vị thống
trị nền kinh tế nhóm những quan hệ sản xuất tàn dư và những quan hệ sản
xuất mới là quan hệ mầm mống của xã hội sau.
Bất kỳ một cơ sở hạ tầng nào cũng bao gồm những thành phần kinh
tế khác nhau, mỗi thành phần kinh tế này đều gắn liền với một kiểu quan hệ
sản xuất trong đó quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chi
phối các thành phần kinh tế khác.
Xã hội có giai cấp đối kháng, giai cấp này nảy sinh từ cơ sở hạ tầng,
từ những mâu thuẫn và xung đột kinh tế. Đó chính là cơ sở nảy sinh giai
cấp đối kháng trong kiến trúc thượng tầng, giai cấp thống trị về kinh tế sẽ
thống trị về chính trị và thiết lập cả sự thống trị về mặt tư tưởng đối với xã
hội, trong đó hệ tư tưởng chính trị và bộ máy quản lý nhà nước có vị trí
quan trọng nhất.
a) Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng.
Cơ sở hạ tầng nào thì kiến trúc thượng tầng đó (giai cấp nào giữ vị trí
thống trị về mặt kinh tế thì đồng thời cũng là giai cấp thống trị xã hội về tất
cả các lĩnh vực khác).
Quan hệ sản xuất nào thống trị cũng sẽ tạo ra kiến trúc thượng tầng
tương ứng. Mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn giữa các tập đoàn trong xã hội
và dời sống tinh thần của họ đều xuất phát trực tiếp và gián tiếp từ mâu
thuẫn kinh tế, từ những quan hệ đối kháng trong cơ sở hạ tầng.
10
Cơ sở hạ tầng thay đổi thì nhất định sớm hay muộn sẽ dẫn đến sự
thay đổi về kiến trúc thượng tầng. Quá trình đó diễn ra ngay trong những
hình thái kinh tế xã hội cũng như khi chuyển tiếp từ hình thái này sang hình
thái kinh tế xã hội khác trong các xã hội có giai cấp mâu thuẫn giữa cơ sở
hạ tầng được biểu hiện là mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị
trị.
Trong các xã hội có đối kháng giai cấp mâu thuẫn của cơ sở hạ tầng
được biểu hiện là mâu thuẫn cuả giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Khi hạ
tầng cũ bị xoá bỏ thì kiến trúc thượng tầng cũ cũng mất đi và thay thế vào
đó là kiến trúc thượng mới được hình thành từng bước thích ứng với cơ sở
hạ tầng mới.
Sự thống trị của giai cấp thống trị cũ đối với xã hội cũ bị xoá bỏ,
thay bằng hệ tư tưởng thống trị khác và các thể chế tương ứng của giai cấp
thống trị mới. Đương nhiên không phải “Khi cơ sở hạ tầng thay đổi thì lập
tức sẽ dẫn đến sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng”.Trong quá trình hình
thành và phát triển của kiến trúc thượng tầng mới, nhiều yếu tố của kiến
trúc thượng tầng cũ còn tồn tại gắn liềnvới cơ sở kinh tế đã nảy sinh ra nó.
Vì vậy giai cấp cầm quyền cần phải biết lựa chọ một số bộ phận hợp lý để
sử dụng nó xây dựng xã hội mới.
Sự biến đổi của cơ sở hạ tầng dẫn đến sự biến đổi về kiến trúc
thượng tầng là một quá trình diễn ra hết sức phức tạp, thường trong xã hội
có đối kháng giai cấp, tính chất phức tạp ấy được thể hiện qua các cuộc đấu
tranh giai cấp. Tính chất này được bộc lộ rõ nét nhất là phương thức sản
xuất cộng sản chủ nghĩa (giai đoạn thấp nhất là xã hội chủ nghĩa), giai cấp
cách mạng phải thực hiện cuộc đấu tranh lật đổ kiến trúc thượng tầng cũ
thiết lập hệ thống chuyên chính của mình, sử dụng nó như là một công cụ
từng bước đấu tranh cải tạo định hướng xây dựng và hoàn thiện cơ sỏ hạ
tầng mới.
11
b) Tính độc lập tương đối và sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng
với cơ sở hạ tầng.
