Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Bí truyền các phép đánh Quyền, Đao, Thương part 6 pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.67 KB, 10 trang )

Thức 16 : Quan Bình hiến ấn
Đặt chân phải xuống, bước chân trái lên,
đồng thời chuyển đao lên phía trên, lưỡi
đao ngang đầu, tay trái vẫn nắm cổ tay
phải. (hình 61)








Thức 17 : Tô Tần bội kiếm
Bước ngang chân phải, hoa đao ngang trên đầu, đem
đao sang vai phải, lưỡi đao ngửa lên, hai tay vẫn nắm
nhau như cũ. (hình 62)








Thức 18 : Đảo đả kim chung
Bước chân trái tới, rồi lại
bước chân phải lên, đồng
thời tay trái buông cổ tay
phải, đao chém từ trên
xuống, vòng ra sau và ngửa


lên, lưỡi đao nằm ngang mặt
đất, chưởng trái đánh về
trước. (hình 63)


Thức 19 : Đảo bạt thùy liễu
Bước chân trái lên, đao cuốn một vòng từ sau ra trước
rồi lại trở về vị thế cũ của thức 18, tay phải cong lại
ngang vai, tả chưởng che vai
phải. (hình 64)







Thức 20 : Bạch hổ khiêu giản
Xoay người sang phải, sức nặng trên chân phải, chân
phải thấp xuống, chân trái bước giả, vung đao qua đầu
thành một vòng tròn rồi đem ra sau, tả
chưởng hạ xuống che nách phải, hai chân
nhảy lên, khi hạ xuống thì giữ nguyên thế,
lưỡi đao thẳng đứng, chuôi đao ở trên.
(hình 65)




Thức 21 : Kim tỏa trụy địa

Sức nặng chuyển sang chân trái, chân phải vòng ra sau,
hai chân khuỵu thấp, tay trái nắm cổ tay
phải trợ lực, vung đao qua đầu rồi quét
ngang dưới thấp từ trái sang phải, lưỡi
đao hướng sang phải. (hình 66)



Thức 22 : Hoàng long toàn oa
Kéo đao về, lưỡi đao ở thấp,
ngang với mặt đất, chân phải
xoay sang phải, chân trái duỗi
thẳng (khi kéo đao về thì lưỡi đao chặt xuống). (hình
67)









Thức 23 : Thanh long nhập hải
Đầu gối phải thẳng lên, đẩy bật thân người về trước và
sang trái, sức nặng chuyển sang chân trái, đao đâm từ
dưới lên và tới trước, trong khi đâm xoay đao cho lưỡi ở
dưới, tay trái nắm cổ tay phải
trợ lực. (hình 68)







Thức 24 : Thâu thức
Hoa đao một vòng từ trái qua phải và từ trước ra
sau, ở lưng tay phải chuyển đao sang trái, đao
nằm thẳng đứng, mũi quay lên theo cánh tay
trái, tay trái xuôi theo mình, tay phải thành
chưởng xuôi theo mình, khí ở đan điền. (hình
69)




Bài đao chấm dứt.

LỤC HỢP THƯƠNG
Thương pháp của Vy Đà Môn thuộc Thiếu Lâm phái là
phương pháp dung hợp thương pháp của sáu danh gia
Dương Cao Sa Mã La Lưu, do đó gọi là Lục Hợp thương
pháp, tuy nhiên thương pháp của Dương gia được coi
làm chính. Thương pháp này truyền cho Dương thị, vợ
của của Lý Toàn đời Tống Ninh Tông, tức là Lê Hoa
Thương. Đó là thương pháp của họ Dương, vô địch thiên
hạ trong suốt 20 năm, trong đó có các thức Lê hoa bãi
đầu, Xuyên thủ xuyên tụ. Sự uyên thâm của thương
pháp này, không phải là người có sở học nông cạn đạt
tới được, cho nên truyền lại đến ngày nay chỉ còn là một

phần vạn mà thôi. Trong 24 thức kim thương của Dương
gia thương pháp, ngày nay Lê hoa kỳ trận, Hắc diêu,
Bạch diêu và Quyển thương là thương pháp chính tông.
Cây thương của Dương gia, cán bằng gỗ, đầu bằng sắt
có 4 cạnh, dài 9 thước, 2 thước là chuôi cầm, trong ngù
thương có một lưỡi câu móc ngược, đó là cách thức
riêng của họ Dương. Những cây thương của họ Dương
gồm các loại như Song câu thương, Đơn câu thương,
Hoàn tử thương, Tố mộc thương, Nha hạng thương, Thái
ninh bút thương, Trùy thương Cán thương phân làm
Xuân thu tứ quý, Thập nhị thời thần, Nhị thập tứ tiết
khí, Tam tiết bát luận, Thất cầm bát đả tính ra có tới
hơn 130 loại thương, nhưng thông dụng chỉ chừng bảy
tám loại.
Luyện thương pháp thì theo thứ tự Nhất tiệt, Nhị tiến,
Tam lan, Tứ triền, Ngũ nã, Lục trực. Thương pháp luyện
tới chỗ tinh diệu sẽ có được thân pháp cực mau lẹ uyển
chuyển. Phép xử dụng thương thì lấy trung bình làm
chủ, phép đứng thì dùng Tam duyên đối (như đã nói ở
thức 1, phần Xích cừu liên quyền ở trên). Trong phép sử
dụng thương, thường gặp 3 khuyết điểm lớn sau đây :
thứ nhất là thân pháp không được ngay thẳng, thứ nhì
là lúc đáng đâm lại không đâm, thứ ba là Tam duyên
(mặt, tay, chân) không đối xứng với kẻ địch. Tam duyên
đối được chỉnh có nghĩa là trên thì mũi mình chiếu thẳng
mũi địch, ở giữa thì thương mình chiếu thẳng thương
địch, ở dưới thì mũi chân mình chiếu thẳng mũi chân
địch. Nguyên tắc là thương địch xuất phát thì thương
mình gạt, thương địch bất động thì thương mình đâm,
thương địch tới gấp thì thương mình phóng ra phải

