Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Giáo trình Quản lý tổng hợp vùng ven bờ part 6 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (257.03 KB, 11 trang )


56

vì quá mạo hiểmvà rủi ro. Trong khi đó, quá trình đô thịhóa và công nghiệp hóa vẫn diễn ra ở
vùng ven biển Việt Nam, mà các biện pháp kiểm soát ô nhiễm công nghiệp và ô nhiễm đô thị
nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra.
Các hoạt động khai thác ở vùng biển và vùng bờ cho đến nay thu được rất nhiều lợi ích.
Tuy nhiên, muốn tiếp tục có được thành công như vậy, cần phải tập trung tiến hành một số
hoạt động sau:

Cũng cố khung chính sách, pháp lý và thể chế liên quan đến nguồn lợi biển và ven
bờ;

Đầu tư thích đáng vào công tác bảo tồn và quản lý nguồn lợi tự nhiên và môi trường
vùng biển và ven bờ;

Đầu tư cải thiện cuộc sống cho cư dân và cộng đồng vùng ven biển theo những
phương thức do họ tự xác định và quyết định cho bản thân mình.
Dự thảo Chiến lược Quốc gia về Quản lý Môi trường biển và vùng bờ Việt Nam được
đề xuất nhằm loại bỏ các hạn chế, hướng tới phát triển bền vững ở vùng biển và vùng bờ Việt
Nam.
1.3. Mục tiêu của Chiến lược Quốc gia về Quản lý Môi trường biển và vùng bờ
Mục tiêu bao trùm của Chiến lược Quốc gia về Quản lý Môi trường ở vùng bờ Việt
Nam thông qua giảm nghèo và bảo vệ và quản lý bền vững các nguồn tài nguyên tái tạo ở
vùng biển và vùng bờ.
Mục tiêu cụ thể của chién lược gồm 6 hợp phần chính là:
Hợp phần số 1 – Quy hoạch quản lý tổng hợp vùng biển và vùng bờ cho các tỉnh duyên
hải.
Xây dựng các kế hoạch trên cơ sở từng vùng, kết hợp với việc phân vùng chức năng cho
tất cảcác địa phương ven biển và vùng ven bờ của Việt Nam.
Hợp phần số 2 – Các khu bảo tồn vùng biển và ven bờ.


Bảo vệ, bảo tồn và kiểm soát tính đa dạng sinh học ở vùng biển và ven biển Việt Nam
thông qua hệ thống các khu bảo tồn biển và ven biển hiện có và thu hút thêm các vùng biển và
ven biển có ý nghĩa về mặt đa dạng sinh học khác.
Hợp phần số 3 – Quản lý tổng hợp nghề cá ven bờ.
Thiết lập một hệ thống quản lý chức năng trên cơ sở cộng đồng cho việc khai thác
nguồn lợi hải sản ven bờ, nhờ thế giảm bớt đáng kể các hoạt động khai thác quá mức và
không được điều tiết, bảo vệ môi trường vùng biển và đẩy mạnh việc phát triển kinh tế ven
biển.
Hợp phần số 4 – Phát triển và cải thiện sinh kế cho các cộng đồng ven biển dễ bị tổn
thương.
Trong những xã ven biển nghèo nhất (theo xác định của Bộ lao Động, Thương binh và
Xã hội), cung cấp giải pháp sinh kế bền vững cho dân cư và cộng đồng địa phương bằng cách
khôi phục cơ sở hạ tầng, bảo vệ nguồn lợi tự nhiên có sự tham gia của người dân, nâng cao
năng lực cho các cộng đồng địa phương và tạo việc làm.
Hợp phần số 5 – Phòng chống thiên tai và xói lở bờ biển ở duyên hải Việt Nam
Xây dựng các công trình bờ biển và các giải pháp sinh học (ví dụ: chắn gió cát ven biển
và ổn định các đụn cát), đồng thời nâng cao khả năng đối phó với tình trạng khẩn cấp để giảm
thiệt hại kinh tế do thiên tai và nâng cao an ninh kinh tế cho dân cư ven biển. Đảm bảo việc
giảm thiểu các thiệt hại từ thiên tai vào chiến lược phát triển cho các vùng ven biển.
Hợp phần số 6 – Tăng cường khung hành động môi trường quốc gia, nâng cao nhận
thức, đánh giá ô nhiễm và giám sát.

57

Đây là một hợp phần chung, hỗ trợ cho chiến lược quốc gia, bao gồm: cũng cố khung
pháp lý quốc gia cho các vấn đề môi trường chủ yếu, tăng cường thu nhập, phân tích và cung
cấp dữ liệu, thông tin về môi trường biển và vùng bờ và giám sát, kiểm soát ô nhiễm đô thị và
công nghiệp, đánh giá và thanh tra nếu cần thiết và nâng cao nhận thức về môi trường cho tất
cả các đối tượng có liên quan đến quản lý môi trường biển và vùng bờ.
1.4. Các ưu tiên trong chiến lược

Gợi ý cho việc thực hiện Chiến lược, các ưu tiên đối với mỗi hợp phần được đề xuất bởi
những ưu tiên chung cấp tỉnh chỉ ra rằng vùng Bắc Trung bộ và Trung Trung bộ của Việt
Nam là cùng được ưu tiên cao nhất cho việc thực hiện chiến lược quốc gia. Miền duyên hải
Việt Nam này có hàng loạt ưu tiên trong nhiều hợp phần, đặc biệt là giảm nghèo, phòng
chống thiên tai và quản lý tổng hợp nghề cá ven bờ. Hơn nữa, các vấn đề ưu tiên về quản lý
môi trường ở các tỉnh này do chính quyền tỉnh xác định cũng trùng hợp với những hợp phần
ưu tiên được đề xuất.
Hai nguyên tắc cơ bản để tổ chức thực hiện chiến lược đã được đưa ra:
Một là, nguyên tắt đối tác và quản lý. Chính phủ Việt Nam sẽ tiếp tục chịu trách
nhiệm chung đối với việc quản lý môi trường biển và vùng bờ. Nhưng cần phải có sáng tạo
khi sắp xếp về thể chế giữa các thành phần khác nhau sao cho việc thực hiện kế hoạch này
(hay một kế hoạch tương tự) đem lại lợi ích tối đa cho cư dân ven biển nói riêng và cả nước
nói chung. Đó có thể là những việc như khắc phục những trở ngại về mặt năng lực, phạm vi
hoạt động của các cơ quan chức năng chính phủ mở rộng tới tận cấp địa phương, khả năng có
sẵn nguồn lực tài chính và tận dụng lợi thế so sánh của địa phương. Tất cả đều có thể đạt được
thành công tối đa nếu có sự hợp tác giữa các thành phần chủ chốt, bao gồm:

Chính phủ - có chủ quyền đối với đất, nguồn lợi và xây dựng khung pháp lý, chính
sách và điều tiết cơ bản cho hoạt động của các thành phần;

Các cộng đồng địa phương – sống dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên, đồng thời
là những người phải chịu hậu quả của các quyết định đầu tư và phân bổ nguồn lợi;