Các bộ phận của kiến trúc thượng tầng không phải phụ thuộc một
chiều vào cơ sở hạ tầng mà trong qúa trình phát triển, chúng có những tác
động qua lại với nhau và ảnh hưởng lớn đến cơ sở hạ tầng cũng như các
lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
Vai trò của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng được thể hiện
trong các mặt sau:
Chức năng xã hội cơ bản của kiến trúc thượng tầng là thực hiện
nhiệm vụ đấu tranh thủ tiêu cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ, xây
dựng bảo vệ củng cố phát triển cơ sở hạ tầng mới. Kiến trúc thượng tầng
chính là công cụ của giai cấp thống trị , các bộ phận khác của kiến trúc
thượng tầng cũng có tác động mạnh mẽ đối với cơ sở hạ tầng nhưng thường
những tác động ấy phảI thông qua hệ thống chính trị, pháp luật hay thể chế
tương ứng khác.
Trong điều kiện ngày nay vai trò của kiến trúc thượng tầng không
giảm đi mà ngược lại tăng lên và tác động mạnh đến tiến trình lịch sử. Trái
lại kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa bảo vệ cơ sở hạ tầng xã hội xã
hội chủ nghĩa nhằm xây dựng lại xã hội mới. Chính mục đích đó quyết định
tính tích cực càng tăng của kiến trúc thượng tầng.
Tác động của kiến trúc thượng tầng đến cơ sở hạ tầng được thể hiện
trong 2 trường hợp trái ngược nhau nếu kiến trúc thượng tầng phù hợp với
quan hệ kinh tế tiến bộ thì sẽ thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Ngược lại,
nếu kiến trúc thượng tầng là cơ sở của những quan hệ kinh tế lỗi thời thì sẽ
kìm hãm sự phát triển của kinh tế xã hội. Những sự tác động kìm hãm đó
chỉ là tạm thời sớm muộn cũng bị cách mạng khắc phục. Về cơ bản, bản
chất giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng chính là bản chất giữa kinh
12
tế và chính trị trong đó kinh tế đóng vai trò quyết định còn chính trị là biểu
hiện tập trung của kinh tế có tác động mạnh mẽ trở lại.
II. VẬN DỤNG HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI VÀO SỰ
NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC.
1) Tính tất yếu.
Loài người đã phải trải qua 5 hình thái kinh tế. Mỗi hình thái sau văn
minh tiến bộ hơn hình thái trước. Đầu tiên là hình thái kinh tế tự nhiên
(cộng sản nguyên thuỷ) con người chỉ biết săn bắn hái lượm, ăn thức ăn
sống, cuộc sống của họ phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên, họ chưa biết
chăn nuôi trồng trọt, chưa biết tích luỹ thức ăn. Có thể nói đây là thời kỳ sơ
khai của loàI người. Sau đó đến hình thái chiếm hữu nô lệ con người đã văn
minh hơn họ không còn biết ăn tươi nuốt sống và đã biết lao động để tạo ra
của cải vật chất.
Hai giai cấp cơ bản là chủ nô và nô lệ, quan hệ giữa hai giai cấp đó
là quan hệ bóc lột hoàn toàn của cải vật chất và con người. Nô lệ biến thành
công cụ lao động.
Hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa ra đời đưa loài người lên
nấc thang cao hơn của nền văn minh, xã hội đã phong phú hơn về giai cấp.
Giai cấp thống trị là giai cấp cơ bản. Thủ đoạn bóc lột của chúng tinh vi
hơn gấp nhiều lấn so với sự bóc lột trước trong xã hội chiếm hữu nô lệ và
phong kiến. Người công nhân làm thuê bị bóc lột sức lao động qua giá trị
thặng dư, sự làm việc quá sức Mặc dù tư bản xã hội chủ nghĩa tạo ra một
lượng của cảI vật chất rất lớn cho xã hội, nhưng bản chất bóc lột cùng
những mâu thuẫn khác là không thể đIều hoà. Phần đông con người trong
xã hội tư bản chủ nghĩa đều bị mất quyền lợi, mất bình đẳng. Cả 3 chế độ
nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa có những đặc đIểm riêng nhưng nó đều
là chế độ có khác những mâu thuẫn đối kháng không thể đIêu hòa giữa giai
cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột, và dựa trên sự tư hữu về sản xuất. Giai
13
cấp bóc lột là giai cấp thống trị, mọi hoạt động về mặt kinh tế chính trị xã
hội đều chỉ phục vụ cho quyềnlợi của chính họ.
