GVHD : TS.NGUYỄN XUÂN TRƯỜNG TIỂU LUẬN QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
A : KHÁI NIỆM VÙNG VEN BỜ VÀ QUẢN LÝ TỔNG
HỢP VÙNG VEN BỜ BIỂN
Vùng ven bờ luôn là nơi được con người quan tâm do nguồn
tài nguyên của nó. Đây là nơi có vùng đồng bằng màu mỡ và
tài nguyên biển phong phú, vùng ven bờ cũng là nơi dễ dàng
cho sự tiếp cận của thị trường quốc tế. Nó tạo ra không gian
sống, các tài nguyên sinh vật và phi sinh vật cho các hoạt
động của con người và có chức năng điều hoà đối với môi
trường tự nhiên cũng như môi trường nhân tạo.
Vùng ven bờ là trọng tâm của nhiều ngành kinh tế quốc gia, là
nơi mà phần lớn các hoạt động về kinh tế, xã hội diễn ra và
cũng là nơi mà tác động của các hoạt động này nhiều nhất.
Đối với những nước có vùng bờ, hơn một nữa dân số sống tại
đây và tầm quan trọng của vùng ven bờ còn gia tăng trong
tương lai do sự gia tăng không ngừng của việc di dân từ các
vùng sâu trong lãnh thổ tới đây. Do vậy, không ngạc nhiên khi
có sự xung đột sâu sắc giữa nhu cầu tiêu dùng hiện nay đối
với tài nguyên và việc đảm bảo cho việc tiêu thụ tài nguyên
đó trong tương lai. Trong một số quốc gia, sự xung đột đó đã
đạt đến mức nguy cấp do phần lớn vùng ven bờ đã bị ô nhiễm
do các nguồn khác nhau. Rất nhiều hoạt động phát triển đô
thị, công nghiệp và nông nghiệp trên vùng ven biển là nằm
trong vùng đất ngập nước ven biển có năng suất cao và các dự
án phát triển đang làm biến đổi hệ sinh thái ven biển trên một
qui mô rất lớn. Nước thải từ hầu hết các đô thị và khu công
nghiệp trên thế giới đổ trực tiếp vào biển hoặc gián tiếp qua
các hệ thống sông mà không được xử lý hoặc xử lý rất ít.
Nghề cá bị sa sút, đất ngập nước bị khô, các rạn san hô bị phá
hủy, các bãi biển bị xuống cấp,... Để các vùng ven bờ được
duy trì và bảo vệ, cần phải có hành động hiệu quả và kịp thời.
NHÓM 7 Page 1
GVHD : TS.NGUYỄN XUÂN TRƯỜNG TIỂU LUẬN QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
Để giải quyết cho yêu cầu này, một hệ thống quản lý được
hình thành: Quản lý tổng hợp vùng ven bờ: (ICZM, Integrated
Coastal Zone Management).
Quản lý tổng hợp vùng ven bờ (QLTHVB) có thể cho phép
giải quyết các vấn đề nảy sinh trong phát triển như:
· Tăng dân số ở vùng ven biển, đô thị hoá, cạnh tranh đất đai,
nguồn nước và các vấn đề liên quan đến ô nhiễm.
· Sự dâng cao của mức nước biển làm cho nhiều quốc gia ven
biển dễ bị ảnh hưởng của lụt lội và đe dọa cuộc sống và các
hoạt động kinh tế.
· Quản lý tài nguyên kém làm tăng phạm vi ảnh hưởng và tính
khốc liệt của các tai biến thiên nhiên như bão lụt, xói lở bờ
biển,... đối với cuộc sống và dân cư.
· Tài nguyên bị khai thác quá mức và sử dụng không hợp lý ví
dụ như vấn đề khai thác cạn kiệt các loài thuỷ hải sản, khai
thác san hô làm vật liệu xây dựng, phá rừng ngập mặn để nuôi
tôm.
I. Khái niệm vùng ven bờ
Hầu hết các hướng dẫn QLTHVB được xuất bản đều đồng .
rằng vùng ven bờ là khu vực có giao diện khá hẹp giữa biển
và đất liền. Đó là nơi các quá trình sinh thái phụ thuộc vào
sự tác động lẫn nhau giữa đất liền và biển, các tác động này
diễn ra khá phức tạp và nhạy cảm.
Vùng ven bờ thường được hiểu như là nơi tương tác giữa đất
và biển, bao gồm các môi trường ven bờ cũng như vùng nước
kế cận. Các thành phần của nó bao gồm các vùng châu thổ,
vùng đồng bằng ven biển, các vùng đất ngập nước, các bãi
biển và cồn cát, các rạn san hô, các vùng rừng ngập mặn, đầm
phá, và các đặc trưng ven bờ khác. Khái niệm vùng ven bờ
thường được xác định một cách tùy tiện, hơi khác nhau giữa
các quốc gia và thường dựa vào giới hạn pháp lý và ranh giới
hành chánh. Ngoài ra còn có những sai khác về địa văn
(physiography), sinh thái và kinh tế giữa các vùng khác nhau,
NHÓM 7 Page 2
GVHD : TS.NGUYỄN XUÂN TRƯỜNG TIỂU LUẬN QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
do đó không có một định nghĩa được chấp nhận rộng rãi về
vùng ven bờ. Thay vào đó, có nhiều định nghĩa bổ sung phục
vụ cho những mục đích quản lý khác nhau, trong đó vấn đề
ranh giới cần được xem xét. Ví dụ ở một số nước Châu Âu,
vùng ven bờ mở rộng ra tới vùng lãnh hải, một số nước khác
thường lấy đường đẳng sâu làm giới hạn. Còn về ranh giới đất
liền thì cũng rất mơ hồ do tác động của biển vào khí hậu có
thể vào đến vùng nội địa bên trong cũng như vùng đồng bằng
ngập lụt rộng lớn.
Vấn đề ranh giới vùng ven bờ có thể được xác định một cách
thực tế bao gồm các khu vực và các hoạt động liên quan đến
vấn đề quản lý mà chương trường sẽ nhắm vào. Trong nhiều
trường hợp, ranh giới vùng đất và biển được chọn thường có
một khoảng cách nhất định với một mốc tự nhiên chẳng hạn
như là mức nước thấp trung bình (MLWM, Mean Low Water
Mark) hay mức nước cao trung bình (MHWM, Mean High
Water Mark).
Bảng 1. Một số ví dụ về ranh giới vùng ven bờ
Nước, bang Ranh giới đất liền Ranh giới biển
Rhode Island 200 bộ kể từ bờ biển
Vùng lãnh hải (3 dặm)
Hawaii Tất cả đất liền trừ
vùng các khu rừng
bảo vệ
Vùng nước của Bang
Brunei Tất cả vùng đất liền và
nước cách
MHWM 1 km
Từ MHWM đến 200 m
nước sâu
Singapore Toàn bộ đất liền
Vùng lãnh hải và các
đảo xa bờ
Sri Lanka 300 m từ MHWM 2 km từ MLWM
Malaysia Ranh giới huyện 20 km từ bờ
· Vùng ven biển (Coastal area): về mặt địa lý thì rộng hơn
vùng ven bờ, đường biên của nó mở rộng về phía đất liền hơn.
NHÓM 7 Page 3
GVHD : TS.NGUYỄN XUÂN TRƯỜNG TIỂU LUẬN QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
Vùng ven bờ chỉ là một phần của khu vực ven biển. Điều này
rất quan trọng, đứng trên phương diện chức năng,bởi trong
nhiều quy tình về môi trường, nhân khẩu, kinh tế và xã hội
trên thực tế bắt nguồn từ vùng ven biển rộng lớn, tuy nhiên
những biểu hiện của chúng chỉ thấy rõ được trong phạm vi
vùng ven bờ.
· Vùng nước ven biển (Coastal water): vành đai hẹp gần bờ có
nước biển và nước cửa sông.
