Tải bản đầy đủ (.pdf) (51 trang)

Tìm hiểu "Vợ chồng A Phủ" của TôHoài pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.45 KB, 51 trang )

Tìm hiểu "Vợ chồng A Phủ" của Tô
Hoài


VỢ CHỒNG A PHỦ CỦA TÔ HOÀI

Năm 1952 Tô Hoài đi với bộ đội trong chiến dịch giải
phóng Tây Bắc. Trong đợt công tác 8 tháng ấy, nhà văn
đã sống với nhân dân nhân nhiều dân tộc ở những khu
căn cứ du kích và những vùng bị địch chiếm đóng trước
đây. Tô Hoài thuật lại: “Cái kết quả lớn nhất và trước nhất
của chuyến đi tám tháng ấy là đất nước và người miền
Tây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều quá, tôi không thể
bao giờ quên. Tôi không thể bao giờ quên được lúc vợ
chồng A Phủ tiễn tôi ra khỏi hốc núi làng Tà Sùa rồi cùng
vẫy tay gọi theo: “Chéo lù! Chéo lù!” (trở lại! Trở
lại!).Không bao giờ tôi quên được vợ chồng Lý Nủ Chu
tiễn chúng tôi dưới chân núi Cao Phạ cũng vẫy tay kêu:
“Chéo lù! Chéo lù!”. Hai tiếng “Trở lại! Trở lại!” chẳng
những nhắc tôi có ngày trở lại, phải đem trả lại cho những
người thương ấy của tôi một kỉ niệm tấm lòng mình, một
cái gì làm hiện lại cả cuộc đời người Hmông trung thực,
chí tình, dù gian nan đến thế nào bao giờ cũng đợi cán bộ,
đợi bộ đội, bao giờ cũng mong anh em trở lại.(…). Hình
ảnh Tây Bắc đau thương và dũng cảm lúc nào cũng thành
nét, thành người, thành việc trong tâm trí tôi (…) ý thức
thiết tha với đề tài là một lẽ quyết định, vì thế tôi viết
Truyện Tây Bắc.

Đoạn tự thuật trên đây đã nói khá rõ về hoàn cảnh và
nhiệt tình thúc đẩy tác giả sáng tác Truyện Tây Bắc.


Truyện Tây Bắc viết năm 1953, gồm ba truyện mà Vợ
chồng A Phủ là truyện ngắn thành công nhất (hai truyện
kia là Cứu Đất Cứu Mường và Mường Giơn). Tác phẩm
được tặng giải nhất giải thưởng văn học của Hội văn nghệ
Việt Nam năm 1954-1955.

I – CỐT TRUYỆN VÀ CHỦ ĐỀ VỢ CHỒNG A PHỦ

1. Cốt truyện

Dựa vào một câu chuyện có thật, Tô Hoài viết truyện Vợ
chồng A Phủ.

Truyện ngắn này kể lại cuộc đời của đôi vợ chồng người
Hmông – Mị và A Phủ – từ chỗ là kẻ nô lệ đau khổ trong
nhà tên thống lý Pá Tra, rồi giúp nhau thoát được, đến khi
gặp cán bộ cách mạng trở thành những quần chúng trung
kiên, những đội viên du kích tích cực.

Cốt truyện của tác phẩm khá đơn giản, bám sát theo diễn
biến của cuộc đời hai nhân vật chính và được trình bày
theo trình tự thời gian. Có thể thấy hai chặng của câu
chuyện diễn ra ở hai địa điểm Hồng Ngài và Phiềng Sa.
Đọan một là thời gian Mị và A Phủ ở Hồng Ngài. Đọan này
có thể xem là một tình tiết khá trọn vẹn, có giới thiệu, mở
mối, phát triển, thắt nút và giải quyết. Hai nhân vật chính
được giới thiệu lai lịch, dung mạo, rồi cùng sống trong một
hòan cảnh và dẫn tới sự thông cảm, gặp gỡ giữa họ. Mâu
thuẫn giữa A Phủ và Mị với bố con Pá Tra – đại diện cho
thế lực phong kiến ở miền núi – đã phát triễn đến gay gắt,

đưa tới hành động đấu tranh tự phát để giải thoát của Mị
và A Phủ: cắt dây trói, trốn đi. Đoạn đầu là quãng đường
đấu tranh tự phát của họ.