Một hình thái kinh tế xã hội tồn tại được thì nó phải có những mặt tốt
nhất định của nó chúng ta cũng không thể phủ nhận những thành quả mà
các hình thái kinh tế xã hội nói trên đã đạt được. Xã hội cộng sản nguyên
thuỷ là chế độ xã hội đầu tiên đặt nền móng cho sự phát triển của loài
người. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ giai cấp thống trị bắt đầu tích luỹ của
cải cho xã hội, quan trọng nhất là nó đưa con người ra khỏi thời kì mông
muội hoang dã. Xã hội phong kiến là bước trung gian để loài người chuyển
sang một nền văn minh mới nó hình thành những tiền đề tốt cho sự ra đời
của xã hội tư bản chủ nghĩa. Nền sản xuất tư bản chủ nghĩa không chỉ còn
là sản xuất nông nghiệp, con người đã được tiếp cận với sản xuất nông
nghiệp với những thành tựu khoa học, kỹ thuật nó đã tạo ra những khả năng
phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, nó tạo ra một khối lượng của cải vật
chất cho nhân loại bằng tất cả các xã hội trước cộng lại.
Hình thái kinh tế xã hội là chế độ xã hội bước đầu vừa phát huy thừa
kế những thành quả của chủ nghĩa tư bản, đồng thời khắc phục những mâu
thuẫn những hạn chế của tư bản chủ nghĩa. Quan hệ sản xuất được xây
dựng trên cơ sở của lực lượng sản xuất và trình độ phát triển cao, cơ sở hạ
tầng phục hợp với kiến trúc thượng tầng.
Song Việt Nam từ một nền kinh tế tiểu nông muốn thoát ra khỏi
nghèo nàn lạc hậu và nhanh chóng đạt đến trình độ một nước phát triển
bằng con đường đi lên chủ nghĩa xã hội tất yếu phải tiến hành công nghiệp
hoá - hiện đại hoá đất nước.
2) Mục đích
Mục tiêu của công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta hiện nay như
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định là : xây dựng
14
nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cơ
cấu kinh tế lập hiến, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng
an ninh vững chắc dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh, và
nước ta đã chuyển sang một thời kỳ phát triển mới thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá - hiện đại hoá. Đây là những nhận định rất quan trọng đối với
những bước đi tiếp theo trong sự nghiệp đổi mới.
Công nghiệp hoá hiện đại hoá là một quá trình nhằm đưa nước ta từ
một nề công nghiệp lạc hậu thành một nền công nghiệp hiện đại. Hiện đại
hoá là mục tiêu cơ bản của văn minh hiện đại thể hiện xu hướng lịch sử tiến
bộ loài người.
Đó là nhiệm vụ quan trọng có tầm cỡ lớn đòi hỏi phải đi từ cái cụ thể
đến cái tổng thể. Trước hết cần hiểu rõ thực trạng và những định hướng
chung của Việt Nam. Trình độ lực lượng sản xuất ở mức độ thấp, quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, lại không phải từ chủ nghĩa tư bản mà từ bươcs quá
độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chủ nghĩa tư bản.
Vì vậy, cần phải nhận thức đầy đủ và sáng tạo các quy luât khách
quan trong đó quy luật sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất. Là quy luật cơ bản nhất nhằm cải tạo các thành phần kinh
tế khai thác mọi tiềm năng sản xuất. Phát huy tính chủ đạo sáng tạo của chủ
thể các thành phần kinh tế trong nền kinh tế nhiều thành phần.
Chúng ta phải phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần và sử dụng
các hình thức kinh tế trung gian quá độ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta mà Đại hội VI vạch ra là đúng đắn.
Đại hội VII của Đảng cũng chỉ rõ “. . . phù hợp với sự phát triển của
lực lượng sản xuất thiết lấp từng bước quan hệ sản xuất từ xã hội chủ nghĩa
từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu phát triển nền kinh tế
15
hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng sản xuất chủ nghĩa tiến hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”.
Ngày nay trên phạm vi toàn thế giới công nghiệp hoá hiện đại hoá
đang được coi là phương hướng chủ đạo, trải qua các nước đang phát triển.