· Vùng gian triều (Intertidal area): vùng giữa đường ngập triều
khi triều thấp nhất và đường ngập triều khi triều cao nhất
(phần đất liền chịu tác động của thủy triều).
· Vùng bờ biển (Coastline): đường tiếp xúc tại điểm chia cắt
đất liền với các vùng nước ven biển.
· Vùng đất ven bờ (Shore lands): vùng đất liền xuống tới
đường biên cao nhất bị ảnh hưởng bởi thủy triều Do có nhiều
sự khác nhau trong định nghĩa về khái niệm vùng ven bờ, có
một số vấn để thường nảy sinh trong quá trình thực thi quản lý
tổng hợp vùng ven bờ. Thứ nhất, pháp luật quốc gia liên quan
tới giải quyết vấn đề này, nếu nó tồn tại, thường không rõ ràng
trong việc đưa ra những định nghĩa và tiêu chí biên giới vùng
ven bờ một cách chính xác. Thứ hai,thường các ranh giới
được xác định theo qui định của hành chính không đồng nhất
với ranh giới của hệ sinh thái. Thứ ba, việc quản lý các vùng
ven bờ xuyên quốc gia thường rất khó khăn do nó liên quan
tới lợi ích từng quốc gia. Ngoài ra, pháp chế và sự phân định
đới bờ có thể có sự khác nhau rất lớn giữa các quốc gia cận kề
nhau.
Như vậy có thể thấy là định nghĩa về vùng ven bờ thường
phục vụ và hỗ trợ cho các kế hoạch chính trị, chính sách để
cân bằng nhu cầu đối với tài nguyên và giải quyết các xung
đột nhiều mặt trong vấn đề sử dụng tài nguyên.
Do vậy, định nghĩa vùng ven bờ phải phản ảnh các tiếp cận
tổng hợp bao gồm (a) vùng ven bờ được quản lý là một hệ
NHÓM 7 Page 4
GVHD : TS.NGUYỄN XUÂN TRƯỜNG TIỂU LUẬN QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
tổng hợp về tài nguyên và sử dụng tài nguyên và (b) chức
năng quản lý phối hợp giữa các tổ chức khác nhau liên quan
đến qui hoạch và thực thi.
Để định nghĩa về vùng ven bờ tiếp tục được chuẩn bị kỹ
lưỡng và cập nhật trong các dự án của các quốc gia, các yếu tố
sau đây cần phải được tính đến:
· Phạm vi phần đất bên trong vùng ven bờ phải được thoả
thuận cũng như phần nước thuộc lãnh thổ quản lý.
· Định nghĩa vùng ven bờ phải xuất phát từ các đặc điểm tự
nhiên (địa mạo) và chức năng sinh thái.
· Xác định ranh giới hành chính dựa vào pháp luật quốc gia,
các vùng đặc trưng và các qui hoạch chi tiết.
· Sử dụng các kỹ thuật bản đồ để phác họa ranh giới đường bờ
và đường vùng ven bờ trên các bản đồ.
II. Đặc tính của vùng ven bờ
1. Vùng ven bờ bao gồm sự đa dạng lớn về nơi ở và các hệ
sinh thái (như vùng cửa sông, rạn san hô, thảm cỏ biển, rừng
ngập mặn, đầm phá, vũng biển,..)
2. Các hệ sinh thái trên có các đặc điểm vốn có được mô tả
như là các chức năng khi chú ý đến phạm vi hệ thống tài
nguyên ven bờ.Đối với các vùng đất ngập nước,các chức năng
đó bao gồm năng suất sơ cấp và năng suất thứ cấp để duy trì
khu hệ động, thực vật; dự trữ trầm tích và các chất carbon hữu
cơ để nâng cao săng suất sinh học; liên kết các hệ sinh thái
cần thiết để duy trì chuỗi thức ăn, tuyến di cư và gia tăng sản
lượng. Đối với các rạn san hô các chức năng đó sẽ bao gồm
năng suất sinh học cao và tỷ lệ cố định carbon cao dẫn đến sự
phát triển đáng kể các rạn san hô và sự ăn mòn vật lý và sinh
học dẫn đến sự tạo thành trầm tích đá vôi.
3. Lần lượt, các chức năng đó sản sinh ra "hàng hoá" (ví dụ
như cá, dầu khí, khoáng sản,...) và các dịch vụ có ích (ví dụ
như chống lại sóng, bão, sự giải trí và vận chuyển,..). Các
NHÓM 7 Page 5
GVHD : TS.NGUYỄN XUÂN TRƯỜNG TIỂU LUẬN QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
hàng hoá và dịch vụ như thế có giá trị kinh tế, một số có thể
trao đổi theo cơ chế thị trường,nhưng số khác không thể đánh
giá trực tiếp.Ví dụ tốt nhất là giá trị của san hô về nơi ở,giá trị
giải trí như bơi lội, chèo thuyền,câu cá giải trí hay đơn giản
chỉ là ngắm nhìn đại dương.Đối với các rừng ngập mặn, sự
quan tâm đối với các nguồn tài nguyên này không được mua
bán và cũng không được đánh giá như hàng hoá hay như dịch
vụ và thường bị loại trừ khi phân tích về giá trị của rừng ngập
mặn khi phát triển thành giá trị sử dụng thay thế khác (ví dụ
như chuyển đổi thành vùng nuôi tôm).Các giá trị thường buôn
bán là cọc chống, than củi, cua, tôm rừng ngập mặn; các giá
trị có thể buôn bán là cá, thân mềm 2 mảnh bắt trong vùng kế
cận; các giá trị ít khi tính đến là dược liệu, chất đốt trong gia
đình, thức ăn trong những lúc nghèo đói, chổ ở cho cá con, bãi
thức ăn đối với các loài cá, tôm vùng cửa sông, quan sát và
nghiên cứu động vật hoang dã; các giá trị thường bị bỏ qua là
dòng dinh dưỡng cho vùng cửa sông, vùng đệm đối với tác hại
của gió bão.
4. Có một mối liên hệ trực tiếp giữa các chức năng môi trường
và việc sản sinh ra các hàng hoá để có thể sử dụng được nhiều
dạng hơn chỉ là một dạng trong các hoạt động của con người
(ví dụ như đá san hô được sử dụng trong việc xây dựng và sản
xuất vôi).
5. Trong vùng ven bờ, nơi mà có sự cạnh tranh giữa các bên
liên quan khác nhau (các bên liên quan được xác định là các
nhóm trong cộng đồng có những mối quan tâm đặc biệt hay là
liên quan đến việc sử dụng các nguồn tài nguyên như là tài
sản chung) đối với việc sử dụng đất và biển thường dẫn đến
những xung khắc mãnh liệt và phá huỷ sự thống nhất của hệ
thống tài nguyên.
6. Các hoạt động ở vùng ven bờ trong nhiều nước đã góp phần
đáng kể vào GDP của kinh tế quốc gia.Ví dụ như ở Sry
Lanka,vùng ven bờ chiếm 24% diện tích đất cả nước,nhưng
NHÓM 7 Page 6
GVHD : TS.NGUYỄN XUÂN TRƯỜNG TIỂU LUẬN QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
đã đóng góp 40% GDP của quốc gia với 50% dân số sống ở
đây. Nhiều cộng đồng trong vùng Đông Nam Á phụ thuộc vào
công nghiệp dầu lửa và tàu thuyền, du lịch ven bờ,...
7. Vùng ven bờ là nơi tập trung cao sự định cư của con người
và là nơi thích hợp cho sự đô thị hoá. Hầu hết các thành phố
lớn của các nước vùng Đông Nam Á,cũng như các nước
khác trên thế giới nằm ở vùng ven bờ.
8. Vùng ven bờ là sẽ tâm điểm cho sự phát triển trong tương
lai trong vòng 50 năm tới với sự gia tăng dân số và mở rộng
các ngành công nghiệp.Những sự phát triển như thế sẽ dẫn
đến sự gia tăng những xung đột về môi trường và xã hội,đòi
hỏi cần phải có việc thực hiện kế hoạch quản lý tổng hợp.