Các cơ quan cho vay quốc tế - cung cấp nguồn đầu tư cần thiết ban đầu;

Các nhà tài trợ - cung cấp và hỗ trợ kỹ thuật;

Khu vực tư nhân – là nguồn cung cấp vốn, ảnh hưởng, và trình độ chuyên môn, đặc
biệt có tính thực tiễn ở vùng ven biển nước ta, cụ thể cho hoạt động du lịch, sản xuất
và chế biến thủy sản và có thể cho cả các doanh nghiệp nhỏ hoạt động bền vững;


Các tổ chức phi chính phủ và các cơ quan khoa học – có trách nhiệm chuyển tải
thông tin đến quần chúng, cho ý kiến tư vấn về kỹ thuật, tạo dựng mối liên hệ giữa
các nơi tham gia và giám sát, theo dõi.
Kinh nghiệm ở các nước cho thấy rằng tất cả các thành phần liên quan đều quan trọng
và điều này cũng có thể đúng cho công tác quản lý môi trường vùng biển và ven biển Việt
Nam. Ở những nơi có thể, cần tạo ra những động cơ thúc đẩy các thành phần liên quan để họ
tiếp tục tham gia và đem hết năng lực thực hiện các nhiệm vụ của mình.
Hai là, cấp tỉnh là cấp thực hiện phù hợp nhất. Do tính chất đa ngành của Chiến lươc
quốc gia và do nhu cầu quy hoạch bao gồm cả việc khoanh vùng chức năng cho vùng biển và
ven biển, khuyến nghị rằng nên để tỉnh duyên hải là đơn vị cơ sở thực hiện Chiến lược quốc
gia. Rõ ràng cần phải lập quy hoạch, xếp thứ tự và theo dõi ở cấp quốc gia để bảo đảm rằng
Chiến lược này luôn được thực hiện phù hợp với các mục tiêu phát triển quốc gia trong khi
vẫn đạt được mục tiêu của mình. Tương tự, Chiến lược này có một số khuyến nghị về việc
nên để chính quyền và cộng đồng địa phương là đối tác cùng thực hiện kế hoạch. Việc thực
hiện Chiến lược ở cấp tỉnh ở vùng ven biển có thể có nhiều thuận lợi như sau:

58


Việc quy hoạch theo khu vực và khoanh vùng chức năng biển và vùng bờ, cân bằng
phát triển ở cấp tỉnh là tiền đề để tiếp tục đầu tư và trợ giúp kỹ thuật liên quan;

Tiếp theo có thể đề ra một chương trình đầu tư và hỗ trợ kỹ thuật trọn gói đa lĩnh
vực, bao gồm một tập hợp các hoạt động phù hợp nhất với yêu cầu của tỉnh;

Các huyện ven biển có thể gần hơn với toàn bộ quá trình thực hiện và rất có khả
năng xem xét nhu cầu thật sự của địa phương, các lợi thế so sánh cũng như các giải
pháp;


Vùng quy hoạch cần đủ lớn (trong hầu hết các trường hợp) để các yếu tố bên ngoài
(như ô nhiễm vùng thượng nguồn, trách nhiệm quản lý chung đối với các vùng đánh
cá, khu bảo tồn, ) không thể chi phối các quyết định đã được đưa ra.
2. Dự án quản lý tổng hợp ven bờ Việt Nam – Hà Lan
Dự án Quản lý Tổng hợp Vùng bờ Việt Nam - Hà Lan được thực hiện trong 3 năm (từ
tháng 9/2000 - 8/2003) với mục tiêu thiết lập một chương trình dài hạn về quản lý tổng hợp
vùng ven biển Việt Nam gọi là "Chương trình QLTHVB Việt Nam" và tập trung vào việc tư
vấn cho chính phủ Việt Nam trong việc lập kế hoạch và phát triển vùng ven biển, phát triển
cộng đồng và các nguồn tài nguyên ở đó một cách bền vững. Dự án do Bộ Khoa học Công
nghệ và Môi trường Việt Nam (MOSTE) điều phối thông qua Cục Môi trường (NEA).
Các công tác của Dự án được triển khai ở Hà Nội và 3 tỉnh ven biển là Nam Định, Thừa
Thiên – Huế và Bà Rịa – Vũng Tàu đại diện cho ba miền Bắc, Trung và miền Nam. Ba tỉnh
này với những vấn đề đặc trưng của vùng bờ từng khu vực của Việt Nam được chọn làm thí
điểm để giới thiệu và triển khai QLTHĐB
Mục tiêu
Dự án VNICZM hướng tới các mục tiêu cơ bản sau đây:
- giới thiệu và hỗ trợ áp dụng phương thức tiếp cận tổng hợp vào quản lý, quy hoạch và
phát triển đới bờ Việt Nam, qua đó góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và đảm bảo an
toàn cho cộng đồng dân cư sinh sống ở đới bờ trước thiên tai và tai biến môi trường;
- triển khai mô hình ứng dụng phương thức tiếp cận tổng hợp vào thực tiễn quản lý
vùng bờ ở ba tỉnh thí điểm;
- nâng cao nhận thức về QLTHĐB cho các cấp có thẩm quyền, các cơ quan, tổ chức ở
trung ương và địa phương, các bên liên quan và cộng đồng dân cư ở đới bờ;
- tăng cường năng lực quản lý và điều phối cho các cấp có thẩm quyền ra quyết định
liên quan đến đới bờ;
- hỗ trợ việc thiết lập chương trình QLTHĐB dµi hạn và hình thành cơ quan đầu mối
cho các hoạt động QLTHĐB ở Việt Nam.
Nhiệm vụ
Phục vụ cho việc đạt được các mục tiêu nêu trên, Dự án đã đề ra 8 nhiệm vụ cụ thể, là
khung sườn cho việc triển khai các hoạt động của Dự án.

Các nhiệm vụ này gồm:
Nhiệm vụ 1: Thiết lập văn phòng và cơ sở vật chất cho hoạt động của Dự án và hỗ trợ
các hoạt động điều chỉnh, sắp xếp về thể chế và hành chính phù hợp cho triển khai QLTHĐB
ở Việt Nam.
Nhiệm vụ 2: Thống kê các dự án của Việt Nam và các dự án được quốc tế hỗ trợ liên
quan đến vùng ven biển, và các kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội vùng ven biển Việt Nam.
Nhiệm vụ 3: Lập chiến lược và kế hoạch hành động QLTHĐB cho các tỉnh thí điểm,
tiến tới xây dựng chiến lược và kế hoạch hành động QLTHĐB quốc gia, phục vụ cho việc
triển khai QLTHĐB trong tương lai lâu dài.