Công nghiệp hoá thực chất là xây dựng cơ sở vật chất kinh tế của chủ nghĩa
xã hội, đó không chỉ đơn giản là tăng htêm tốc độ và tỷ trọng của sản xuất
công nghiệp bằng nền kinh tế mà là quá trình chuyển dịch cơ cấu, đổi mới
căn bản về công nghiệp.
Hơn nữa, sự vận dụng đúng đắn các quy luật quan hệ sản xuất phảI
phù hợp với tính chất và tình độ phát triển của lực lượng sản xuất là cần
thiết. Bên cạnh đó từng bước xây dựng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng. Đặc biệt là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Thực hiện đa dạng
hoá về tình hình sản xuất quản lý phân phối theo lao động.
3) Thực trạng sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt Nam.
Trước đây trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước
chúng ta đã xác định công nghiệp hoá “là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội” song nước ta vẫn mắc phảI sai lầm bằng cách
nhận thức về công nghiệp hoá.
Từ cuối những năm 70, đất nước đã lâm vào khủng hoảng kinh tế xã
hội với những khó khăn gay gắt. Trong sản xuất sản phẩm làm ra không đủ
chất lượng lạm phát càng tăng. Kìm hãm sự phát triển kinh tế đất nước đời
sống xã hội thấp kém, nghèo khổ.
Trước đây chúng ta do không thấy được quy luật lực lượng sản xuất
phát triển sẽ kéo theo quan hệ sản xuất phát triển nên chúng ta đã đI ngược
lạI quy luật này và muốn áp đặt một quan hệ sản xuất để kéo theo sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Sau khi tiến hành đổi mới chúng ta đã tuân
theo những quy luật chuyển nền kinh tế sang nền kinh tế nhiều thành phần
16
hoạt động trên cơ chế thị trường làm cho năng suất lao động tăng, lực
lượng sản xuất phát triển do đó quan hệ sản xuất càng phát triển theo.
Mặt khác phải tạo ra yếu tố tích cực biến các yếu tố chủ quan vì nó
có tính độc lập tương đối vì rằng ý thức có tính vượt trước nên quan hệ sản
xuất có khả năng vượt so với sản lượng sản xuất. Đây là sự phù thuộc có
tính vượt trước dựa trên cơ sở suy luận khoa học lôgíc, dựa trên các quy
luật cao hơn là sự vượt trước kiến trúc thượng tầng so với cơ sở hạ tầng.
Đáng tiếc là vì chúng ta muốn rút ngắn thời kỳ quá độ nên chúng ta
đã tuyệt đối hoá nhân tố chủ quan và chính trị cho rằng chỉ cần có sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản thì chúng ta có thể làm cho quan hệ sản xuất phù
hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Mặt khác là do chưa
hiểu thấu đáo về công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã hành
động trái quy luật, đã không làm những việc phải làm, giáo điều mô hình
kinh tế của người khác. Trong khi những mô hình kinh tế đó chỉ là sản
phẩm của tưởng tượng chủ quan duy ý thức.
Cả một thời gian dài chúng ta đã quá đề cao vai trò của quan hệ sản
xuất. Chúng ta đã không thấy rõ bước đi có tính quy luật trên con đường
tiến lên chủ nghĩa xã hội. Vì thế phải tiến hành ngay cuộc cải tạo xã hội
chủ nghĩa đối với nền kinh tế quốc dân.
Nền kinh tế tuy đạt được tốc độ tăng trưởng nhất định nhưng sự tăng
trưởng đó không có phát triển vì dựa vào bao cấp, bởi chi ngân sách lạm
phát vay nợ nước ngoài. Con người được giải phóng và bị lâm vào tình
trạng khủng hoảng, tăng chi phí lớn của cải xã hội.
Do tư tưởng chủ quan duy ý chí nông nổi đi đến chủ nghĩa xã hội
nên đã mở rộng kinh tế quốc doanh quá mức chịu đựng
+ Trong nông nghiệp: nông nghiệp nước ta nhiều năm lâm vào khủng
hoảng.Trước đây do nóng vội gượng ép và vi phạm nguyên tắc cơ bản của
17
hợp tác xã là tự nguyện mang tính chất cương hữu mọi người không làm
nghề gì cũng đều phảI vào hợp tác xã. Mà trong quá trình hình thành nên
tập thể này lạI chưa được chuẩn bị kỹ, một mặt dựa vào kinh tế quốc dân,
mặt khác dựa vào bao cấp nên dẫn đén tình trạng vốn ít, trang bị đơn giản,
trình độ tổ chức kinh doanh kém.