Đọan thứ hai là quãng thời gian Mị và A Phủ ở Phiềng Sa.
Đến Phiềng Sa, Mị và A Phủ đã thành vợ chồng. Họ mong
muốn và bắt tay vào xây dựng một cuộc sống hạnh phúc
đơn sơ nhưng lại bị bọn Tây ở đồn Bản Pe cướp phá. Từ
đây bắt đầu một quá trình giác ngộ của vợ chồng A Phủ,
qua hai buớc: gặp Tây đồn và gặp cán bộ A Châu. Những
ngộ nhận được gải quyết và hình thành ở họ nhận thức
đúng đắn về bạn và thù. Họ còn được thử thách và
trưởng thành trong cuộc chiến đấu chống giặc lên càn
quét khu du kích Phiềng Sa. Đoạn thứ hai là quá trình giác
ngộ và trưởng thành của Mị và A Phủ dưới ánh sáng của
Đảng, trong hoàn cảnh khu du kích Phiềng Sa.
Tác giả đã dùng một lối kể chuyện mạch lạc, khá đơn
giản, nhân vật cũng phân ra hai tuyến đối lập rõ rệt, do đó
mà truyện ít nhiều gần gũi với truyện dân gian. Chính
cách kể chuyện này đã phù hợp với nội dung và nhân vật
trong truyện, góp phần tạo nên sự thống nhất thẫm mỹ
của hình thức với nội dung tác phẩm.

Cốt truyện có hai phần như vậy được diễn biến khá tự
nhiên: nhưng nó cũng bộc lộ được nhược điểm: chưa làm
rõ sự câu kết giữa hai thế lực phong kiến và đế quốc, nên
hai vấn đề chống đế quốc và phong kiến chưa thật gắn bó
nhuần nhuyễn, hai chặng đường của các nhân vật chính
cũng còn tách rời. Chưa kể một nhược điểm nữa ở đoạn
hai, là đời sống tâm hồn của nhân vật, nhất là Mị – ít được

soi sáng, diễn tả, nên nhân vật cũng giảm sức thu hút với
người đọc.

2. Chủ đề

Con đường đi và số phận của hai người thanh niên
Hmông – Mị và A Phủ – khá tiêu biểu cho vận mệnh lịch
sử của nhân dân các dân tộc thiểu số miền núi trong cách
mạng. Đấy là con đường từ tự phát đến tự giác đấu tranh
chống đế quốc và phong kiến, từ trong đau khổ tăm tối
vươn ra ánh sáng, dưới sự dìu dắt của cán bộ Đảng.
Trong quá trình ấy, những người nông dân lao động
nghèo khổ ở miền núi đã bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp
và trở thành người quần chúng cách mạng, những con
người mới.

Có thể xem nhận định trên là chủ đề truyện ngắn Vợ
chồng A Phủ. Cùng với hai truyện nữa trong tập Truyện
Tây Bắc, Vợ chồng A Phủ là tác phẩm thành công xuất
sắc đầu tiên về đề tài miền núi trong nền văn xuôi cách
mạng hiện đại. Có thể nói Tô Hoài đã góp phần đổi mới
đề tài miền núi trong nền văn học ta từ trước cho đến lúc
đó. Với Truyện Tây Bắc, hình ảnh chân thực của các dân
tộc miền núi trong quá trình phát triển cách mạng đã được
phản ánh vào văn học, với hai vấn đề cơ bản là đấu tranh
chống đế quốc và phong kiến.
Ở truyện Vợ chồng A Phủ, trong khi tập trung diễn tả quá
trình đến với cách mạng của nhận vật, tác giả cũng đồng
thời đề cập đến những vấn đề có ý nghĩa trong cuộc sống
của nhân dân miền núi: vấn đề giải phóng phụ nữ – vấn

đề tình yêu và hạnh phúc của thanh niên… Những vấn đề
ấy làm sâu sắc và phong phú hơn ý trung tâm của tác
phẩm.

II – PHÂN TÍCH ĐOẠN TRÍCH [1]

Đoạn trích giảng là phần đầu của truyện, kể về lai lịch cô
Mị, cuộc sống đau khổ của Mị trong nhà Pá Tra và sức trỗi
dậy mãnh liệt của lòng yêu đời, ham sống ở cô, trong một
ngày xuân.