59

Nhiệm vụ 4: Cải thiện công tác quản lý và khả năng truy cập số liệu thông qua việc thu
thập, xử lý, đánh giá, cập nhật và lưu trữ các cơ sở dữ liệu và thông tin được thiết lập theo tiêu
chuẩn thống nhất, đặt dưới sự quản lý của các cơ quan đầu mối về QLTHĐB, nhằm phục vụ
cho công tác QLTHĐB.
Nhiệm vụ 5: Đào tạo, tăng cường năng lực về QLTHĐB cho các cán bộ quản lý và
chuyên gia kỹ thuật của Việt Nam thông qua một chương trình đào tạo thích hợp với các khóa
đào tạo trong nước, trong khu vực và tại Hà Lan.
Nhiệm vụ 6: Xác định và tổ chức nghiên cứu một số vấn đề trọng điểm liên quan đến
vùng ven biển, ở cấp trung ương và địa phương, từ đó đề xuất các biện pháp giải quyết vấn
đề.
Nhiệm vụ 7: Tổ chức hội thảo khoa học chuyên đề với trọng tâm lµ các vấn đề nghiên
cứu được thực hiện trong nhiệm vụ 6, nhằm tham vấn các chuyên gia và các bên liên quan về
kết quả nghiên cứu và các biện pháp đề xuất, từ đó lập đề cương dự án về nội dung liên quan
để gửi tới các cấp có thẩm quyền và các nhà tài trợ.
Nhiệm vụ 8: Triển khai giới thiệu và áp dụng mô hình QLTHĐB phù hợp vào thực tế tại
3 tỉnh thí điểm là Nam Định, Thừa Thiên – Huế để xem xét và giải quyết những vấn đề đặc
thù của từng tỉnh, ví dụ như xói lở bờ biển và đê biển đi kèm với việc di dời và tái định cư của
cộng đồng dân cư ở ven bờ ở Nam Định; lũ lụt nghiêm trọng và mâu thuẫn trong sử dụng,

khai thác vùng đầm phá ở Thừa Thiên – Huế; hoạt động kinh tế cường độ cao và những vấn
đề phát sinh về môi trường và sinh thái ở Bà Rịa – Vũng Tàu.
Căn cứ vào các mục tiêu và nhiệm vụ của Dự án, có thể thấy nếu việc xây dựng và triển
khai QLTHĐB là một chu trình gồm các bước chính (i) Chuẩn bị, (ii) Lập kế hoạch, (iii) Phê
chuẩn, (iv) Thực hiện, và (v) Đánh giá và Hiệu chỉnh, thì Dự án VNICZM trong giai đoạn 3
năm mới chỉ tập trung vào các bước (i), (ii) và (iii) của chu trình này.
3. Các khu bảo tồn biển Việt Nam
3.1. Tính cấp thiết của việc thiết lập MPA
Khu bảo tồn biển là một phương thức hiệu quả, ít tốn kém để duy trì và quản lý nguồn
lợi thuỷ sản, bảo vệ đa dạng sinh học và và đáp ứng nhu cầu sinh kế của con người.
Kinh nghiệm trên thế giới cho thấy, mật độ sinh vật trong các khu bảo tồn biển tăng gấp
đôi sau một thời gian thiết lập (thường là 5 năm), cung cấp ấu trùng và bổ sung hải sản non
vào vùng biển xung quanh nhờ các dòng hải lưu. Hệ sinh thái rạn san hô, hệ sinh thái cỏ biển
và hệ sinh thái rừng ngập mặn cũng sẽ được khôi phục. Do vậy, nguồn lợi thuỷ sản không bị
sụt giảm, dẫn đến tăng năng suất nghề cá. Ngoài ra, khu bảo tồn biển còn có sức hấp dẫn đối
với du khách, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển du lịch sinh thái, nghiên cứu khoa học và
giáo dục cộng đồng
Trên thế giới có hơn 1.300 khu bảo tồn biển, trong đó 640 khu đã được xác định là ưu
tiên quốc gia về mặt bảo tồn đa dạng sinh học. Khu bảo tồn biển đầu tiên trên thế giới được
thành lập ở Florida (Mỹ) vào năm 1935 với 18.850 ha diện tích mặt biển và 35 ha vùng đất
ven bờ. Khu bảo tồn biển lớn nhất thế giới là Great Coral Reef ở Australia với diện tích 34,4
triệu ha. Khu bảo tồn biển nhỏ nhất là khu dự trữ san hô đỏ ở Monaco và khu Doctor's Gully
ở Australia (1ha).
Tính tới năm 2002, Đông Nam Á có 310 khu bảo tồn biển và ven biển, trong đó
Philippines có 280 khu. Khoảng 46% số khu bảo tồn biển không được quản lý hoặc quản lý
lỏng lẻo, 28% được quản lý dưới mức trung bình, còn số khu được quản lý tốt chỉ đếm trên
đầu ngón tay. Không ít khu bảo tồn biển đã bị đóng cửa vì nhiều lý do khác nhau: thiếu kinh
phí để duy trì hoạt động, thiếu sự hợp tác của cộng đồng địa phương hoặc do những thiếu sót
về mặt khoa học trong việc chọn lựa địa điểm, chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp, thể chế, pháp
luật,


60

Việt Nam trải dài qua 13 vĩ tuyến theo hướng Bắc - Nam với khoảng 3250 km bờ biển
và 2.700 đảo lớn nhỏ. Vị trí địa lý của vùng biển rất thuận lợi để có tính đa dạng sinh học cao.
Các hệ sinh thái nhiệt đới điển hình như rạn san hô, rừng ngập mặn, thảm cỏ biển phân bố
rộng ở vùng ven biển và các đảo xa. Biển Việt Nam còn được coi là nơi có thành phần loài
sinh vật khá cao. Mức độ đa dạng loài cũng không đồng nhất giữa các vùng do sự chi phối
của điều kiện tự nhiên.
Biển Việt Nam cung cấp nhiều nguồn lợi đáng kể. Theo tính toán trữ lượng cá có thể
đạt tới 2,7 triệu tấn. Sản lượng cá khai thác năm 1995 là khoảng 1.344.000 tấn, trong đó đánh
bắt là 829.860 tấn và sản lượng nuôi trồng là 415.280 tấn. Nghề cá ở nước ta mang tính đa
loài, giá trị các loài khác nhau nhiều. Ngoài nghề cá truyền thống, nhiều nguồn lợi mới mang
lại lợi ích lớn.
Biển và vùng ven biển nước ta còn cho một tiềm năng lớn về du lịch. Cảnh quan trên bờ
và dưới nước ở vịnh Hạ long, Nha Trang, đang thu hút du khách từ bốn phương.
Nguồn lợi biển đã và đang được sử dụng với cường độ ngày càng cao. Cùng với quá
trình tăng trưởng kinh tế, hoạt động của con người đã gây ra nhiều tác động đối với tài nguyên
và môi trường biển. Sau đây có thể kể đến một số tác động chính.
Khai thác quá mức:
Nhờ các cải tiến về phương pháp đánh bắt và tăng số lượng, công suất tàu thuyền, sản
lượng khai thác mỗi năm tăng. Tuy vậy, hiệu quả đánh bắt lại đang giảm. Theo thống kê, sản
lượng đánh bắt dường như thấp hơn khả năng cho phép, nhưng dấu hiệu khai thác quá mức
thể hiện rõ đối với nhiều loài và ở nhiều vùng. Những nguồn lợi có giá trị cao như tôm hùm,
cá mú, hải sâm, bào ngư, cá ngựa, được khai thác rất triệt để ở vùng nước nông. Các loài
hiếm như du gong, rùa biển cũng bị khai thác làm thực phẩm. Sử dụng san hô làm mỹ nghệ
rất phổ biến ở Hải Phòng, Nha Trang, Vũng Tàu. Buôn bán cá cảnh biển phát triển ở Nha
Trang, thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu kéo theo đánh bắt quá mức cá rạn san hô. Như vậy
"sự huỷ diệt thương mại" (một thuật ngữ trong sách đỏ của IUCN) đang thực sự trở thành mối
đe doạ lớn cho nhiều loại sinh vật biển. Sự biến mất của một số loài có thể gây ra mất cân

