Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Luận văn tốt nghiệp: Những thay đổi của Việt Nam trong 15 năm về kinh tế phần 4 pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (75.9 KB, 11 trang )

34

Thứ hai là, nh trên đã phân tích, nếu chỉ xét t bản Thơng
nghiệp với vai trò thuần tuý là thực hiện giá trị thì t bản
Thơng nghiệp không hề tạo ra một chút giá trị nào, tức là hoạt
động đó sẽ không mang lại một chút lợi nhuận nào cho nhà t
bản Thơng nghiệp. Do vậy,nếu muốn t bản Thơng nghiệp
tiếp tục đảm nhiệm việc tiêu thụ hàng hóa, thực hiện gia trị thì
nhà t bản Công nghiệp buộc phải nhờng một phần giá trị
thặng d cho t bản Thơng nghiệp.
Ngoài ra,sự chuyên môn hoá này còn góp phần mở rộng qui
mô tái sản xuất,mở rộng thị trờng, tạo điều kiện cho Công
nghiệp phát triển. Hơn nữa, tuy không trực tiếp tạo ra giá trị
thặng d nhng t bản Thơng nghiệp lại góp phần làm tăng
năng suất lao động, tăng lợi nhuận và do đó, làm cho tỷ suất lợi
nhuận chung của xã hội tăng.
Nh vậy, khái quát lại thì lợi nhuận Thơng nghiệp có nguồn
gốc từ phần giá trị thặng d đợc tạo ra trong quá trình sản xuất.
Tuy nhiên lợi nhuận đó đợc thực hiện nh thế nào? Do t bản
Thơng nghiệp chỉ tham gia vào quá trình lu thông cho nên lợi
nhuận Thơng nghiệp chính là phần chênh lệch giữa giá bán và
giá mua hàng hoá.Nhng nói thế không có nghĩa là nhà t bản
Thơnh nghiệp phải mua hàng hoá với đúng giá trị của nó để rồi
35

bán cao hơn giá trị nhằm thu lợi nhuận chênh lệch. Mà thực chất
thì nhà T bản Thơng nghiệp
sẽ mua hàng hoá thấp hơn giá trị và bán đúng bằng giá trị của
hàng hoá. Nguyên nhân của hiện tợng này là do sự hình thành
một tỉ suất lợi nhuận bình quân mới là bình quân các tỉ suất lợi
nhuận của hai nghành Công nghiệp và Thơng nghiệp. Ta có thể


thấy rõ điều này khi phân tích ví dụ sau:
Một nhà T bản Công nghiệp có một lợng t bản là 800 với
cấu tạo: 700c + 100v
với tỉ suất giá trị thặng d: m = 100% => giá trị hàng hóa là:
700c + 100v + 100 = 900
Tỉ suất lợi nhuận nghành Công nghiệp sẽ là:
P
CN
= 100/800 * 100% =
12,5%
Bây giờ,nếu có thêm một nhà t bản Thơng nghiệp bỏ ra 200
để mua hàng hoá =>lúc đó ta có tỉ suất lợi nhuận bình quân sẽ
bằng:
36

100
*100% = 10%

800 + 200
Theo tỉ suất lợi nhuận chung mới này thì phần lợi nhuận Công
nghiệp và lợi nhuận Thơng nghiệp tơng ứng sẽ bằng:
LnCN = 800 * 10% = 80
LnTN = 200 * 10% = 20
Khi đó nhà t bản Thơng nghiệp sẽ mua hàng hoá từ nhà t bản
Công nghiệp với giá thấp hơn giá trị:
800 + 80 = 880 (<900)
và sẽ bán với giá đúng bằng giá trị và thu đợc lợi nhuận
Thơng nghiệp:
880 + 20 = 900
Nh vậy là, với sự hình thành tỉ suất lợi nhuận chung giữa hai