III. Các yếu tố sinh thái môi trường vùng ven bờ
1. Vị trí địa lý
Nằm tiếp giáp với đường bờ biển, có thể có các dạng địa hình:
Đồng bằng thấp trũng thuộc khu vực các sông lớn, chịu ảnh
hưởng của thủy triều ,Núi cao ăn ra tận biển, địa hình không
bằng phẳng, cao hoặc là những gồm đá sát biển và ít chịu ảnh
hưởng của thủy triều Vùng đầm lầy hoặc đầm phá.
2. Khí hậu
Tần suất xuất hiện gió và bão cao, nhất là vùng ven biển nhiệt
đới.
Có chế độ gió mùa và ảnh hưởng rõ của chế độ này.
Biên độ nhiệt độ dao động ngày và đêm không lớn như ở lục
địa.
Lượng mưa và độ ẩm không khí thường cao hơn các vùng
khác. Đây cũng là vùng dễ có các sự cố môi trường như bão
lốc, sóng thần.
3. Môi trường đất
Có thể có các dạng đất như đất mặn, đất phèn, phèn mặn hoặc
đất cát, cồn cát ven biển.
Dễ mẫn cảm với các điều kiện biến đổi của môi trường như dễ
bị xói lở do tác động của sóng gió.
NHÓM 7 Page 7
GVHD : TS.NGUYỄN XUÂN TRƯỜNG TIỂU LUẬN QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
Môi trường đất bị ảnh hưởng mạnh của cả độ mặn trong nước
biển và thủy triều.
Môi trường sinh thái ở đây không có tính ổn định,dễ phát triển
nhưng cũng dễ bị phá hủy,thay đổi.
4. Môi trường nước
Nước từ mặn cho đến lợ,độ mặn giảm từ biển vào đất liền,
điều kiện nước cũng thay đổi theo chế độ thủy văn ở các cửa
sông đổ ra biển.Trong nước biển, nước sông và nhất là nước
lợ, hàm lượng chất dinh dưỡng cao, có nhiều chất phù sa lơ
lững và nhiều hạt sét mịn tạo nên trầm tích nhiều sét.
Chế độ thủy triều ảnh hưởng mạnh đến hệ sinh thái thể hiện
qua mức triều cực đại hay cực tiểu của chế độ nhật triều hay
bán nhật triều.
Chế độ nước ngọt rất khan hiếm, chỉ thấy từ các nguồn nước
mưa hoặc giếng sâu từ tầng nước ngầm.
5. Môi trường không khí
Thường chất lượng không khí ở các vùng ven biển rất tốt nếu
không có các hoạt động công nghiệp.Trong những vùng hoạt
động công nghiệp ven biển th. môi trường không khí sẽ bị ảnh
hưởng.Tuy nhiên khả năng đảo nhiệt thường ít xảy ra hơn.
Hàm lượng muối trong không khí cao dễ gây ăn mòn kim loại,
các công trình xây dựng,vật liệu.
6. Đa dạng sinh học
Được chia làm hai phần:phần dưới nước và trên cạn.Phần trên
cạn lại được chia ra sinh vật ở vùng cao và sinh vật ở vùng
ngập và bán ngập.Phần dưới nước chia ra sinh vật tầng mặt,
sinh vật tầng nước nông và sinh vật tầng nước sâu.
Nhìn chung đa dạng sinh học ở vùng ven biển rất phong phú
và đa dạng.Tính đa dạng này phụ thuộc nhiều vào điều kiện
môi trường tự nhiên như nhiệt độ,chế độ nước,môi trường đất.
Đối với vùng đất cao,ít ngập triều và không có nước ngọt,đất
dễ nhiễm mặn và khô hạn thì đa dạng sinh học nghèo nàn.Đối
NHÓM 7 Page 8
GVHD : TS.NGUYỄN XUÂN TRƯỜNG TIỂU LUẬN QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
với vùng ngập nước và bán ngập triều hay còn gọi là đất ngập
nước,thì đa dạng sinh học phong phú hơn nhiều.
7. Ô nhiễm môi trường vùng ven biển
Ngày nay với tốc độ phát triển kinh tế mạnh mẽ,hoạt động sản
xuất và sinh hoạt của con người đã tác động mạnh mẽ đến
môi trường sinh thái ven biển theo hướng ngày một xấu đi.
Nguyên nhân của ô nhiễm xuất phát từ:Nguồn nước thải sinh
hoạt được thải trực tiếp từ các khu dân cư ven biển;Nước thải
công nghiệp;Nguồn nước thải từ các cống rãnh đô thị;Chất
thải rắn từ công nghiệp, nông nghiệp.
8. Các dạng năng lượng trong môi trường ven biển
Năng lượng sóng biển: vô cùng lớn nhưng đến nay con người
chỉ mới khai thác,sử dụng được khoảng 1-2%.Một số nước
trên thế giới đã sử dụng một phần năng lượng sóng biển để
phát điện,tuy nhiên vấn đề này còn có nhiều khó khăn trong
thiết kế,xử lý công trình.
Năng lượng gió: là loại năng lượng có tiềm năng rất lớn dùng
để phát điện,bơm nước,quay các động cơ,...Tuy nhiên nguồn
năng lượng này cũng chưa được khai thác nhiều.
Năng lượng ánh sáng mặt trời:sinh vật sử dụng năng lượng
này cho quang hợp,sinh trưởng và phát triển,con người sử
dụng để sấy khô nguyên liệu,làm muối.
IV. Khái niệm về Quản lý tổng hợp vùng ven bờ
Tại Hội nghị Quốc tế về Vùng bờ, QLTHVB được định nghĩa
như sau: QLTHVB bao gồm việc đánh giá toàn diện, đặt ra
các mục tiêu, quy hoạch và quản lý các hệ thống tài nguyên
ven biển, có xét đến các yếu tố lịch sử, văn hóa và truyền
thống, và các lợi ích trong mâu thuẩn sử dụng;là quá trình
liên tục tiến triển nhằm đạt được sự phát triển bền vững.
Quản lý tổng hợp vùng ven bờ là một cơ cấu để tập hợp
những người sử dụng, các chủ thể và những người ra quyết
định tại vùng ven bờ nhằm đảm bảo quản lý hệ sinh thái có
hiệu quả hơn đồng thời phát triển được kinh tế và phân chia
NHÓM 7 Page 9
GVHD : TS.NGUYỄN XUÂN TRƯỜNG TIỂU LUẬN QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
quyền lợi hợp lý giữa các thế hệ và trong cùng thế hệ, thông
qua việc áp dụng những nguyên tắc có tính bền vững.Pháp
chế và quy hoạch ở Lãnh hải và nội địa thường là công cụ
thuận lợi để thực thi QLTHVB.
Mặc dù có rất nhiều định nghĩa khác nhau về QLTHVB nhưng
sự khác nhau giữa chúng là rất ít.Hầu hết các định nghĩa đều
thừa nhận rằng QLTHVB là một quy trình có tính liên tục,tính
tiên phong trong thực hiện và có khả năng thích nghi cao
nhằm quản lý nguồn tài nguyên cho sự phát triển bền vững
vùng ven bờ.QLTHVB phải đạt được mục tiêu của nó
trong các điều kiện hạn chế về môi trường,kinh tế,xã hội và tự
nhiên cũng như trong hạn chế của các hệ thống và thể chế về
pháp lý,tài chính và hành chính.
QLTHVB không thay thế cho các việc kế hoạch và quản lý
của từng ngành.Đúng hơn là nó tập trung vào sự liên kết giữa
hoạt động của các ngành,cũng cố và điều hành quản lý ngành
để đạt được mục tiêu một cách bền vững và đầy đủ.