bằng sinh thái của các quần xã sinh vật biển.
Đánh cá huỷ diệt :
Đánh cá bằng chất nổ đã trở lên phổ biến trong nhiều năm qua. Hiện nay, tính trạng này
đã phần nào được cải thiện nhưng vẫn còn rất nghiêm trọng ở Quảng Ninh, Nghệ An, Quảng
Bình, Quảng Ngãi, Khánh Hoà. Chất độc gây mê cá bắt đầu được nhập khẩu qua các thương
gia kinh doanh thuỷ sản sống ở Hồng Kông, Đài Loan.
Phá hoại các quần xã:
Nghề nuôi tôm phát triển mạnh trong thời gian qua gắn liền với quá trình khai hoang
rừng ngập mặn. Bên cạnh những tác động cơ học do hoạt động chủ động của con người, rạn
san hô còn bị suy thoái do tăng lượng thải từ sông. Hoạt động trên đất liền làm tăng quá trình
lắng đọng trầm tích và gây hại cho các rạn san hô ở các vùng khác. Nguyên nhân chính là việc
phá rừng với diện tích giảm 9% hàng năm. Lắng đọng trầm tích còn do đánh cá bằng giả cào,
nạo vét và xây dựng công trình ven biển. Hơn nữa, quần xã rạn san hô còn chịu ảnh hưởng
tiêu cực của du lịch biển - một ngành mới phát triển. Ở vịnh Hạ Long, Nha Trang nhiều rạn
đang bị phá huỷ do thả neo, bơi lặn và thu thập san hô, thân mềm làm lưu niệm.
Sự suy thoái các quần xã không chỉ làm giảm các nguồn lợi và chất lượng môi trường
mà còn liên quan đến tính bền vững của nguồn lợi vùng khơi. Trữ lượng của nhiều loài ở
vùng xa bờ phụ thuộc chặt chẽ vào nguồn giống được cung cấp từ các bãi sinh sản, ương
giống ven bờ.

61

Nhiễm bẩn:
Nhiễm bẩn biển chưa đến mức nghiêm trọng đối với tính đa dạng sinh học ở vùng ven
bờ, ngoại trừ những nơi chịu ảnh hưởng lớn của sản xuất nông nghiệp hay công nghiệp. Tuy
nhiên, sự giàu dinh dưỡng (chủ yếu là hàm lượng NO
3
cao) đã được ghi nhận ở nhiều nơi. Sự
nở hoa của tảo (trong đó có các loài tảo độc) cũng là một hệ quả của sự giàu dinh dưỡng và đã
được quan sát thấy ở nhiều vùng ven biển ở Khánh Hoà, Bình Thuận, cửa sông Đồng Nai.

Tính đa dạng sinh học và nguồn lợi biển nước ta đang chịu những tác động có hại. Vì
vậy, vấn đề bảo tồn thiên nhiên và sử dụng lâu bền đang được các nhà quản lý, khoa học và
cộng đồng quan tâm. Hướng dẫn khai thác hợp lý nguồn lợi sinh vật biển đang được đề cập
trong quy định Bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản. Trong đó, mùa vụ kích thước đánh bắt của nhiều
loài cá, tôm hùm, hải sâm, trai ngọc đã được quy định, các kiểu khai thác huỷ diệt như đánh
cá bằng chất nổ, chất độc phải chịu nhiều hình phạt nghiêm khắc. Luật bảo vệ môi trường đặc
biệt nhấn mạnh đến bảo tồn các hệ sinh thái và nghiêm cấm các hoạt động gây ảnh hưởng xấu
đến môi trường. Trên thực tế, các luật lệ có hiệu lực rất thấp và tài nguyên biển đang suy giảm
nghiêm trọng, các hệ sinh thái ven bờ tiếp tục bị huỷ diệt. Trong tình hình đó việc thiết lập
các MPA bao gồm các hệ sinh thái tiêu biểu với tính đa dạng sinh học cao là hết sức cần thiết
nhằm giữ gìn một phần các quần thể sinh vật nguồn lợi và bảo tồn một phần các hệ sinh thái.
3.2. Hoạt động thiết lập và quản lý các khu bảo tồn biển
Tính đa dạng sinh học và nguồn lợi sinh vật biển Việt Nam đang chịu những tác động
có hại và bị suy thoái ở nhiều vùng. Vì vậy, vấn đề bảo tồn thiên nhiên và sử dụng lâu bền
đang được các nhà quản lý, khoa học và cộng đồng quan tâm. Hướng dẫn khai thác hợp lý
nguồn lợi sinh vật biển đang được đề cập trong Luật Thủy sản và quy định Bảo vệ Nguồn lợi
Thủy sản. Trong đó, mùa vụ và kích thước đánh bắt của nhiều loài cá, tôm hùm, hải sâm, trai
ngọc đã được quy định. Các kiểu khai thác hủy diệt như đánh bắt cá bằng chất nổ, chất độc
phải chịu nhiều hình phạt nghiêm khắc. Luật Bảo vệ Môi trường đặc biệt nhấn mạnh đến việc
bảo tồn các hệ sinh thái, trong đó có các rạn san hô và nghiêm cấm các hoạt động gây ảnh
hưởng xấu đến môi trường. Trên thực tế, các luật có hiệu lực rất thấp và tài nguyên biển đang
bị suy giảm nghiêm trọng, các hệ sinh thái ven bờ tiếp tục bị hủy diệt. Trong tình hình đó,
việc thiết lập các khu bảo tồn biển bao gồm các hệ sinh thái tiêu biểu với tính đa dạng sinh
học cao là hết sức cần thiết nhằm giữ gìn một phần các quần thể sinh vật nguồn lợi và bảo tồn
một phần các hệ sinh thái.
Mỗi rạn san hô ở biển Đông thường có tới hàng ngàn loài động vật, thực vật sinh sống
trú ngụ, đồng thời là bãi đẻ, nuôi dưỡng ấu trùng của các loài sinh vật biển, nên san hô trở
thành vùng có vai trò quan trọng trong việc duy trì tính đa dạng sinh học của các loài sinh vật
biển và làm giàu cho biển bằng chính tiềm năng nguồn lợi của chúng. Vì lẽ này, việc xây
dựng các khu bảo tồn biển thường dựa trên sự đa dạng sinh học cao của rạn san hô, nơi dự trữ