Nông nghiệp lạc hậu làm cho sử dụng lãng phí nguồn đất đai, sức lao
động, vốn cơ sở vật chất của xã hội làm cho thị trường rộnglớn của nông
thôn không phát triển và từ đó làm hãm các ngành phát triển.Về xã hội sự
lạc hậu của nông nghiệp và nông thôn làm cho khoảng cách giàu nghèo
giữa thành thị và nông thôn ngày càng lớn. Đồng thời còn tăng thêm làn
sóng di dân từ nông thôn vào thành thị tạo nên những tệ nạn xã hội ảnh
hưởng trật tự an ninh.
+ Trong công nghiệp: ưu tiên phát triển công nghiệp nặng coi đó là giải
pháp cơ sở vật chất - kỹ thuật cho công nghiệp mà không coi trọng đúng
mức của phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Công nghiệp hoá cũng
được hiểu một cách đơn giản là quá trình xây dựng một nền sản xuất được
cơ hí hoá trong tất cả các ngành kinh tế quốc dân. Chúng ta thực hiện chủ
nghĩa xã hội ồ ạt với quy mô lớn, quốc hữu hoá toàn bộ các xí nghiệp tư
nhân.
Kế hoạch kinh tế của nước ta hầu như dậm chân tại chỗ với những viện
nghiên cứu bao cấp chỉ đạo thì làm sao không thể phát huy được năng lực
sãng tạo với đồng vốn ít không đủ để cho nghiên cứu, không cung cấp đầy
đủ kinh phí cho các việc ứng dụng nó vào thực tiễn sản xuất. Trong khi đó
nhìn ra bên ngoài khoa học kỹ thuật của các nước phát triển như vũ bão và
trở thànhlực lượng sản xuất trực tiếp thấm vào tất cả các yếu tố của con
người.
4) Một số biện pháp.
18
Để thực hiện được mục tiêu Đảng đề ra là làm cho dân giàu nước
mạnh xã hội công bằng văn minh, đất nước chuyển mình lên chủ nghĩa xã
hội thì đi đôi với việc củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất. Chúng ta nhất
thiết phải phát triển lực lượng sản xuất, vì không có lực lượng sản xuất
hùng hậu với năng suất cao thì không thể nói đến công nghiệp xã hội.
Mà muốn có lực lượng sản xuất hùng hậu và năng suất lao động cao
thì không chỉ dựa vào nông nghiệp, sử dụng lao động thủ công mà phải
phát triển công nghiệp đi lên đổi mới công nghệ ngày càng hiện đại . Nói
cách khác là phải tiến hành theo hiện đại hoá. Đó là bước đi tất yếu của một
quốc gia muốn đi lên từ một nền kinh tế lạc hậu, nghèo nàn và đó cũng là
xu thế chung của lịch sử.
Một lần nữa ta khẳng định tính tất yếu của công cuộc hoá hiện đại
hoá ở Việt Nam. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đưa đất nước ta vượt qua
một chặng đường dài đi lên công nghiệp xã hội. Đó là sự tụt hậu ngày càng
xa của các nước đang phát triển so với các nước phát triển. Công nghiệp
hoá - hiện đại hoá là để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã
hội.
Nhận định được những điều nói trên và những bài học kinh nghiệm
rút ra từ thực tế ở Việt Nam, Đảng ta đã xác định lại tư tưởng nhận thức
một cách đúng đắn hơn.
A) Xây dựng và phát triển cơ cấu kinh tế mới.
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá ngày nay không thể hiểu như trước
kia. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá ngày nay không phải đơn thuần là sự
phát triển mạnh mẽ ngành công nghiệp mà còn là quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế phù hợp với sự đổi mới cơ bản về kinh tế và công nghiệp hoá -
hiện đại hoá tất cả các ngành kinh tế quốc dân. Từ đó tạo ra sự cân đối hài
hoà giữa các ngành trong tổng thể nền kinh tế quốc doanh.
19
Cần phải đổi mới cả tư duy suy nghĩ và hành động. Công cuộc đổi
mới mà Đảng đã lựa chọn là đúng đắn, con đường đó là công nghiệp hoá -
hiện đại hoá với việc hình thành và chuyển dịch kinh tế.