QLTHVB là một quy trình tuần hoàn thường bao gồm 3 giai
đoạn cơ bản: l. khởi xướng, 2. lập kế hoạch và 3. thực thi,
giám sát và đánh giá.Tuy nhiên nó cũng phải hoạt động như
một quy trình lặp lại trong đó việc lập kế hoạch và thực thi
cần phải được tiến hành xem xét đánh giá và điều chỉnh
thường xuyên.
Vấn đề quan trọng nhất trong quản lý tổng hợp vùng ven bờ là
quản lý cái gì và như thế nào?Có rất nhiều dạng của quản lý
tổng hợp,theo NetCoast 2001,có thể phân biệt các dạng sau:
· Tổng hợp giữa các chính quyền: tổng hợp giữa các thể chế
và cấp độ hành chính theo các mức độ như địa phương,tỉnh,
quốc gia. Đây cũng được gọi là tổng hợp theo ngành dọc. Mục
đích của sự tổng hợp này là hoà hợp chính sách của quốc gia
và việc thực hiện cuối cùng ở các địa phương.
· Tổng hợp giữa các lĩnh vực: tổng hợp giữa các ngành khác
nhau tại cùng một cấp độ hành chính, ví dụ như giữa các bộ
NHÓM 7 Page 10
GVHD : TS.NGUYỄN XUÂN TRƯỜNG TIỂU LUẬN QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
với nhau.Đây cũng gọi là tổng hợp theo chiều ngang.Một
dạng đặc biệt là tổng hợp theo không gian,do vùng đất và biển
kế bên vùng ven bờ được quản lý bởi các ngành khác nhau (ví
dụ du lịch và nghề cá),nhưng các hoạt động thì lại ảnh hưởng
lẫn nhau.
· Tổng hợp giữa các tổ chức phi chính phủ và tổ chức chính
phủ: ví dụ như giữa các chính quyền địa phương và các tổ
chức tự nhiên ở địa phương và các công nghiệp nhỏ.
· Tổng hợp giữa khoa học và quản lý: tổng hợp giữa các lĩnh
vực khoa học khác nhau và chuyển giao khoa học tới những
người sử dụng và những người lập kế hoạch.Rõ ràng là khoa
học xã hội, khoa học công nghệ và tự nhiên có nhiệm vụ cung
cấp tài liệu cho các nhà quản lý vùng ven biển.Tuy nhiên,
thông tin của họ thường không tối ưu nhất.
· Tổng hợp quốc tế: có thể xảy ra vấn đề khi một vùng diện
tích lại nằm trong biên giới của hai nước.Do tác động của việc
sử dụng tài nguyên giữa hai nước là không biết được,do vậy
sự hợp tác quốc tế là điều kiện tiên quyết.
Mc Glashan đề nghị 4 phương diện quản lý tổng hợp: đó là hệ
thống quản lý theo không gian,theo thời gian,theo chiều dọc
và theo chiều ngang.
· Tổng hợp theo không gian: bao gồm những vấn đề liên quan
đến ranh giới, xa vào đất liền như thế nào và xa ra tới biển bao
nhiêu cần phải được xem xét trong các dự án quản lý.Vấn đề
đất liền và biển cần phải được coi trọng như nhau,các quá
trình tự nhiên không quan hệ đến các ranh giới hành chính.
· Tổng hợp theo thời gian:vấn đề thời gian phải được coi
trọng, để các quyết định trong hiện tại cần phải xem xét đến
tác động của nó trong tương lai để bảo đảm cho sự bền vững.
· Tổng hợp theo chiều dọc:tất cảc các mức độ của các mối liên
hệ, hợp tác,kế hoạch tại các điểm ở địa phương phải gắn với
kế hoạch của vùng ven bờ,với chiến lược của quốc gia và
quốc tế.Cũng trong lĩnh vực này,khi áp dụng các chính sách
NHÓM 7 Page 11
GVHD : TS.NGUYỄN XUÂN TRƯỜNG TIỂU LUẬN QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
trong các tổ chức,thông tin cần phải được thông qua từ thấp
đến cao trong các tổ chức cũng như trong các cấp (ví như văn
phòng qui hoạch,hội đồng địa phương,chính quyền quốc
gia,..).
· Tổng hợp theo chiều ngang: thể hiện nỗ lực nhằm điều phối
các ngành kinh tế tư nhân cũng như nhà nước,nhờ đó giảm
được sự chắp vá và chồng chéo trong quản lý.Các chủ đề khác
nhau trong phạm vi vùng bờ cần được đưa ra khi thành lập các
quyết định (ví dụ như bảo vệ vùng ven bờ,phát triển kinh tế,
bảo tồn thiên nhiên,...);các ban ngành,các tổ chức khác nhau
phải cùng làm việc với nhau hơn là làm việc riêng lẻ nhau.
Một vấn đề nữa trong quản lý tổng hợp vùng ven bờ là tính
toàn bộ.Đây là một phần của mô hình bền vững bao gồm cả
người dân,đặc biệt là người dân địa phương.Điều này đã được
nhận thấy trong hầu hết các bước khởi đầu thành công về
quản lý tổng hợp vùng ven bờ ở nhiều quốc gia,trong đó có sự
tham gia nhiệt tình của cộng đồng địa phương.
Từ các thảo luận trên,có thể thấy là có nhiều quan điểm khác
nhau về quản lý tổng hợp vùng ven bờ.Tuy vậy,rõ ràng là một
chương trình quản lý vùng bờ miêu tả một số dạng hợp tác
giữa các cơ quan hoặc tổ chức khác nhau để cố gắng giải
quyết những mâu thuẩn có khả năng sinh ra.Cũng cần phải
nhớ rằng các quốc gia khác nhau có các phương pháp tiếp cận
vùng ven bờ theo các đường lối khác nhau.Không có một cơ
chế nào phù hợp cho tất cả,do sự thành công của việc thực thi
QLTHVB phụ thuộc vào các điều kiện địa phương,kinh
nghiệm, đặc điểm của hệ sinh thái, áp lực phát triển cũng như
vào các khung chính sách,pháp lý khu vực và quốc gia,cùng
nhiều yếu tố khác nữa.Điều đó có nghĩa rằng mỗi một vùng
cần có một phương pháp tiếp cận của chính mình.Không có
một khuôn mẫu chung đối với tất cả các vùng khác nhau.
Tuy nhiên, kinh nghiệm trong thực thi QLTHVB cho đến nay,
đã thấy có một số nhân tố quan trọng cần phải được kết hợp
NHÓM 7 Page 12
GVHD : TS.NGUYỄN XUÂN TRƯỜNG TIỂU LUẬN QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
chặt chẻ trong bất kỳ hoạt động nào của QLTHVB để đạt
được thành công.Chúng bao gồm:
· Đạt được sự thống nhất và hợp tác giữa các ban ngành chính
phủ tại mọi cấp độ khác nhau.
· Đảm bảo sự ủng hộ của các thể chế chính trị cho việc thực
thi dự án.
· Đảm bảo sự tham gia và tham vấn đầy đủ của cộng đồng và
các chủ thể địa phương.
· Đạt được sự nhất trí trong việc quản lý và sử dụng bền vững
tài nguyên ven bờ.
· Đinh hướng các phương pháp quản lý có tính linh hoạt và
thích ứng khi các điều kiện thay đổi.
· Làm cho quy trình QLTHVB phù hợp với thể chế,tổ chức và
môi trường xã hội của quốc gia và khu vực.
V. Chức năng của QLTHVB
QLTHVB hoàn thiện các dạng quy hoạch phát triển truyền
thống theo 4 khía cạnh sau:
· Tăng cường nhận thức đầy đủ về các hệ tài nguyên thiên
nhiên quý giá của vùng bờ và tính bền vững của chúng đối với
các hoạt động đa dạng của con người.
· Tối ưu hóa việc sử dụng đa mục tiêu các hệ tài nguyên vùng
bờ thông qua việc tổng hợp các thông tin sinh thái,xã hội và
kinh tế;
· Triển khai các cách tiếp cận đa ngành,hợp tác và phối hợp
liên ngành nhằm giải quyết những vấn đề phát triển phức tạp,
đồng thời xây dựng các chiến lược tổng hợp nhằm mở rộng và
đa dạng hóa các hoạt động kinh tế.