nguồn gen cho toàn bộ vùng biển.
Lịch sử các Khu bảo tồn biển và ven biển Việt Nam có thể coi bắt đầu từ năm 1986, khi
mà các khu dự trữ thiên nhiên với các hệ sinh thái ưu tiên là rừng ngập mặn như Cà Mau, Bạc
Liêu được hình thành. Vấn đề thiết lập các khu bảo tồn biển đã được đề cập từ những năm
1980 trong khuôn khổ của Chương trình biển Nhà nước với các đề xuất hình thành khu bảo
tồn biển ở Côn Đảo, Cát Bà và Sinh Tồn. Trong thời kỳ 1992-1994, với sự hỗ trợ của Quỹ
Quốc tế Bảo tồn Thiên nhiên (WWF) và Trung tâm khoa học tự nhiên và công nghệ Quốc gia;
Viện hải dương học đã tiến hành các nghiên cứu về tính đa dạng sinh học, hiện trạng sử dụng
nguồn lợi và tiềm năng bảo tồn thiên nhiên ở một số vùng và đề xuất các khu vực ưu tiên để
thiết lập các khu bảo tồn biển. Đó là Cát Bà (Hải Phòng). CôTô (Quảng Ninh), Cù Lao Chàm
(Quảng Nam), Hòn Mun (Nha Trang), Côn Đảo (Bà Rịa - Vũng Tàu) và An Thới (Kiên
Giang). Tất cả các khu vực đề xuất đều lấy rạn san hô làm trọng tâm vì tầm quan trọng của
chúng về tài nguyên và môi trường. Sau đó, các Vườn Quốc gia trên biển như Cát Bà, Côn

62

Đảo từng bước quản lý cá vùng nước xung quanh các đảo. Tiếp theo với đầu tư của Viện
Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Viện Hải Dương học tiếp tục xây dựng cơ sở khoa học
cho việc thiết lập mạng lưới các khu bảo tồn biển Việt Nam. Những nghiên cứu này là cơ sở
cho những kế hoạch phát triển hệ thống khu bảo tồn biển sau này. Một số hoạt động thực tiễn
theo tiêu chí bảo tồn biển cũng đang được thực hiện tại các khu bảo tồn hiện có như Côn Đảo,
Phú Quốc, Bên cạnh đó, nhiều khu vực rừng ngập mặn đã được quy hoạch trong hệ thống
bảo tồn rừng thuộc sự quản lý của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Với sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế, nhiều lớp đào tạo về khu bảo tồn biển đã được
tiến hành. INTROMARC (Australia) hỗ trợ tổ chức 3 khoá ở Hải Phòng, Nha Trang. Một số
nhà quản lý và khoa học được CIDA (Canada) tài trợ để dự các hội thảo trong và ngoài nước.
Trong khuôn khổ của "Sáng kiến Quốc tế về Rạn san hô", đại diện của Cục môi trường và
Viện hải dương học đã tham gia thảo luận về chiến lược bảo tồn rạn san hô ở Đông Nam Á.
HIện nay, nhà nước Việt Namvà các tổ chức quốc tế như WWF, IUCN đang xúc tiến các dự
án nhằm hình thành hệ thống bảo tồn biển ở Việt Nam.

Dự án ADB 5712 – REG (phase 2) đã đề nghị hệ thống quốc gia gồm 30 khu bảo tồn
biển và ven bờ. Trong đó ưu tiên cho 6 khu hiện tại cần ưu tiên quản lý, 8 khu cần mở rộng và
tăng cường quản lý và 6 khu thiết lập mới hoàn toàn. Hiện nay chính phủ giao cho Bộ Thủy
sản sọan thảo kế hoạch phát triển các khu bảo tồn biển. Các kết quả riêng về phần biển của dự
án ADB được kế thừa cào trong kế hoạch này. 15 khu vực đã được liệt kê với các hệ sinh thái
ưu tiên là rạn san hô và thảm cỏ biển. Trong đó, một khu vực ở Trường Sa cũng đưa vào kế
hoạch. Với sự tài trợ của Quỹ Môi trường Toàn cầu (GEF), DANIDA và chính phủ Việt Nam,
dự án trình diễn khu bảo tồn biển Hòn Mun đang hoạt động theo chiến lược bảo tồn thiên
nhiên biển. Chương trình hổ trợ DANIDA cho mạng lưới bảo tồn biển Việt Nam cũng bắt đầu
từ 2002 với điểm ưu tiên là Cù Lao Chàm.
Khu bảo tồn biển Hòn Mun - Bích Đầm là khu bảo tồn biển đầu tiên của Việt Nam, có
đa dạng sinh học mang tầm quan trọng quốc tế. Khu bảo tồn được thành lập từ tháng 6/2001,
do Bộ Thủy sản hợp tác thực hiện với Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN). Thời gian
qua tại Hòn Mun, Ban quản lý dự án đã tiến hành nâng cao nhận thức cho ngư dân về việc bảo
tồn và phát triển bền vững các nguồn lợi biển, đồng thời tạo nguồn thu nhập thêm cho họ,
tránh để các ngư dân khai thác trái phép hải sản. Ban quản lý dự án đã thử nghiệm nuôi trồng
một số loài hải sản như vẹm xanh, hải sâm cát, rong sụn, hướng tới phổ biến cho dân nuôi
trồng tăng thu nhập; mua sắm thiết bị lắp đặt phao neo tàu để tránh phá hủy rạn san hô, nhân
rộng hệ thống theo dõi dầu tràn, hút lại lượng dầu tràn để tái sử dụng, Những hoạt động đó
đã đem lại lợi ích lớn, là cơ sở để nhân rộng loại hình bảo tồn này.
Hoạt động du lịch đang được phát triển mạnh mẽ ở các địa điểm ven biển là các khu bảo
tồn hoặc những khu vực đề nghị bảo tồn. Cát Bà, Nha Trang, Côn Đảo và Phú Quốc cùng với
các đảo trong vịnh Hạ Long là những khu vực quan trọng chủ yếu đang được nhán mạnh và
phát triển du lịch. Du lịch có thể đóng góp một vai trò ngày càng quan trọng trong việc phát
triển kinh tế vùng duyển hải Việt Nam. Đây cũng là hoạt động có thể đóng góp lớn cho phát
triển hệ thống bảo tồn nếu có quy hoạch tốt và điều hành hợp lý theo quan điểm du lịch sinh
thái.
Việt Nam hiện đang ở thời điểm cấp bách để phát triển hệ thống khu bảo tồn biển của
mình. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề phức tạp liên quan đến những khiếm khuyết lớn trong
hệ thống khu bảo tồn hiện nay. Ngoại trừ một vài khu bảo tồn có kế hoạch quản lý, Việt Nam

thiếu một chương trình dành cho các khu bảo tồn biển và ven biển. Phần biển được quy hoạch
bảo tồn của những khu bảo tồn trên các đảo hiện nay như Vườn Quốc gia Cát Bà và Côn Đảo
mới chỉ được công nhận gần đây là một phần của những khu bảo tồn này, và ngay cả như vậy
vẫn phải mở rộng hơn nữa để chứa đựng được những sinh cảnh biển quan trọng. Hiện nay, chỉ