ngành Công nghiệp và Thơng nghiệp thì lợi nhuận Thơng
37

nghiệp đã đợc thực hiện. Với sự xuất hiện của lợi nhuận
Thơng nghiệp trong xã hội t bản,đã hình thành nên hai loại
giá cả sản xuất là giá cả sản xuất Công nghiệp và giá cả sản xuất
thị trờng. Nó cũng góp phần che dấu thêm một mức nữa quan
hệ bóc lột TBCN.
b/ Lợi tức cho vay và lợi nhuận ngân hàng:
Nh trên đã phân tích,t bản Thơng nghiệp là một bộ phận
t bản Công nghiệp tách ra, phục vụ quá trình lu thông hàng
hoá của nhà t bản Công nghiệp. Còn t bản cho vay, thực chất
cũng là một bộ phận của t bản Công nghiệp đợc tách ra nhng
là để,một mặt vừa đáp ứng nhu cầu về t bản,mặt khác là để
thoả mãn sự thèm khát lợi nhuận của nhà t bản. Sau đây, ta sẽ
tiến hành xem xét nguồn gốc hình thành của t bản cho vay để
làm rõ thêm điều đó.
Trớc hết, cần phải thấy rằng trong quá trình chu chuyển của
t bản, có nhiều lúc, nhà t bản Công nghiệp hoặc Thơng
nghiệp có một số t bản tiền tệ nhàn rỗi, ví dụ nh tiền trong
quỹ khấu hao tái sản cố định, tiền dùng để mua nguyên nhiên
liệu, vật liệu nhng cha tới kỳ mua Nếu nhà t bản chỉ để
tiền ở dạng nhàn rỗi, không hoạt động nh vậy thì lợng tiền đó
38

sẽ không mang lại cho nhà t bản một thu nhập nào.Mà đối với
nhà t bản thì tiền phải đẻ ra tiền,bất cứ một đơn vị t bản nào
cũng phải mang lại lợi nhuận. Do vậy mà nhà t bản nẩy sinh ý
định đem lợng t bản nhàn rỗi đó cho ngời khác vay để kiếm
lời.

Mặt khác, cũng chính trong những thời gian đó, lại có những
nhà t bản lại đang rất cần tiền, ví dụ nh đang cần mua nguyên
nhiên vật liệu để tiếp tục sản xuất nhng lại cha bán đợc
hàng hoá, cần tiền để đổi mới tài sản cố định nhng quỹ khấu
hao không đủ Do đó, những nhà t bản này tất yếu có nhu cầu
vay t bản của ngời khác.
Nh vậy là cùng một lúc vừa có những nhà t bản có nhu cầu
đi vay lại vừa có những nhà t bản có nhu cầu cho vay. Và tất
yếu sẽ hình thành nên mối quan hệ tín dụng TBCN và nhà t bản
Công nghiệp có t bản nhàn rỗi sẽ trở thành nhà t bản cho vay.
Vậy t bản cho vay "là t bản tiền tệ mà ngời chủ của nó
nhờng cho một ngời khác sử dụng trong một thời gian để
nhận đợc một số lời nào đó". Đặc điểm nổi bật của t bản cho
vay là nó không thuộc sở hữu của nhà t bản sử dụng nó vào sản
xuất. Có nghĩa là khi nhà t bản cho vay cho ngời khác vay
39

một lợng t bản tiền tệ là chỉ cho ngời đó quyền sử dụng
lợng t bản tiền tệ đó chứ không cho quyền sở hữu lợng t
bản đó. Do vậy mà ở t bản cho vay thì quyền sử dụng và quyền
sở hữu đợc tách rời nhau, đây cũng là sự khác biệt căn bản của
t bản cho vay với t bản Công nghiệp và t bản Thơng nghiệp.
Nh trên đã phân tích, nhà t bản cho vay cho ngời khác sử
dụng lợng t bản tiền tệ nhàn rỗi của mình không phải do lòng
tốt hay vì một cái gì khác mà chỉ đơn thuần là để kiếm lời.
Chính vì vậy mà nhà t bản đi vay phải trả cho nhà t bản cho
vay một số tiền nào đó, khoản tiền này đợc gọi là lợi tức và nó
dợc trích từ phần lợi nhuận thu đợc của nhà t bản đi vay sau
khi anh ta sử dụng lợng t bản đi vay vào quá trình sản xuất.
Vậy lợi tức là một phần lợi nhuận bình quân mà nhà t bản đi

vay phải trả cho nhà t bản cho vay căn cứ vào món tiền mà nhà
t bản cho vay đã đa cho nhà t bản đi vay sử dụng. Nh vậy
thì xét cho cùng nguồn gốc của lợi tức chính là phần giá trị
thặng d mà nhà t bản Công nghiệp chiếm đoạt của ngời lao
động.
Với sự hình thành của t bản cho vay và tơng ứngvới nó là
lợi tức cho vay thì lúc này phần lợi nhuận bình quân mà các nhà
40