* Phương hướng cụ thể.
Điều đầu tiên phải giải quyết là chuyển đổi cơ cấu “công - nông
nghiệp và dịch vụ” phù hợp với xu hướng “mở” của nền kinh tế. Vấn đề
này được giải quyết tạo nền tảng vững chắc cho việc phân công lại lao
động hợp lý trong các ngành kinh tế và điều chỉnh hợp lý với cơ cấu đầu tư.
Hướng chuyển dịch đó là giá trị các ngành dịch vụ tăng nhanh, tỉ lệ
sản lượng chiếm phần lớn trong GDP Tỉ trọng giá trị sản lượng nông
nghiệp giảm dần ( nhưng lượng tuyệt đối tăng hàng năm).
+ Nông nghiệp (kể cả lâm ngư nghiệp): trong một số năm trước mắt vẫn
được coi là mặt trận hàng đầu. Nhà nước cần có những chính sách khuyến
khích đầu tư vốn khoa học công nghệ nhằm phát huy thế mạnh tiềm năng
của các vùng, hình thành những vùng chuyên canh tạo cơ cấu cây trồng,
vật nuôi hợp lí đa dạng phù hợp với điều kiện sinh thái ở nước ta .
+ Công nghiệp: hình thành một số ngành công nghệ hiện đại có hàm
lượng khoa học - công nghệ hiệu quả kinh tế cao trên cơ sở những tiền đề
cần phảI đạt được đó là: điện tử tin học, công nghiệp sinh học, vật liệu mới
và cơ khí chính xác.
Các ngành thuộc kết cấu hạ tầng phảI đI trước một bước gồm năng
lượng(ĐIện than, dầu khí) giao thông vận tải.
Từ nay đến năm 2010 phải phát triển tiếp một số ngành sản xuất tiêu
dùng và xuất khẩu đi đôi với việc hình thành một số công nghiệp tư liệu
cần thiết.
20
+ Công nghiệp chế biến nông thổ thuỷ sản: cần được chú trọng nhằm
nâng cao giá trị của các mặt hàng lương thực thực phẩm nhằm thu hút
khách hàng trên thị trường quốc tế.
+ Dịch vụ: Đối với ta hiện nay phải hết sức coi trọng và phát huy thế
mạnh của các hoạt động dịch vụ đặc biệt là dịch vụ có thu ngoại tệ mạnh.
Cần nâng cao năng lực và trình độ hiện đaị và các ngành dịch vụ kỹ
thuật,ngân hàng, bưu chính viễn thông.
Các dịch vụ về hàng hải và hàng không có triển vọng to lớn,chúng ta
cần chú trọng phát triển cụ thể như các dịch vụ vận tải biển,dịch vụ vận tải
biển quá cảnh.
Ngoài ra vấn đề phân công lại lao động xã hội và tranh thủ vốn đầu
tư Nhà nước cũng như vấn đề giải quyết sớm để phát triển kinh tế.
B) Công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn.
Nước ta hiện nay là một Nhà nước với 80% dân cư đang sinh sống
bằng sản xuất nông nghiệp. Đây là một địa bàn tập trung đạI bộ phận người
nghèo. Vì vậy, phát triển nông nghiệp và kinh tế xã hội nông thôn đã đang
và sẽ là mối quan tâm hàng đầu của chúng ta. Song nông nghiệp không thể
tự mình thay đổi, đổi mới cơ sở vật chất kĩ thuật công nghệ không có khả
năng tăng trưởng nhanh để tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho nông dân
mà phảI có tác động mạnh mẽ của công nghiệp, dịch vụ . Chỉ có như vậy sẽ
xoá vỡ được trạng thái trì trệ của nền kinh tế nông nghiệp sản xuất nhỏ xoá
đói giảm nghèo nâng cao mức thu nhập bình quân.
Phần trên đã cho ta thấy thực tế trong mấy năm chuyển đổi sản xuất
nông nghiệp được phát triển rõ rệt. Hơn nữa theo kinh nghiệm của các
nước Châu á - Thái Bình Dương sự phát triển công nghiệp giai đoạn đầu
chủ yếu được đưa vào nền tảng của nông nghiệp. Công nghiệp hoá phảI tạo
cơ sở cho công nghiệp nông thôn phát triển.