63

một phần mang tính hình thức các nguồn tài nguyên biển và ven biển Việt Nam được nằm
trong hệ thống khu bảo tồn hiện tại.
3.3. Một số trở ngại khi triển khai khu bảo tồn biển
Việt Nam là một nước đang phát triển có tốc độ tăng trưởng nhanh (GDP tăng 8 -
9%/năm), phát triển kinh tế đang là ưu tiên của Chính phủ và cộng đồng. Đồng thời với mức
sống được nâng cao, sức ép đối với tài nguyên và môi trường cũng gia tăng. Là một quốc gia
biển với 70% dân cư sống ở vùng ven biển và các châu thổ, hoạt động kinh tế chủ yếu tập
trung ở vùng ven biển và trên biển. Các khu vực đề xuất bảo tồn biển đang đứng trước các
mối đe doạ với mức độ khác nhau. Tác động lớn nhất gây ra bởi khai thác nguồn lợi và du
lịch biển thiếu kiểm soát. Sự nghèo đói đang là một vấn đề không dễ khắc phục. Tuy nhiên,
điều đáng buồn là nhiều hành động vô ý thức cũng góp phần làm suy giảm tính đa dạng sinh
học.
Hiểu biết về bảo tồn thiên nhiên biển của cộng đồng và các nhà quản lý còn rất hạn chế.
Dưới tầm nhìn của một số người, mục tiêu lợi nhuận vẫn được coi trọng hơn so với mục tiêu
bảo tồn ngay cả trong kế hoạch thiếp lập khu bảo tồn biển. Các dự án phát triển ít khi quan
tâm đến bảo tồn thiên nhiên và làm nảy sinh nhiều mâu thuẫn. Ví dụ rõ ràng là hiện đang song
song tồn tại 2 dự án cảng thương mại lớn ở Vịnh Hạ Long và Côn Đảo. Đây là những nơi đã
được xác định ưu tiên cho bảo tồn thiên nhiên biển. Việc dung hoà hai mục tiêu trên là việc
không đơn giản và đòi hỏi sự hợp tác chặt chẻ giữa các nhà lập chính sách, quản lý và khoa
học.
Khó khăn về tài chính đã hạn chế đầu tư của Nhà nước cho việc nghiên cứu thiết lập và
quản lý các khu bảo tồn biển. Hơn nữa, các mục tiêu dài hạn về bảo tồn thiên nhiên (ví dụ như
giáo dục ý thức) ít khi nhận được sự hỗ trợ lớn của các nhà hoạch định chính sách.

Cạnh tranh trong nội bộ và giữa các cộng đồng cũng làm tăng sức ép với các vùng đề
xuất bảo tồn biển. Do hạn chế về năng lực tàu thuyền, vùng ven bờ thường là các ngư trường
chính. Ngư dân không muốn mất đi khu vực khai thác hàng ngày của họ. Sự cạnh tranh cũng
là một hậu quả của sự ứng xử lạc hậu đối với biển của ngư dân. Điều này không thuận lợi cho
kiểu quản lý dựa trên cơ sở cộng đồng. Đây được xem như một giải pháp quản lý khu bảo tồn
biển có hiệu quả ở một số nước trong khu vực.
Một trở ngại khác là thiếu thông tin cần thiết liên quan đến việc thiết lập và quản lý khu
bảo tồn biển. Các nghiên cứu cho đến nay chủ yếu tập trung về tính đa dạng sinh học mà chưa
quan tâm nhiều đến các phương diện kinh tế-xã hội, tính hợp lý của hoạt động khai thác tài
nguyên và đánh giá tác động môi trường. Cơ sở cho việc quy hoạch hệ thống khu bảo tồn biển
chưa mang tính sinh thái cao do thiếu thông tin về các đặc trưng đa dạng sinh học và tài
nguyên của các vùng biển.
Đồng thời những khác biệt trong phân vùng chức năng giữa bảo tồn biển và trên cạn
chưa được thống nhất. Thực chất, quản lý khu bảo tồn biển là quản lý tài nguyên và người sử
dung tài nguyên. Tài nguyên nằm dưới nước, nhưng người sử dụng tài nguyên lại ở trên cạn.
Vì vậy, không thể áp dụng máy móc nguyên tắc cho rằng bảo tồn biển chỉ lo phần dưới nước.
Khái niệm vùng đệm đang sử dụng cho bảo tồn trên cạn cũng phải được hiểu rằng, đây chính
là vùng sinh sống của cộng đồng trên các đảo và vùng ven bờ.
Vấn đề duy trì sự tồn tại của các khu bảo tồn biển

sau khi thành lập cũng cần được suy
nghĩ ngay từ bây giờ. Rõ ràng là đầu tư từ Nhà nước và các tổ chức quốc tế chỉ có được đáng
kể ở giai đoạn đầu. Duy trì hoạt động bảo tồn trên biển chắc chắn sẽ khó khăn và tốn kém hơn
nhiều so với trên đất liền.
Giải quyết sinh kế cho cộng đồng ngư dân nghèo cũng là một vấn đề bức xúc của hoạt
động bảo tồn biển. Cần phải xác định rõ rằng, xóa đói giảm nghèo là chiến lược chung của
Nhà nước và là trách nhiệm của toàn xã hội. Các dự án bảo tồn chỉ có thể đóng góp bằng

64


những hoạt động trong khuôn khổ bảo tồn biển. Trong đó, việc làm giàu nguồn lợi tự nhiên
nếu quản lý tốt sẽ làm tăng nguồn thu nhập cho cộng đồng thông qua khai thác hợp lý. Những
hổ trợ trực tiếp chỉ có thể đối với số ít ngư dân nghèo chịu ảnh hưởng do quy hoạch vùng
không đánh bắt trong khu bảo tồn.
Mặc dù việc thiết lập các khu bảo tồn biển đã được đề xuất vài năm trước đây, khả năng
hiện thực hoá bị hạn chế do thiếu một cơ quan điều hành thống nhất cấp trung ương và chính
sách quốc gia về bảo tồn thiên nhiên biển. Sự quan tâm riêng lẻ của các bộ, ngành, địa
phương khó có thể dẫn đến thành công nếu không muốn nói là còn có tác dụng ngược lại.
Một thách thức lớn là phải duy trì, quản lý và cải tạo những sinh cảnh quan trọng về đa
dạng sinh học có vai trò chủ đạo đối với kinh tế địa phương và quốc gia, đặc biệt là những
khu bảo tồn quan trọng cả về bảo tồn đa dạng sinh học cũng như đối với các cộng đồng ven
biển mà phúc lợi và nguồn kiếm sống của họ phụ thuộc vào một môi trường biển và ven biển.
Đầu tư vào hoạt động bảo tồn đa dạng sinh học ở Việt Nam có thể và nên được coi là những
bước quan trọng để bảo đảm sự ổn định kinh tế tại miền duyên hải và là chất xúc tác cho
những hoạt động cải thiện hơn nữa chất lượng môi trường, đồng thời tạo ra một cộng đồng
bảo tồn và một công chúng được thông tin tốt hơn và ủng hộ hoạt động bảo tồn thiên nhiên.
Như vậy, để hình thành hệ thống các khu bảo tồn biển