· Giúp chính quyền nâng cao năng suất và hiệu quả của việc
đầu tư tài chính và nhân lực, nhằm đạt các mục tiêu kinh tế,
xã hội và môi trường, thực hiện được các cam kết quốc tế liên
quan đến môi trường biển và ven bờ.
Khác với các cách thức quy hoạch phát triển khác,QLTHVB
giúp tối ưu hóa các lợi ích kinh tế và hội do việc sử dụng tài
NHÓM 7 Page 13
GVHD : TS.NGUYỄN XUÂN TRƯỜNG TIỂU LUẬN QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
nguyên đem lại.Nơi mà sự phát triển bền vững phụ thuộc vào
nguồn tài nguyên ven bờ có khả năng phục hồi.QLTHVB sẽ
giúp quản lý việc sử dụng đa đa mục tiêu,duy trì được tính
tổng hợp về chức năng của các hệ ven bờ và sự ổn định của
các nguồn tài nguyên.Tất các các dạng phát triển đều tác động
đến chất lượng và năng suất của các hệ sinh thái ven bờ.Do
đó,sự phát triển kinh tế,xã hội bền vững của vùng bờ không
thể tách rời quy hoạch và quản lý môi trường.Điều này rất
quan trọng đối với các ngành kinh tế đang phát triển mà phụ
thuộc nhiều vào chất lương môi trường và tài nguyên thiên
nhiên trong việc bảo đảm an toàn thực phẩm,cũng như đối với
các ngành kinh tế đã phát triển với mô hình phát triển vùng
ven bờ tiên tiến.
QLTHVB cũng là một công cụ để giải quyết các vấn đề quốc
tế xuyên biên giới như ô nhiễm biển, khai thác quá mức các
nguồn tài nguyên chung và bảo vệ đa dạng sinh học.
VI. Các mục tiêu của quản lý tổng hợp vùng ven bờ
Mục tiêu chung của một chương trình quản lý tổng hợp vùng
ven bờ là đảm bảo sử dụng bền vững,tốt nhất các tài nguyên
thiên nhiên vùng bờ và duy trì lợi ích nhiều nhất từ môi
trường tự nhiên.Về mặt thực tế,chương trình quản lý tổng hợp
vùng ven bờ hỗ trợ các mục tiêu quản lý thông qua việc đưa ra
cơ sở cho việc sử dụng bền vững các tài nguyên,bảo tồn đa
dạng sinh học,ngăn ngừa thiên tai,kiểm soát ô nhiễm,tăng
cường lợi ích,phát triển bền vững nền kinh tế và tối ưu hóa
việc sử dụng đa mục tiêu.
Các mục tiêu cụ thể bao gồm: hỗ trợ ngành thủy sản,thu hút
khách du lịch,nâng cao sức khỏe cộng đồng,tăng cường nhận
thức cộng đồng,duy trì sản lượng sản phẩm có được từ các
vùng ngập mặn,...Tất cả các điều này đòi hỏi các hành động
của cộng đồng phải được điều phối tốt.Đó chính là cái mà
quản lý tổng hợp vùng ven bờ cần làm.Các mục tiêu cụ thể
đó là:
NHÓM 7 Page 14
GVHD : TS.NGUYỄN XUÂN TRƯỜNG TIỂU LUẬN QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
· Hướng dẫn mức độ sử dụng và can thiệp đối với nguồn tài
nguyên ven biển để chúng không bị sử dụng hoặc can thiệp
quá sức mang cho phép bằng cách phân định ra các nguồn tài
nguyên nào có thể khai thác mà không gây ra suy thoái hoặc
cạn kiệt, hay nguồn tài nguyên nào cần phải cải tạo hoặc khôi
phục lại để cho những mục đích sử dụng truyền thống và các
mục đích khác sau này.
· Duy trì môi trường vùng bờ với chất lượng cao nhất,xác định
và bảo vệ các loài có giá trị,xác định và bảo tồn các sinh cảnh
vùng bờ quan trọng.
· Giải quyết các mâu thuẩn giữa các hoạt động tác động đến
tài nguyên vùng bờ và việc sử dụng không gian.
· Tôn trọng các quy trình tự nhiên,khuyến khích các qui trình
có lợi và ngăn chặn những sự can thiệp có hại.
· Xác định và kiểm soát các hoạt động gây tác hại lên môi
trường vùng bờ.
· Kiểm soát các ô nhiễm từ nguồn,từ dòng chảy tràn và từ việc
tràn hóa chất do sự cố.
· Phục hồi các hệ sinh thái bị phá hủy.
· Khuyến khích các hoạt động có tính kết hợp hơn là những
hoạt động có tính cạnh tranh;
· Đảm bảo rằng các mục tiêu kinh tế,xã hội,môi trường đạt
được với mức chi phí có thể chấp nhận được với xã hội
· Bảo đảm các quyền và sử dụng truyền thống và các cách tiếp
cận hợp lý đối với tài nguyên
· Nâng cao nhận thức,phát triển cộng đồng.
Một điều quan trọng sống còn đối với sự thành công của quy
trình QLTHVB là việc bảo đảm sự tham gia và cam kết đầy
đủ của các cộng đồng địa phương từ những giai đoạn đầu tiên.
Điều này đặc biệt quan trọng trong trường hợp nhiều hoặc
toàn bộ vùng ven bờ thuộc quyền quản lý của địa phương, bởi
nhiều khi địa phương có sự chiếm hữu truyền thống và có các
quyền khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
NHÓM 7 Page 15
GVHD : TS.NGUYỄN XUÂN TRƯỜNG TIỂU LUẬN QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
VII. Các nhân tố thiết yếu của việc tổng hợp vùng ven bờ.
Nhân tố cơ bản của quá trình quản lý tổng hợp vùng ven bờ là
sự thống nhất và hợp tác.Bất kỳ một chính sách và hành động
quản lý tổng hợp nào được thiết kế để giải quyết các xung đột
trong phát triển vùng bờ phải căn cứ vào những hiểu biết có
cơ sở của các quá trình tự nhiên và những cách thức mà các
quá trình này có thể bị nhiễu động.Đó là các hiểu biết về các
vấn đề chính trị,kinh tế,xã hội,các nhu cầu hiện tại và tương
lai;cũng như bao gồm chi phí xã hội.
Việc quản lý hệ thống tài nguyên ven bờ được liên kết bởi 3
mặt của một hình khối hổ trợ nhau.Đó là các tiến trình,các
vấn đề và các hành động,mỗi một mặt như thế là một trục của
hình khối.Ba khía cạnh này quyện chặt vào nhau và việc chỉ
xem xét một trong 3 khía cạnh này có thể làm sụp đổ toàn bộ
hệ thống quản lý .
Các tiến trình quản lý bao gồm 3 thành phần thiết yếu đó là
kế hoạch,thực thi,quan trắc và đánh giá.
· Kế hoạch bao gồm sự khởi đầu,nghiên cứu,phân tích,hình
thành các chương trình,thông qua và các thủ tục.
· Sự thực thi đòi hỏi kinh phí và nhân lực và bước đầu phụ
thuộc vào thiết kế dự án và năng lực của các cơ quan thực thi.
· Quan trắc là phần quan trọng của quá trình quản lý và kết
hợp chặt chẽ vào giai đoạn sớm của chương trình.Mục tiêu
của quan trắc là xem xét dự án tiến triển như thế nào,thăm dò
các cơ hội có thể mở rộng,đánh giá tác động và bài học rút ra.