t bản Công nghiệp và t bản Thơng nghiệp thu đợc không
còn thuộc hoàn toàn về họ mà phần lợi nhuận bình quân đó đợc
chia ra thành lợi tức cho vay là khoản đem trả cho nhà t bản
cho vay, phần còn lại sau khi trả lợi tức đợc gọi là thu nhập của
chủ xí nghiệp. Lợng lợi tức đem trả nhiều hay ít tuỳ theo quan
hệ cung cầu về t bản cho vay và nó phụ thuộc vào tỉ suất lợi
tức, là tỉ lệ phần trăm giữa tổng số lợi tức và tổng số t bản tiền
tệ cho vay.
Nếu kí hiệu lợi tức là Z còn tỉ suất lợi tức là Z thì ta có:
Z = ( Z/t bản cho vay) * 100%
Phần lợi tức cao hay thấp là do tỉ suất lợi tức quy định,đến
lợt nó thì tỉ suất lợi tức lại bị quy định bởi các yếu tố:
Giới hạn cao nhất của tỉ suất lợi tức chính là tỉ suất lợi nhuận
bình quân do vậy mà sự thay đổi của tỉ suất lợi nhuận bình quân
cũng dẫn tới sự thay đổi thuận chiều tơng ứng của tỉ suất lợi
tức. Cũng chính vì vậy cho nên,vì tồn tại quy luật giảm dần của
tỉ suất lợi nhuận do đó tỷ suất lợi tức cũng có xu hớng giảm
dần.
41

Tỉ suất lợi tức phụ thuộc vào mối quan hệ cung cầu về t bản

cho vay.
Nói tóm lại,xuất phát từ việc nảy sinh mối quan hệ tín dụng
TBCN cho nên đã nảy sinh các nhu cầu cho vay và đi vay đã dẫn
tới sự hình thành t bản cho vay và lợi tức cho vay. Tuy nhiên,
quan hệ tín dụng TBCN ở thời kỳ này mới chỉ ở dạng đơn giản
mang tính trực tiếp, tức là nhà t bản cho vay thiết lập trực tiếp
mối quan hệ tín dụng với nhà t bản đi vay. Nhng cùng với sự
phát triển của CNTB thì nhu cầu đi vay và cho vay ngày càng
nhiều, các quan hệ tín dụng trong xã hội t bản trở nên trồng
chéo, phức tạp. Do vậy đã đòi hỏi phải xuất hiện một tổ chức
đóng vai trò trung gian để đơn giản hoá các quan hệ tín dụng
này. Đó chính là ngân hàng TBCN, là một tổ chức kinh doanh t
bản tiền tệ, đóng vai trò môi giới giữa ngời đi vay và ngời cho
vay. Ngân hàng thực hiện chức năng môi giới này thông qua hai
nghiệp vụ cơ bản của nó là nghiệp vụ cho vay và nghiệp vụ nhận
gửi. Với nghiệp vụ nhận gửi, ngân hàng thu hút tiền vốn vào
quỹ của nó bằng cách tập hợp các t bản và thu nhập nhàn rỗi
không hoat động. Còn với nghiệp vụ cho vay, ngân hàng cho các
nhà t bản trực tiếp kinh doanh,tức là các nhà t bản Công
nghiệp và t bản Thơng nghiệp vay t bản tiền tệ để sử dụng
42

hay nói khác đi nghiệp vụ cho vay là nghiệp vụ phân phối và sử
dụng những t bản ngân hàng có đợc qua nghiệp vụ nhận gửi.
Trong nghiệp vụ nhận gửi,để huy động đợc các nguồn t bản
nhàn rỗi, Ngân hàng trả một khoản lợi tức nhận gửi cho các
khoản gửi. Đồng thời, trong nghiệp vụ cho vay, Ngân hàng lại
thu một khoản lợi tức cho vay của những ngời đi vay.Và nh
mọi tổ chức kinh doanh TBCN khác,mọi hoạt động của Ngân
hàng cũng phải nhằm mục tiêu đem lại lợi nhuận.Chính vì vậy,