ở Việt Nam còn rất nhiều việc
phải làm và sẽ gặp không ít trở ngại. Theo các chuyên gia bảo tồn biển quốc tế, thực trạng ở
nước ta hiện nay tương tự với Australia cách đây 20 năm hay với Indonesia 5-10 năm trước.
Với nỗ lực của ngành thủy sản và phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan nhà nước, các tổ chức
quốc tế, các cộng đồng ven biển, hy vọng rằng việc thiết lập hệ thống bảo tồn biển và ven bờ
sẽ được triển khai có hiệu quả, góp phần vào việc bảo vệ và duy trì bền vững nguồn lợi thủy
sản của nước ta.

VII. Quản lý tổng hợp vùng ven bờ Tỉnh Thừa Thiên-Huế
1. Vấn đề vùng ven bờ Tỉnh Thừa Thiên-Huế
Vùng bờ Thừa Thiên Huế với 126 km bờ biển, bao gồm dãi đồng bằng và đất cát ven
biển, vùng đầm phá và vùng ven bờ tới độ sâu 40 mét nước thuộc 6 huyện Phong Điền,

Quãng Điền, Hương Trà, Hương Thủy, Phú Vang, Phú Lộc và Thành phố Huế.
Vùng bờ TT Huế chiếm 34% tổng diện tích và 81% dân số toàn tỉnh. Là vùng trọng
điểm, có vị trí đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh, nhất là
với các ngành nông nghiệp, thủy sản, du lịch-dịch vụ và kinh tế biển. Giữ vai trò trọng yếu
trong việc duy trì, bảo tồn, phát triển các nguồn gen và đa dạng sinh học. Đồng thời đây cũng
là vùng có địa hình dốc, với vùng đồng bằng thấp trũng, có dãi cát mỏng, ngăn cách giữa biển
và đầm phá; cũng là vùng có lượng mưa lớn, tập trung 70% lượng mưa cả năm trong thời gian
3 tháng, do vậy đây là vùng xung yếu về môi trường, là vùng nhạy cảm, dễ mất cân bằng sinh
thái.
Chiếm phần lớn khu vực này là hệ đầm phá Tam Giang – Cầu Hai, hệ đầm phá lớn
nhất Việt Nam. Với tổng diện tích 21.600 ha thuộc địa phận Hành chính của 5 huyện và có
khoảng 300.000 người sống phụ thuộc trực tiếp vào tài nguyên của mình, hệ đầm phá Tam
Giang – Cầu Hai đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong hoạt động kinh tế của tỉnh. Có thể
nói, hệ đầm phá này quyết định tốc độ và hình thái phát triển kinh tế – xã hội của TT Huế.
Việc phát triển đô thị ngày càng mạnh ở Huế cũng gây áp lực ngày càng lớn đối với hệ đầm
phá, bởi các hoạt động sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản, giao thông
vận tải bị hạn chế trong một diện tích ngày càng bị thu hẹp. Áp lực này xuất phát từ những
nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và thường dẫn đến xung đột về sử dụng tài nguyên thiên
nhiên. Hơn nữa, đôi khi sử dụng lơn hơn khả năng chịu đựng của hệ sinh thái đầm phá sẽ dẫn
đến các kiẹt cácc nguồn tài nguyên đó.
Yêu cầu bảo vệ môi trường hệ đầm phá có tính đa dạng sinh học cao và có một không
hai này ngày càng trở nên cấp bách. Cộng đồng quốc tế cũng như phía Việt Nam đều quan

65

tâm đến việc xem xét xác định khu vực đầm phá là một khu bảo tồn đất ngập nước theo Công
Ước Ramsar. Bên cạnh đó, vì du lịch là một thế mạnh đặc thù của TT Huế, được coi là ngành
mũi nhọn trong phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh, nên việc phát triển du lịch sinh thái ở khu
vực đất ngập nước ngày càng được quan tâm. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có biện pháp thực
tiễn nào được áp dụng để tránh sự suy thoái các giá trị tự nhiên của khu vực này. Hiện nay,

toàn bộ vùng đầm phá và khu vực lân cận thuộc vùng bờ của TT Huế chưa được coi là khu
vực được bảo vệ theo các quy định chính thức của nhà nước. Điều đáng chú ý là, các hoạt
động phát triển kinh tế – xã hội nêu trên, ngoài mâu thuẫn lẫn nhau trong việc sử dụng không
gian và tài nguyên, còn diễn ra tại một khu vực cực kỳ nhạy cảm và dễ bị tác động bởi thiên
tai. Bản thân các hoạt động này còn làm trầm trọng thêm nguy cơ đời sống con người và giá
trị thiên nhiên ở khu vực này bị thiên tai tác động. Các hoạt động của dự án Giảm thiểu Thiên
tai với trọng tâm là đảm bảo an toàn cho nhân dân đã đề ra những yêu cầu nhất định về phát
triển và sử dụng vùng bờ của tỉnh.
Tóm lại, vấn đề phát triển kinh tế - xã hội, bảo tồn thiên nhiên và an toàn cho nhân dân
cần phải được xem xét và cân nhắc theo cách tổng hợp. Thực tiễn đòi hỏi phải có các hướng
dẫn sử dụng tài nguyên vùng ven bờ và một kế hoạch tổng hợp về việc sử dụng vùng bờ có sự
điều phối hợp lý cho Tỉnh TT Huế.
2. Cơ hội và triển vọng của vùng bờ TT Huế
Nằm trong vùng trọng điểm kinh tế của miền Trung, đã được chính phủ ưu tiên đầu tư
xây dựng, phát triển cơ cấu hạ tầng; đặc biệt là mạng lưới giao thông vận tải cả đường sắt,
đường bộ, đường hàng không, đường biển là đòn bẫy quan trọng tạo cơ hội cho vùng ven bờ
phát triển nhanh với tốc độ cao trong những năm tới. Ngoài ra còn có những vũng, vịnh có
điều kiện để xây dựng những cảng biển như Thuận An, Chân Mây. Đặc biệt cảng Chân Mây
có đủ điều kiện để xây dựng thành cảng sâu lớn của khu vực miền Trung.
Hiện nay, tỉnh và Trung ương đã và đang triển khai thực hiện các chương trình dự án
lớn như: Dự án đường hầm xuyên đèo Hải Vân, Chương trình phát triển các khu du lịch Lăng
Cô-Bạch Mã-Cảnh Dương - Hải Vân; Khu du lịch Tân Mỹ-Thuận An, Chương trình xây dựng
đô thị mới và Khu khuyến khích phát triển kinh tế - thương mại Chân Mây, Dự án Xây dựng
cảng nước sâu Chân Mây; Chương trình phát triển thủy sản và các dự án lớn khác đã, đang và
sẽ xây dựng như Cầu Trường Hà, Cầu Thuận An, sẽ tạo ra những cơ hội và triển vọng mới
thúc đẩy kinh tế xã hội vùng ven bờ phát triển
3. Các đe dọa và thách thức vùng ven bờ
Đồng thời với cơ hội và phát triển vọng vùng ven bờ cũng là nơi tiềm ẩn các nguy cơ
gây ô nhiễm môi trường do nước thải, chất thải công nghiệp, chất thải từ các khu du lịch dịch
vụ và đô thị, nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản, nơi chịu ảnh hưởng trực tiếp của thiên tai