21
Hàn quốc khuyến khích cơ sở công nghiệp nông thôn thu hút công
nghiệp chế tạo và dịch vụ qua phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn. Chính
vì những bước đó mà việc phát triển nông nghiệp và kinh tế xã hội ở nông
thôn là một việc làm cần thiết trong thời gian trước mắt nhằm đẩy tới một
bước công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta.
* Chính sách đường lối phát triển
Trong khu vực nông thôn và nông nghiệp phương hướng hàng chiến
lược đó là thay thế nhập khẩu và có hiệu quả thấp bằng hàng hoá có chất
lượng cao để xuất khẩu. Nhiều người cho rằng đây là hướng sai lầm nhưng
thực tế không phải vậy.
Nông nghiệp là ngành sản xuất có đặc trưng là sản phẩm nó cần thiết
cho mọi cuộc sống hàng ngày. Phát triển sản xuất nông nghiệp cung cấp
sản phẩm đủ trong nước rồi mới xuất khẩu là một lẽ đương nhiên những
công cụ sản phẩm chỉ trong nước còn với xã hội là một lẽ đương nhiên bởi
ta không thể nhập lương thực mà lại không sản xuất được ra.
Tuy nhiên sản xuất nông nghiệp cần được quá trình đầu tư khoa học
- công nghệ để đem lại chất lượng cao cho sản phẩm. Công nghiệp nhẹ cần
được phát triển trong lĩnh vực nông nghệ là công nghệ để sản xuất thuốc
trừ sâu phân bón vi sinh cây không gây độc hại.
C) Xây dựng mới kết cấu hạ tầng kinh tế.
Kết cấu hạ tầng vừa là điều kiện, vừa là mục tiêu của công nghiệp
hoá - hiện đại hoá. Để chuẩn bị cho nền kinh tế phát triển cao hơn vào
những năm bước sang thế kỷ 21 thì cơ sở hạ tầng cần phải được hiện đại
hoá một phần đáng kể. Đó là hệ thống giao thông vận tải phải được nâng
cấp cao hơn nữa, hiện đại hoá sớm hệ thống bưu chính viễn thông trong và
ngoài nước, bảo đảm cung cấp điện cho đô thị, cho công nghiệp phảI liên
tục, phảI đIện khid hoá một phần quan trọng. Vùng nông thôn cung cấp
22
nước sạch cho đô thị từng bước hoàn chỉnh kết cấu hạ tầng cho từng vùng
lãnh thổ, trước hết là khu vực công nghiệp, các đô thị lớn.
Từ nay đến 2010 và sau đó chúng ta có nhiều dự án xây dựng kết cấu
hạ tầng quy mô lớn như : xây dựng tuyến đường quốc lộ 1A, tuyến đường
nối liền Bắc - Trung - Nam đạt tiêu chuẩn quốc tế, luận chứng kinh tế khoa
học đã phê duyệt với trên 50 công ty trong và ngoài nước tham gia đấu thầu
với số vốn hơn 2 tỷ USD. Một loạt các cảng bến được xây dựng mới, nâng
cấp (cảng Dung Quất được đầu tư hơn 1 tỷ USD trong tương lai sẽ tính
thành cảng biển lớn vào bậc nhất Đông Nam á).
Nhìn lại cơ sở hạ tầng của nước ta, một số đã phát huy hiệu quả kinh
tế của nó như nhà máy thuỷ điện Hoà Bình, khu gang thép Thái Nguyên
đang đi vào đổi mới công nghệ, nhà máy xi măng Bỉm Sơn, Hoàng Thạch.
Trong tương lai ta sẽ xây dựng trung tâm Đại học, khoa học công nghiệp, y
tế thể dục, trung tâm quốc gia.
D) Phát triển kinh tế nhiều thành phần.
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đòi hỏi sự tham gia của mọi thành
phần kinh tế. Sau những năm mở cửa, nền kinh tế cùng với những chính
sách của Đảng và Nhà nước khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát
triển. Không như trước kia ngày nay các thành phần kinh tế từ quốc doanh
đến tư nhân phát huy hết tiềm năng của mình nằm trong nền kinh tế thị
trường. Chúng bổ sung cho nhau cạnh tranh nhau tạo nên một sự phát triển
có hiệu quả đẩy nước ta lên một nấc thang cao hơn của công nghiệp hoá -
hiện đại hoá đất nước.