dựa trên việc quy định lợi tức nhận gửi nhỏ hơn lợi tức cho vay,
Ngân hàng đã thu đợc lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh của
mình.Khoản lợi nhuận này đợc gọi là lợi nhuận Ngân hàng,nó
chính là khoản chênh lệch giữa lợi tức cho vay và lợi tức nhận
gửi sau khi đã trừ đi những khoản chi phí cần thiết về nghiệp vụ
Ngân hàng và cộng với các khoản thu nhập khác về kinh doanh
tiền tệ.Khác với lợi tức vận động theo quy luật tỉ suất lợi tức
giảm dần, lợi nhuận ngân hàng hoạt động theo quy luật tỉ suât
lợi nhuận bình quân giảm dần,có nghĩa là lợi nhuận ngân hàng
ngang bằng với lợi nhuận bình quân.
c/ Địa tô T bản Chủ nghĩa:
43

ở trên chúng ta đã nghiên cứu và xem xét sự hình thành và
xâm nhập của CNTB vào lĩnh vực Thơng nghiệp và tín dụngvà
tơng ứng là sự hình thành nên các bộ phận t bản Thơng
nghiệp; t bản cho vay và t bản Ngân hàng. Đến phần này,
chúng ta sẽ xem xét sự xâm nhập của CNTB vào trong Nông
nghiệp dẫn tới sự hình thành bộ phận t bản kinh doanh trong
Nông nghiệp và sự xuất hiện một hình thức mới của lợi nhuận là
địa tô T bản Chủ nghĩa.
Trớc tiên, ta sẽ xem xét sự xâm nhập của PTSX TBCN vào
trong Nông nghiệp. Với sự phát triển của CNTB, giai cấp T bản
không chỉ thống trị nghành Công nghiệp mà còn dần dần thao
túng cả lĩnh vực Nông nghiệp. Sự xâm nhập của CNTB vào lĩnh
vực Nông nghiệp có thể diễn ra theo hai cách sau
Một là, trớc hết vẫn duy trì về căn bản nền kinh tế phong
kiến địa chủ trớc kia và sau đó thông qua các cuộc cải cách mà
dần dần chuyển sang đờng lối kinh tế theo kiểu T bản Chủ
nghĩa.

Cách thứ hai là,ngay từ đầu, thông qua con đờng Cách mạng
T sản lật đổ chế độ kinh tế phong kiến cũ; giải phóng lực lợng
sản xuất thoát khỏi xiềng xích nông nô. Trên cơ sở đã xoá bỏ
44

quan hệ sản xuất phong kiến, thiết lập QHSX TBCN trong Nông
nghiệp từ đó phát triển nhanh chóng Nông nghiệp theo con
đờng các ấp trại TBCN.
Nh vậy, dù sự xâm nhập của PTSX TBCN vào Nông nghiệp
đợc thực hiện theo cách nào đi chăng nữa thì hậu quả của sự
xâm nhập này vẫn là hình thành nên trong nền Nông nghiệp
TBCN ba giai cấp chủ yếu là giai cấp địa chủ,giai cấp t bản
Nông nghiệp và giai cấp công nhân Nông nghiệp. Nhng cần
phải thấy rằng giai cấp địa chủ lúc này không phải là những địa
chủ xuất thân từ tầng lớp quí tộc, tăng lữ nh trong giai đoạn
phong kiến mà địa chủ lúc này, thực chất là những nhà t sản,đã
đầu t t bảnđể nhằm thu gom,thao túng ruộng đất, gây ra tình
trạng'lũng đoạn quyền t hữu ruộng đất'.
Chính vì sự xuất hiện của giai cấp địa chủ trong nông nghiệp
cho nên giá trị thặng d ,đợc hình thành do lao động không
công của những công nhân làm thuê trong Nông nghiệp, sẽ đợc
phân chia khác với trong lĩnh vực Công nghiệp trên cơ sơ đảm
bảo lợi nhuận cho không chỉ giai cấp t sản Nông nghiệp mà
còn cho cả giai cấp địa chủ,những ngời mà thực chất là các nhà
t bản đã đầu t vào ruộng đất. Điều đó có nghĩa là lợng giá trị
thặng d mà giai cấp t bản Nông nghiệp chiếm đoạt đợc sẽ

×