Đánh giá là cấp thiết do nó có khă năng sửa đổi các hoạt động
nếu như kế hoạch quản lý không tạo được những kết quả như
mong đợi. Kết quả của đánh giá làm thay đổi những kế hoạch
và chiến lược quản lý để có thể sửa chữa những sai sót ngay
từ giai đoạn đầu của quá trình quản lý.Theo cách này,quản lý
tổng hợp vùng ven bờ được lập lại với các bài học rút ra từ
những sai sót ngay từ những giai đoạn đầu của chương trình
quản lý các vấn đề bao gồm việc xử dụng tài nguyên (đánh
NHÓM 7 Page 16
GVHD : TS.NGUYỄN XUÂN TRƯỜNG TIỂU LUẬN QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
bắt quá mức, tiềm năng du lịch, phá hủy nơi ở,...),chất lượng
môi trường (ô nhiễm, xói lở vùng bờ) và các liên quan đến các
tổ chức (ví dụ những xung đột trong pháp chế,xung đột giữa
các ngành,việc thi hành luật kém hiệu quả,...)
Các hành động quản lý tạo nên mặt quan trọng nhất của
chương trình quản lý vùng ven bờ do liên quan đến việc áp
dụng các biện pháp trực tiếp hướng tới các thành quả mong
muốn đạt được.Ví dụ như duy trì chức năng thống nhất của hệ
sinh thái, nâng cao chất lượng nước và thay đổi hành vi của
con người.Các hành động bao gồm:
· Sắp xếp các tổ chức và thể chế để làm rõ các quyền hạn và
nghĩa vụ,tăng cường sức mạnh cho việc tuân theo pháp luật và
nhiệm vụ quan trắc và đánh giá.
· Khuyến khích và điều chỉnh để thay đổi các hành vi của con
người bao gồm việc hình thành quỹ trợ cấp,giấy phép đánh
bắt,cấm khai thác mỏ và đánh bắt cá,điều chỉnh tàu thuyền và
các hoạt động đánh bắt.
· Đầu tư công cộng trực tiếp,bao gồm các đầu tư của chính
phủ trong việc nâng cao nhận thức của cộng đồng,các nghiên
cứu thích đáng về quản lý,tạo ra cơ sở hạ tầng căn bản(ví dụ
như hệ thống thải chất thải)và các hổ trợ kỹ thuật nếu cần
thiết.
Những rào cản này có thể phá bỏ nếu thực thi các bước sau:
· Đặt các chương trình QLTHVB vào đúng hoàn cảnh xã hội
tại thời điểm sớm nhất có thể.
· Hướng dẫn một cách rõ ràng cho càng nhiều chủ thể càng tốt
thế nào là QLTHVB và những gì nó có thể và không thể đạt
được.
· Gia tăng mức độ minh bạch của quá trình ra quyết định
thông qua các bộ máy của QLTHVB.
· Nâng cao sự tham gia của các chủ thể và Tập hợp các đại
diện của các cơ quan chịu trách nhiệm thực thi và quản lý tại
vùng ven bờ vào trong quy trình QLTHVB.
NHÓM 7 Page 17
GVHD : TS.NGUYỄN XUÂN TRƯỜNG TIỂU LUẬN QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
VIII. Cơ cấu tổ chức hệ thống QLTHVB
Quản lý tài nguyên vùng ven bờ đòi hỏi sự tham gia của tất cả
các cấp.Cấp chính quyền địa phương tham gia và họ quyết
định chổ nào dự định phát triển,nơi nào tài nguyên được tìm
thấy và nơi nào cần khai thác lợi ích. Chính phủ cũng tham
gia vào Thu hút cộng đồng đầu tư.
Tiến trình
- Kế hoạch
- Thực thi
- Quan trắc và đánh giá
Hành động Vấn đề
-Ô nhiễm
-Mất nơi ở
-Khai thác quá mức
Khuyến khích thi hành
pháp luật, thay đổi thái độ
Sắp xếp các thể chế, tổ chức
một số trách nhiệm và quyền hạn khác đối với các lĩnh vực về
biển ở đó (hàng hải, an ninh quốc gia, cá di cư, quan hệ quốc
tế,...).
Cần thấy rõ rằng QLTHVB là một chương trình tổng thể, bao
trùm,nó không thay thế thể chế hiện tại,trong phần lớn trường
hợp, mà cũng cố chúng . Sự tổng hợp các lợi ích đa ngành vào
trong một chương trình là rất khó khăn.
Việc có được một cơ chế điều phối các hoạt động đa ngành,
hướng tới mục tiêu của QLTHVB,chứ không phải một cơ
quan đơn lẻ thực hiện,là một trong những công việc tối cần
thiết của chương trình QLTHVB.
Đối với một chương trình có phạm vi lớn và toàn diện, có thể
xem xét và hình thành một cơ quan mới, chẳng hạn như một
cơ quan lãnh đạo chung, được chính phủ trợ giúp các nguồn
lực, tài chính cần thiết để hoạt động. Trong trường hợp khác,
một cơ quan đang hoạt động cũng có thể trở thành cơ quan
NHÓM 7 Page 18
GVHD : TS.NGUYỄN XUÂN TRƯỜNG TIỂU LUẬN QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
trọng trách thực hiện chương trình, nó được tăng cường để
quản lý, bảo tồn, với các mục tiêu rõ ràng và phù hợp với luật
pháp và được trao trách nhiệm, nguồn lực, tiện ích hành chính
và kỹ thuật cần thiết.
Không có câu trả lời duy nhất cho câu hỏi quyền hạn
QLTHVB sẽ đặt vào chổ nào trong cơ cấu thể chế nhà nước
hiện hành. Nó sẽ rất khác biệt đối với mỗi quốc gia, phụ thuộc
vào những câu trả lời cho các câu hỏi như: liệu một cơ quan
điều phối có đủ không? Nếu đủ thì nó phải đặt ở bộ nào?
Hoặc là có cần một cơ quan có quyền lực tiến hành QLTHVB
một cách độc lập không? Kỹ năng cần thiết của nhân viên là
gì? Cơ quan này lồng ghép vai trò của một số cơ quan, ngành
liên quan nhiều đến vùng ven bờ như thế nảo? Đó là các vấn
đề quan trọng cần phải xem xét. Về mặt thể chế, hầu hết các
quốc gia sẽ tìm thấy rằng chương trình QLTHVB của họ có
thể được quản lý bằng cơ chế quản lý hiện hành, với ít sự thay
đổi nhất trong các sắp xếp về thể chế. Ưu tiên về chính trị của
một số quốc gia trong việc thành lập một cơ quan mới cho các
chương trình QLTHVB thường khó thực hiện được, do vậy cơ
quan QLTHVB có lẽ nên đặt trong một cơ quan có quyền lực
pháp lý phù hợp nhất như là Cơ quan quản lý tài nguyên, môi
trường hoặc là cơ quan mà có quyền lực đối với nhiều cơ quan
khác, nếu như nó có chức năng điều phối mạnh.
QLTHVB đòi hỏi sự tổng hợp hoạt động của nhiều ngành liên
quan vào chung một chương trình, và điều này có thể xảy ra
nếu có một sự điều phối đa ngành mạnh, cho nên sẽ rất cần
thiết, nếu như không phải là bắt buộc, thiết lập một Ủy ban
điều phối đa ngành, tham gia xây dựng kế hoạch chiến lược.
Ủy ban này sau đó cũng tham gia trong việc hình thành kế
hoạch tổng thể với nhiệm vụ kiểm tra tiến độ, xem xét các
thay đổi của chương tr.nh, thảo luận các quy định đề xuất và
cung cấp các thông tin, tư vấn kỹ thuật. Sau này, khi triển khai
NHÓM 7 Page 19
GVHD : TS.NGUYỄN XUÂN TRƯỜNG TIỂU LUẬN QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
chương trình,Ủy ban này sẽ xem xét các đề cương cụ thể về
phát triển và quản lý tài nguyên.
Cơ quan QLTHVB cũng cần phải xây dựng nhiệm vụ,đội ngũ,
có nguồn tài chính và ít nhất phải hoàn thành 3 nhiệm vụ sau:
· Điều phối liên ngành về phát triển vùng bờ và các vấn đề
bảo tồn nguồn lợi.