Kinh nghiệm của chính nước ta đã chứng tỏ công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đòi hỏi phải có sự tham gia của mọi thành phần kinh tế trong nền
kinh tế quốc dân. Có như vậy chúng ta mới phát huy được tư tưởng Hồ Chí
Minh “ Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết”.
23
Trong thời gian tới để tạo đIều kiện cho các thành phần kinh tế phát
huy tính năng động của Người trong công cuộc đổi mới và xây dựng tổ
quốc chúng ta cần tăng cường quản lý chỉ đạo thống nhất quá trình mở cửa,
chuẩn bị tốt các chương trình kế hoạch, dự án hợp tác với bên ngoài. Đồng
thời phải quán triệt các quyết định chủ trương đã đề ra.
Đó là vấn đề trọng tâm nhất của chính sách đổi mới mà Đảng ta đề ra
song ta cần phải kết hợp với những chính sách khác như phát triển công
nghiệp trên các địa bàn thuận lợi có điều kiện . Hiện nay, ta đang chủ
trương đầu tư thúc đẩy mạnh các ngành công nghiệp chế biến nông lâm
thuỷ sản, cơ khí, điện tử tin học, các ngành nguyên vật liệu.
* Một số vấn đề cần lưu ý
Xã hội luôn luôn vận động và phát triển không ngừng, do đó ở nước
ta khi tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng phải đặt trong quy luật
vận động. Muốn tạo ra những bước chuyển biến tích cực của nền kinh tế
nước ta đòi hỏi các nội dung của công nghiệp hoá cũng như phải thường
xuyên thay đổi và bổ sung.
Các nội dung trong công nghiệp hoá phải liên hệ chặt chẽ với nhau
và bổ sung cho nhau. Quan trọng nhất là luôn phải chú ý đến việc xây dựng
quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển lực lượng
sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Trong quá trình tiến hành cần phải đưa con người lên vị trí trung tâm
đặc biệt là con người lao động. Đối với các nước đang phát triển, để xây
dựng một nền kinh tế mạnh bền vững, không thể chỉ dựa vào vay mượn hay
bỏ tiền ra mua công nghệ của nước ngoài mà phải dựa trên cơ sở khả năng,
trí tuệ, phảI bằng tư tưởng văn hoá của mình mới có thể biến công nghệ
hiện đạI của thế giới thành cái cuả mình.
24
Không thể dựa trên vài nguồn tài nguyên thiên nhiên hay vào số
lượng những mỏ than, giếng dầu, đồn điền cao su hay ruộng đồng có sẵn
mà phải biết phát huy yếu tố con người. Đây cũng là bài học rút ra từ thực
tiễn của nhiều nước trên thế giới có kinh tế phát triển như: Nhật, Hàn Quốc,
Đài Loan, Hồng Kông. . . phát triển con người trở thành xu thế khách quan
trong xã hội hiện đại, là cơ sở tiền đề và thước đo cho sự phát triển của mỗi
quốc gia. Đây là chuyên đề rộng lớn và toàn diện bao trùm toàn bộ sự phát
triển xoay quanh con người.
Nếu ta coi phát triển con người là một mục tiêu đầu tiên, là động lực
căn bản để phát triển xã hội, lấy việc nâng cao mặt bằng dân trí và đào tạo
bồi dưỡng nguồn nhân lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển và
xem đó là nhân tố quyết định tháng lợi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân của tất cả
thành phần kinh tế trong đó nhà nước đóng vai trò chủ đạo, cán bộ và công
chức nhà nước nói chung, cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý kinh tế nói riêng
là phương pháp chủ yếu và quyết định.
Đại hội lần thứ VIII đã xây dựng nhiệm vụ chiến lược chế độ nhằm
xây dựng một đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng thành thạo
chuyên môn nghiệp vụ có khả năng và trình độ để đáp ứng nhu cầu của tình
hình nhiệm vụ trong thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước.
Trong quá trình tiến hành cách mạng cũng có những thuận lợi nhưng
bên cạnh đó có rất nhiều khó khăn đòi hỏi chúng ta phải có cách nhìn nhận
và phương pháp khoa học sáng tạo, phải có quan điểm khách quan toàn
diện phát triển.