1. Cô Mị và cuộc đời làm dâu gạt nợ trong nhà thống lý Pá
Tra

Mị xuất hiện ngay trong câu đầu của truyện. Giữa khung
cảnh tấp nập, giàu có của nhà Pá Tra “nhiều nương,
nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng” [2], người đọc
không thể không chú ý đến vị trí xuất hiện của Mị: “ngồi
quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”. Một
vị trí có rất nhiều ngụ ý, chẳng phải thế sao, khi cô Mị
được đặt ngang với những tảng đá và cái tàu ngựa? Cô
Mị lại thường xuyên xuất hiện ở vị trí ấy, như gắn vào
những vật kia, tạo nên một mảng sống riêng, cái mảng
sống im lìm, tăm tối, cực nhọc nó phơi bày ra cạnh cái
giàu sang, tấp nập của nhà quan thống lý, nhưng chính nó
cũng là một phần của hình ảnh trọn vẹn về nhà thống lý
Pá Tra. Thêm một nét phác về chân dung nhân vật gợi
cho người đọc những băn khoăn chờ đợi sự lí giải của tác
giả: “Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải,
chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng

cúi mặt, mặt buồn rười rượi“.

Như thế là, chỉ trong mấy câu mở đầu, tác giả đã làm
được rất khéo việc giới thiệu nhân vật và hoàn cảnh.

Như để trả lời cho những băn khoăn ở trên, tác giả kể lại
câu chuyện cô Mị về làm dâu nhà Pá Tra.

Mị vốn là một cô gái nhà nghèo, trẻ, đẹp và nhất là Mị rất
giàu lòng yêu đời, ham sống, lại thêm tài thổi sáo nữa.
Đấy là một cô gái chăm làm (“Con nay đã biết cuốc nương
làm ngô, con phải làm ngô trả nợ cho bố” – lời Mị nói với
bố). Mị cũng thật là một đứa con hiếu thảo (khi bị ép về
nhà Pá Tra, Mị muốn quyên sinh, nhưng nghĩ đến bố sẽ
khổ hơn, nên không đành lòng chết nữa). Tóm lại, đấy là
một cô gái rất xứng đáng để hưởng hạnh phúc và đang
sống những ngày tươi đẹp của tuổi trăng tròn, dù trong
cảnh nghèo khó. Mùa xuân đến, Mị sống những giờ phút
hồi hộp sung sướng chờ nghe những tiếng sáo quen
thuộc của ngừơi yêu; và không ít những chàng trai Hmông
đã say mê cô gái con nhà nghèo ấy: “trai đến đứng nhẵn
cả chân vách đầu buồng Mị”.

Thế nhưng chính trong một đêm xuân như thế, Mị đã bị ép
về làm con dâu gạt nợ cho nhà Pá Tra. Do đâu? Chỉ vì
món nợ truyền kiếp của bố mẹ Mị: Bố mẹ Mị ngày trước
lấy nhau, không có tiền cưới, phải đến vay của bố thống lý
Pá Tra. “…mỗi năm đem nộp lãi cho chủ nợ một nương
ngô. Đến tận khi hai vợ chồng già rồi mà vẫn chưa trả
được nợ. Người vợ chết cũng chưa trả hết nợ”. Mị mang

món nợ ấy như một thứ “tội tổ tông” của người nghèo, từ
lúc sinh ra đời! Tô Hoài đã tố cáo một hình thức bóc lột
của bọn phong kiến ở miền xuôi cũng như miền núi: hình
thức cho vay nặng lãi, nó đã buộc chặt bao nhiêu người
lao động nghèo khó vào số phận nô lệ, phụ thuộc bọn
thống trị giàu có.

Trong thời gian đầu bị bắt về làm vợ A Sử, Mị – bằng lòng
yêu tự do và ham sống mạnh mẽ – đã phản kháng quyết
liệt. Hàng mấy tháng ròng, đêm nào Mị cũng khóc, rồi Mị
quyết tự tử. Nàng Kiều của Nguyễn Du khi bị dấn thân vào
cuộc đời ô nhục, đã hơn một lần nghĩ đến quyên sinh mà
cũng không thóat được kiếp đọa đày đến mười lăm năm!
Cô Mị ở đây còn gặp tình cảnh chua xót hơn: cô có chết
thì món nợ vẫn còn, bố già còn khổ hơn nữa! Thế là Mị
không đành chết. Mị phải chịu đựng cuộc sống nô lệ.