· Đánh giá môi trường và cấp phép cho các hoạt động chính
trong phát triển vùng ven bờ.
· Đạt được sự tuân thủ của các ngành với các điều lệ và quyết
định của QLTHVB.
Có thể có thêm một số nhiệm vụ khác như là xây dựng các
dịch vụ về QLTHVB. Sẽ rất hữu ích nếu trao cho một Bộ cụ
thể triển khai giai đoạn lập kế hoạch và chiến lược và Bộ khác
hiện kế hoạch, bao gồm cả xây dựng và quản lý chương trình.
B : CÁC HỆ SINH THÁI VÙNG VEN BỜ
I. Hệ sinh thái cửa sông
1. Các kiểu cửa sông
Cửa sông (estuary) là thuỷ vực ven bờ tương đối kín, nơi mà
nước ngọt và nước biển gặp nhau và trộn lẫn vào nhau.Các
đặc trưng về địa mạo, lịch sử địa chất và điều kiện khí hậu tạo
nên sự khác biệt về tính chất vật lý và hoá học của các kiểu
cửa sông.
Kiểu tiêu biểu nhất là cửa sông châu thổ ven bờ (coastal plain
estuary).Các cửa sông thuộc kiểu này được hình thành vào
cuối kỷ băng hà muộn,khi nước biển dâng lên ngập các châu
thổ sông ven bờ biển.Kiểu cửa sông thứ hai là vịnh nửa kín
(semi-enclose bay) hoặc đầm phá (lagoon).Ở đây các doi cát
song song với đường bờ hình thành và ngăn cản một phần sự
trao đổi nước từ biển.Độ muối trong các đầm khác nhau
nhiều,phụ thuộc vào điều kiện khí hậu.Kiểu cửa sông cuối
cùng là vịnh hẹp.Các thung lũng này bị trũng bởi hoạt động
NHÓM 7 Page 20
GVHD : TS.NGUYỄN XUÂN TRƯỜNG TIỂU LUẬN QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
băng hà và sau đó bị ngập bởi nước biển. Chúng đặc trưng bởi
cửa nông làm hạn chế trao đổi nước trong vịnh với biển.
Các kiểu cửa sông còn được phân chia bằng cơ sở khác dựa
trên xu thế biến thiên của độ muối.
Nước ngọt có tỷ trọng nhỏ hơn nước biển,khi gặp nhau nước
ngọt sẽ nổi trên nước biển.Chúng sẽ trộn lẫn khi tiếp xúc,quá
trình này khác nhau do nhiều yếu tố.Khi cột nước thẳng đứng
có độ muối cao nhất ở đáy và thấp nhất ở tầng mặt,người ta
gọi là kiểu cửa sông dương (positive estuary).Ở vùng khô hạn,
lượng nước ngọt từ sông nhỏ và tốc độ bay hơi cao,hình thành
kiểu cửa sông âm (negative estuary).Đặc trưng của nó là nước
mặn đi vào bề mặt và đôi khi được pha loãng bởi lượng nước
ngọt nhỏ.Kiểu cửa sông mang tính chất mùa (seasonal
estuary) hình thành ở vùng có mùa mưa và mùa khô rõ rệt.
Độ muối ở đây thay đổi theo thời gian chứ không phải thay
đổi theo không gian.
2. Các đặc trưng môi trường
Chế độ thuỷ lý hoá ở vùng cửa sông thay đổi trong giới hạn
lớn làm cho môi trường gây ra nhiều áp lực đối với sinh vật.
Sự thay đổi chế độ muối là đặc trưng cơ bản ở cửa sông và
phụ thuộc vào mùa, địa hình, thuỷ triều và lượng nước ngọt.
Hầu hết các vùng cửa sông đều có nền đáy bùn.Trầm tích
được mang đến từ nước ngọt và nước biển.Vai trò của vật chất
từ sông hoặc từ biển trong quá trình hình thành nền đáy bùn
khác nhau giữa các cửa sông.Thành phần cơ học của trầm tích
cũng bị chi phối bởi dạng chảy, nơi dòng chảy mạnh, chất đáy
thô hơn; còn nơi nước tĩnh, chất đáy rất mịn. Các tai biến như
lũ lội, bão lớn có thể làm thay đổi lớn đặc điểm trầm tích và
gây chết hàng loạt sinh vật.Nhiệt độ ở vùng cửa sông thay đổi
lớn hơn so với các thuỷ vực ven bờ lân cận.
Biến thiên của giá trị này mang tính mùa vụ và theo điều kiện
khí quyển. Nhiệt độ còn khác nhau giữa các tầng nước. Bề
mặt có dao động cao hơn do trao đổi với khí quyển.Cửa sông
NHÓM 7 Page 21
GVHD : TS.NGUYỄN XUÂN TRƯỜNG TIỂU LUẬN QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
được đất liền che chắn 3 phía, nên ảnh hưởng tạo sóng của gió
được giảm thiểu và vì vậy chỉ có sóng nhỏ. Hoạt động yếu của
sóng tạo điều kiện cho nền đáy mịn hơn, cho phép thực vật có
rễ phát triển và nền đáy ổn định. Dòng chảy ở cửa sông do
triều và nước sông chi phối. Tốc độ dòng chảy mạnh nhất đạt
được ở giữa luồng. Ở một số vùng nơi cửa sông bị đóng vào
mùa khô, sự vận chuyển nước giảm nghiêm trọng có thể dẫn
đến ứ đọng nước, hàm lượng O2 giảm, tảo nở hoa và cá chết.
Hầu hết các cửa sông đều có lượng nước ngọt chảy ra liên tục
từ nguồn. Một lượng nước ngọt vận chuyển ra cửa sông trộn
lẫn vào nước biển theo mức độ khác nhau, thể tích của lượng
nước này được tải ra khỏi cửa sông hoặc bay hơi để bù cho
thể tích nước tương tự chảy ra từ nguồn.Thời gian cần thiết để
đo khối nước ngọt đã cho được tải ra khỏi cửa sông được gọi
là thời gian chảy. Khoảng thời gian này có thể định lượng
được tính ổn định của hệ cửa sông. Thời gian chảy kéo dài rất
quan trọng cho sự duy trì quần xã sinh vật nổi.Do có số lượng
lớn vật lơ lững trong nước vùng cửa sông, ít nhất là vào một
thời kỳ nào đó trong năm, độ đục của thuỷ vực thường rất cao.
Độ đục có giá trị cao nhất khi lượng nước ngọt chảy ra nhiều
nhất và giảm dần khi ra phía cửa, nơi lượng nước biển ưu thế.
Ảnh hưởng sinh thái chính của độ đục là làm giảm đáng kể độ
chiếu sáng, vì thế giảm quang hợp của thực vật phù du và thực
vật đáy làm giảm năng suất sinh học. Trong điều kiện độ đục
quá cao, sinh khối thực vật phù du gần như không có và khối
lượng vật chất hữu cơ được tạo thành chủ yếu bởi thực vật bãi
lầy nổi.Sự hoà tan oxy trong nước giảm theo quá trình tăng
nhiệt độ và độ muối. Vì vậy lượng oxy thay đổi khi các thông
số này biến thiên. Ở các cửa sông có độ sâu lớn, thường xuất
hiện lớp đẳng nhiệt vào mùa hè và tồn tại sự phân tầng độ
muối. Trong điều kiện đó, trao đổi khí giữa lớp mặt giàu oxy
và tầng đáy sâu diển ra rất kém. Hiện tượng này cùng với hoạt
NHÓM 7 Page 22
GVHD : TS.NGUYỄN XUÂN TRƯỜNG TIỂU LUẬN QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
động sinh học tích cực, sự trao đổi nước chậm gây ra sự thiếu
oxy ở tầng đáy.