và các sự cố môi trường: như xói lở, lũ lụt, hạn mặn, Việc thực hiện các chương trình, dự án
phát triển kinh tế-xã hội sẽ có tác động lớn làm thay đổi môi trường sinh thái và ảnh đến
nguồn tài nguyên vùng ven bờ. Vì vậy, trong quá trình phát triển cần lưu ý các đe dọa và
thách thức sau:
* Các đe dọa:

Khả năng gây ô nhiễm môi trường từ đất liền, đầm phá và biển

Khai thác quá mức và sử dụng không hợp lý các nguồn tài nguyên

Thiên tai và các sự cố môi trường

Mâu thuẩn sử dụng tài nguyên giữa các ngành
* Các thách thức

Cơ hội tạo việc làm cho cư dân trong vùng để giảm đói nghèo còn ít và trình độ dân
trí còn thấp

66


Hạn chế về kiến thức và nhận thức của cộng đồng trong việc bảo vệ và bảo tồn các
giá trị tài nguyên, môi trường và khái niệm phát triển bền vững

Tồn tại lợi mâu thuẩn giữa lợi ích của các nhân và cộng đồng

Quản lý tài nguyên môi trường còn mang tính đơn ngành và theo lãnh thổ

Chưa có qui hoạch tổng hợp việc sử dụng các nguồn tài nguyên vùng ven bờ. Năng
lực quản lý và các phương tiện quản lý còn nhiều bất cập

Để bảo đảm thúc đẩy kinh tế-xã hội của tỉnh TT Huế trong thời gian đến phát triển bền
vững với nhịp độ cao hơn đòi hỏi phải có cơ chế điều hành và quản lý tốt nhằm sử dụng hợp
lý, có hiệu quả các nguồn tài nguyên, bảo vệ và nâng cao chất lượng môi trường, hạn chế và
giảm nhẹ tác động của thiên tai góp phần cải thiện và nâng cao điều kiện sống cho cộng đồng.
Trong những năm qua, nhiều công trình điều tra và nghiên cứu đã được tiến hành bằng
nguồn kinh phí địa phương và nhà nước, thường được hỗ trợ từ các nguồn vốn quốc tế. Các
dự án này đã cung cấp nhiều báo cáo và số liệu hiện đuợc lưu trữ các cơ quan nhà nước và các
viện nghiên cứu. Dự án thí điểm VNICZM Thừa Thiên - Huế sẽ xây dựng trên cơ sở những
thông tin sẵn có đó. Với phương thức tiếp cận tổng hợp và sử dụng các công cụ bổ trợ cho
việc lập kế hoạch, vùng ven bờ Thừa Thiên - Huế chắc hẳn sẽ tiến thêm một bước trong việc
đưa phát triển bền vững thành hiện thực.
4. Dự án thí điểm VNICZM tại Thừa Thiên Huế
Ngay từ ban đầu, Dự án thí điểm ở TT Huế đã được chọn là trọng điểm trong số 3
nghiên cứu thí điểm thuộc Dự án VNICZM. Dự án thí điểm TT Huế được khởi động và bắt
đầu triển khai sớm nhất. Các hoạt động của Dự án thí điểm được kết nối với các hoạt động
chung của Dự án VNICZM thông qua vai trò “hỗ trợ và điều phối” của Văn phòng Dự án
VNICZM ở Hà Nội. Tại Huế, việc triển khai Dự án thí điểm đã mang lại rất nhiều kinh
nghiệm quý báu về các khía cạnh thực tế, các hoạt động, các vấn đề liên quan đến QLTHVB,
về việc xây dựng chiến lược và kế hoạch Hành động QLTHVB. Những kinh nghiệm này
được hai Dự án thí điểm ở Nam Định và Bà Rịa – Vũng Tàu tham khảo và học tập, đồng thời
góp phần tác động vào việc hình thành các hoạt động hỗ trợ QLTHVB từ cấp trung ương như
xây dựng cơ sở dữ liệu tổng hợp, thành lập đơn vị đầu mối về QLTHVB cấp quốc gia tại Hà
Nội.
Trong Giai đoạn Khởi động diễn ra từ tháng 3 đến tháng 6 năm 2001, với sự hỗ trợ
của các chuyên gia Hà Lan và tham vấn các cấp lãnh đạo cùng đông đảo các bên liên quan,
các mục tiêu và nhiệm vụ của Dự án thí điểm đã được xác định. Đồng thời, Báo cáo Khởi
động Dự án cũng được lập vào tháng 6/2001 và sau đó được chính thức phê chuẩn trong phiên
họp đặc biệt giữa Dự án thí điểm với UBND tỉnh và lãnh đạo các sở, ban, ngành liên quan vào
ngày 13/9/2001.
Vào tháng 2/2002, NEDECO đã cử một chuyên gia đến công tác thường trú tại Dự án

thí điểm và giữ chức cụ Cố vấn thường trú cấp tỉnh. Nhân dịp này, Dự án tiến Hành đánh giá
giữa kỳ các công tác đã được thực hiện từ khi bắt đầu Dự án cho đến thời điểm đó, với sự
tham gia của đoàn chuyên gia ngắn hạn của NEDECO đến từ Hà Lan. Kết quả đánh giá được
báo cáo và trao đổi với Ban Chỉ đạo Dự án thí điểm (PSC) và các bên liên quan khác ở cấp
tỉnh.
Mục tiêu của dự án theo sự nhất trí của tất cả các bên liên quan là: “Mục tiêu tổng thể là
cải thiện đời sống nhân dân nhờ khai thác lâu dài, bền vững tài nguyên khu vực đầm phá và
vùng bờ thông qua áp dụng quản lý tổng hợp vùng ven bờ ở TT Huế. Thực hiện mục tiêu này
bằng cách cung cấp cho Ủy ban Nhân dân Tỉnh những kiến thức và công cụ cần thiết để áp
dụng quản lý tổng hợp vùng ven bờ một cách phù hợp, nhằm duy trì sự toàn vẹn của vùng bờ
và khu vực đầm phá và giải quyết một cách toàn diện những mẫu thuẫn nảy sinh giữa các
mục đích sử dụng với sự quan tâm thích đáng đến các giá trị sinh thái.”

×