Những năm tháng trong nhà Pá Tra là một chuỗi dài
những cực nhọc, vất vả nối tiếp nhau, là những sự bóc lột
và hành hạ của bọn chủ nô với kẻ nô lệ mà Mị phải chịu
đựng: “Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa, mà lúc nào cũng
chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau tiếp nhau vẽ ra
trước mắt, mỗi năm, mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm
lại… Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn
được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà
này thì vùi đầu vào việc cả đêm cả ngày”. Thêm vào sự
đày đọa về thể xác ấy, còn là ách áp chế về tinh thần. Mị
bị ràng buộc trong một ý nghĩ: bố con Pá Tra đã “trình ma”
mình là người nhà nó rồi, thì chỉ còn biết ở cho đến lúc
chết rũ xác ở đây thôi! Mê tín, thần quyền đã hỗ trợ đắc

lực cho giai cấp thống trị, nó là một thứ “thuớc phiện của
tinh thần” đối với người dân bị áp bức, như Mác đã nói.

Trong đoạn kể về cuộc đời làm dâu của Mị, Tô Hoài đã
không chỉ đứng ở chỗ tố cáo những sự áp bức bóc lột của
bọn phong kiến miền núi, mà còn nói lên một sự thật đau
xót này: con ngừơi bị áp bức cứ nhẫn nhục chịu đựng kéo
dài đến một lúc nào đó thì dường như bị tê liệt cả tinh
thần phản kháng. Cô Mị chính là nạn nhân như thế: “Ở lâu
trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng mình
cũng là con trâu , mình cũng là con ngựa, là con ngựa
phải đổi cái tàu ngựa nhà này đến cái tàu ngựa nhà khác,
con ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”. Và chân
dung Mị cũng được khắc đậm một nét này: “Mị cúi mặt
không nghĩ ngợi nữa”, “mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi
như con rùa nuôi trong xó cửa”. Mị sống như một cái
bóng, sống mà như chết. Suốt trong phần đầu của truyện,
Tô Hoài gần như không để nhân vật Mị có một lời nói trực
tiếp nào (trừ một câu nói với bố, trong đoạn hồi tưởng quá
khứ). Chi tiết về căn buồng Mị nằm, âm u, chạng vạng với
cái cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay đã là một biểu tượng
đậm nét cho cuộc đời nhân vật. Cái cửa sổ “lúc nào trông
ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là
nắng. Mị nghĩ rằng mình đành ngồi trong cái lỗi vuông ấy
mà trông ra cho đến chết thì thôi”. Thậm chí Mị cũng
không buồn nghĩ đến cái chết nữa: “lần lần, mấy năm qua,
mấy năm sau, bố Mị chết. Nhưng Mị cũng không còn nghĩ
đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa”. Khi một nạn nhân
đau khổ còn nghĩ đến cái chết để chấm dứt hoàn cảnh
sống bi kịch của mình, thì phải chăng trong họ còn một

chút sức phản kháng, còn tha thiết một cuộc sống có ý
nghĩa hơn. Nhưng Mị lúc này dường như đã phó mặc
cuộc sống của mình cho định mệnh, không nghĩ gì về thân
phận của mình nữa, thậm chí cũng không có ý thức về
thời gian sống nữa. Cô không nhớ rằng mình về làm dâu
nhà Pá Tra đã bao nhiêu năm. Và ngồi trong căn buồng
âm u nhìn qua cửa sổ, Mị không biết cái màu nhờ nhờ
trăng trắng ngòai kia là sương hay là nắng. Với Mị, sự
chuyển biến của thời khắc sớm tối hay là năm tháng qua
đi cũng không có ý nghĩa gì, không gợi cho cô cảm xúc gì,
cuộc sống chỉ còn là một màn sương mờ đục không dĩ
vãng, không hiện tại và tương lai!

Tất cả tình trạng đó là hậu quả của sự đọa đày dai dẳng,
nặng nề của ách thống trị phong kiến trung cổ đối với
những người lao động bị đẩy vào thân phận nô lệ. Ngòi
bút của Tô Hòai có sức tố cáo mạnh mẽ. Mặt khác chính
sự đè nén càng phũ phàng tàn bạo, thì sự trỗi dậy ở phần
sau của nhân vật càng có giá trị.

Trong phần đầu của tác phẩm, cuộc sống của Mị như bị
giam hãm trong cái không gian chật hẹp và tù đọng của
nhà Pá Tra với một nhịp điệu buồn tẻ, đơn điệu của
những công việc lao dịch lặp đi lặp lại “… lúc nào cũng chỉ
nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra
trước mặt, mỗi năm mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại”;
cuộc sống ấy diễn ra trong một thời gian cũng như ngưng
đọng với một ánh sáng mờ mờ đùng đục, cái sắc màu của
những hoàng hôn dài đằng đẵng, buồn tẻ đến tê tái mà ta

×