3. Quần xã sinh vật
Động vật biển là nhóm lớn nhất ở vùng cửa sông khi xét về
phương diện số lượng loài và được xếp vào hai phân nhóm.
Các động vật hẹp muối (stenohaline) không thể chịu được sự
biến thiên độ muối và chỉ sống được ở vùng cửa sông với độ
muối lớn hơn 25%
.Đây thực sự là những động vật sống ở
biển. Phân nhóm rộng muối (euryhaline) có thể thích nghi
được với độ muối 15 – 18%
0
, thậm chí một số loài chịu được
muối nhạt đến 5%
0
.Các loài nước lợ hay còn gọi là các loài
cửa sông điển hình,có chu kỳ sống hoàn toàn ở vùng cửa
sông, sống chủ yếu ở vùng có độ muối trong khoảng từ 5-18%
nhưng không xuất hiện trong nước ngọt hay nước biển thực
sự. Một số giống loài nước lợ có thể hạn chế phân bố về phía
biển không phải vì yếu tố sinh lý mà do các mối quan hệ sinh
học như cạnh tranh hoặc vật dữ.Nhóm động vật nước ngọt
không thể chịu được độ muối trên 5%
và chỉ sống ở phần trên
cửa sông. Ngoài ra, vùng cửa sông còn có nhóm sinh vật quá
độ gồm những loài như cá di cư. Chúng có thể đi qua cửa
sông trên đường đến bãi đẻ ngoài biển hoặc trong sông. Ví dụ
thông thường là cá hồi hoặc cá chình. Một số sinh vật chỉ trải
qua một phần cuộc đời trong cửa sông, thường gặp là giai
đoạn ấu trùng. Số lượng loài động vật cửa sông thường nghèo
hơn các quần cư biển hoặc các vùng nước ngọt lân cận. Đây là
vùng khắc nghiệt mà nhiều sinh vật biển hoặc nước ngọt
không thể chịu đựng được. Các sinh vật cửa sông thực sự chủ
yếu có nguồn gốc biển.Sinh vật biển chịu sự giảm độ muối tốt
hơn sinh vật nước ngọt chịu đựng độ muối tăng,vì vậy sinh
vật cửa sông có ưu thế bởi động vật biển.Tính đa dạng kém
của thành phần loài ở cửa sông được giải thích bởi vài lý do.
kiến phổ biến nhất cho rằng điều kiện môi trường biến động
chỉ cho phép những loài với sự chuyên hoá chức năng sinh lý
NHÓM 7 Page 23
GVHD : TS.NGUYỄN XUÂN TRƯỜNG TIỂU LUẬN QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
đặc biệt để thích nghi. Cách giải thích thứ hai đề cập đến thời
gian địa chất của quá trình hình thành các cửa sông. Sự tồn tại
của chúng không đủ dài để khu hệ cửa sông phát triển đầy đủ.
Lý do cuối cùng có thể là do hình thái vùng cửa sông kém đa
dạng nên có ít nơi sống và có ít loài động vật.Thành phần loài
thực vật lớn ở cửa sông kém phong phú. Hầu hết các vùng
ngập nước thường xuyên đều có đáy mùn không phù hợp để
rong bám.Hơn nữa,nước đục hạn chế độ chiếu sáng,vì vậy
vùng nước sâu hầu như không có thực vật.Vùng triều và vùng
nước nông cho phép phân bố một số loài rong lục,cỏ biển và
đặc biệt là thực vật ngập mặn ở vùng nhiệt đới.Tảo Silic khá
phổ biến, phong phú trên các bãi triều gần bùn vùng cửa sông.
Chúng có thể di động lên bề mặt hoặc vào trong bùn phụ
thuộc vào độ chiếu sáng. Bùn cửa sông cũng là nơi sống thích
hợp của tảo lam sợi.Vi khuẩn là thành phần phong phú cả
trong nước và trong bùn, nơi giàu có vật chất hữu cơ. Sinh vật
phù du ở vùng cửa sông khá nghèo về thành phần loài.Tảo
Silic thường chiếm ưu thế trong mùa nóng và thậm chí quanh
năm ở một số khu vực. Động vật phù du cũng nghèo về thành
phần cũng như biến động lớn theo mùa.Các loài cửa sông thực
sự chỉ tồn tại ở các cửa sông lớn và ổn định.Ở các cửa sông
nông,thành phần động vật phù du biển điển hình chiếm ưu thế.
4. Các quá trình sinh thái
Năng suất sinh học sơ cấp ở vùng cửa sông chủ yếu do tảo
Silic sống đáy.Tuy nhiên,cửa sông lại có một lượng lớn chất
hữu cơ và năng suất thứ cấp cao.Nguồn năng suất sơ cấp chủ
yếu được cung cấp bởi thảm thực vật vùng triều bao quanh
cửa sông.Ngoài ra, cửa sông còn nhận vật chất hữu cơ từ sông
và từ biển với lượng đáng kể.Vùng cửa sông có rất ít động vật
ăn thực vật và vì vậy,vật chất có nguồn gốc thực vật phải được
phân huỷ thành mùn bã để đi vào chuỗi thức ăn.Quá trình này
có sự tham gia của vi khuẩn. Mùn bã hữu cơ lắng đọng hình
thành nền đáy giàu vi khuẩn và tảo.Đây là những nguồn thức
NHÓM 7 Page 24
GVHD : TS.NGUYỄN XUÂN TRƯỜNG TIỂU LUẬN QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
ăn quan trọng cho các động vật ăn mùn bã và chất lơ lững.
Nhìn chung,nhờ giàu dinh dưỡng và tương đối ít các vật dữ,
cửa sông trở thành nơi nuôi dưỡng ấu trùng của nhiều loài
động vật mà khi trưởng thành chúng sống ở vùng khác. Đây
cũng là bãi kiếm ăn của nhiều loài động vật di cư.Bên cạnh
đó,nhờ sự bảo vệ tự nhiên của đầm phá và vùng cửa sông mà
nó có giá trị lớn cho sự phát triển cảng và cảng biển, tiếp đến
là các khu công nghiệp và dân cư lân cận.Cửa sông cũng được
xem như là môi trường tiếp nhận các loại rác thải công nghiệp
và sinh hoạt dân cư.Hoạt động đánh bắt thủy sản thường dựa
trên hệ sinh thái cửa sông đầm phá.Cuối cùng thì cửa
sông,đầm phá còn được sử dụng cho mục đích nghỉ ngơi,du
lịch giải trí.
II. Hệ sinh thái vùng triều
Vùng triều là vùng không ngập nước một khoảng thời gian
trong ngày với các yếu tố tự nhiên thay đổi do nước và không
khí chi phối.Quần xã sinh vật thích nghi môi trường này và sự
liên kết giữa sinh vật và môi trường tạo nên hệ sinh thái vùng
triều.
1. Môi trường vùng triều
Thuỷ triều là yếu tố quan trọng nhất tác động lên mọi sinh vật
vùng triều. Thiếu sự hoạt động của thuỷ triều với sự lên xuống
theo chu kỳ của mực nước biển hệ sinh thái này sẽ không tồn
tại và các yếu tố khác hết bị chi phối.Có ba chế độ thuỷ triều
khác nhau gồm nhật triều,bán nhật triều và hỗn hợp triều.Độ
cao thuỷ triều khác nhau từ ngày này sang ngày khác do so
sánh giữa vị trí mặt trời và mặt trăng.Thuỷ triều cùng với thời
gian có thể ảnh hưởng trực tiếp lên sự tồn tại và cấu trúc quần
xã sinh vật vùng triều. Ảnh hưởng đầu tiên là thời gian vùng
triều phơi ra không khí và thời gian ngập nước.Trong thời
gian phơi bãi,sinh vật phải chịu đựng sự dao động nhiệt lớn và
dễ bị mất nước. Do hầu hết sinh vật vùng triều phải chờ ngập
nước mới bắt mồi,thời gian phơi bãi càng dài cơ hội kiếm ăn
NHÓM 7 Page 25