mạnh, thương địch tới mà mình không che không đỡ là
kể như không.
Các nguyên tắc tiếp theo là dùng phép Trung bình
thương, vua của thương pháp. Thương địch tới, dù cao
thấp xa gần đều không hại tới mình, cao thì không chặn,
thấp thì không bắt, điểm đáng đánh trúnh là điểm địch
khó che đỡ. Thương mình trí ở ngang hông thì trước hết
nhắm đâm vào tay hoặc chân của địch, đâm ra thì phải
thật gấp, lui về thì phải sợ chậm, mới lui được mau.
Lê hoa trân thương pháp là do sự tương hợp của Bát
thương, Tiểu diêu tử và Lục côn đầu mà thành. Về các
tên gọi thì phải hiểu rõ, Hắc diêu là tiến bước thì đâm,
lui bước thì cản, bước ngang cuốn thương mà cản. Cuốn
thương là quậy mũi thương từ trong ngoài hoặc từ ngoài
vào trong, khi ta và địch cùng đạm thương tới. Bước tiến
thì phải nhanh như gió, bước lùi thì phải vững như núi.
Vòng tròn khi cuốn thương trung bình chỉ khoảng 6, 7
tấc mới có kết quả.
Thất kình của thương pháp gồm Nã, Lan, Trát, Băng,
Thiêu, Dao, Bãi và Áp. Bát mẫu đại thương thì gồm Nã,
Lan, Để, Tróc, Khấu, Trầm, Bằng, Phong.
Về cách đối phó với thương của địch đâm tới thì sách
chép rằng, thương địch đâm tới, ta cướp thương, hoặc ta
chặn thương. Địch đâm chân ta, ta nghiêng thương.
Địch đâm phía trên, ta giơ thương, địch đâm phía dưới,
ta gạt thương. Thương địch từ dưới đâm lên, ta cuốn
thương mà ngăn lại. Các thức trong thương pháp gồm
Triền thương, Lan thương, Phá thương, Phá lan, Trung
bình, Tử phục sinh, Nhất tiến nhất thối, Nhất thượng
nhất hạ, Thủ pháp, Lỗ pháp, Điên đề, Thoa pháp, Đề

pháp, Khán pháp, Tiếp pháp, Thân pháp, Tọa pháp, Trì
pháp, Lục phong lục bế.
Lê hoa thương thì gồm 21 chữ sau đây : Câu quải Tiễn
Nã, Tỏa Lạp Tiến Phong, Lan Đề Hoắc Thiêu, Phách Đóa
Trát Hoạt Áp, Thôi Hoảng Cách Hạ. Trước thì có Xuyên
Chỉ Xuyên Tụ, sau thì có Lê Hoa Bãi Đầu, có Hư Thật, có
Kỳ Chính, có Hư Hư Thật Thật, có Kỳ Kỳ Chính Chính.
Tiến thì dũng mãnh, lui thì mau lẹ. Thế phải hiểm, bất
động thì vững như núi, động thì mau mạnh như sấm
chớp. Tuy Can tử của Sa gia, trường thương của Mã gia
đều đưọc coi là kỳ diệu, nhưng đều không thể so được
với thương pháp của Dương gia, cây thương dài mà
dùng được cả chỗ ngắn, thần xuất quỷ nhập khó lường.
Luyện thương thì nên chọn cây thương cán làm bằng gỗ
tốt, nặng nhẹ phải vừa, to nhỏ tùy theo tay cầm. Cán
thương thì nhỏ dần từ cuối tới đầu mũi thương mới là
hợp cách. Thương nặng quá lúc sử dụng sẽ chậm chạp,
mà nhẹ quá thì thương pháp không chính xác.
Nay xin dùng hình vẽ để diễn tả 24 thức Kim thương,
mỗi thức gồm 3 đường thương, như vậy là gồm 72
đường thương, do sự biến hóa của 24 thức vậy.

Thức 1 : Dạ xoa thám hải
Đây là thức cầm thương để nhìn và giữ, khi ngộ địch sẽ
tùy cơ ứng dụng, xoay sang thức nào cũng được. (hình
70)
Thức 2 : Tứ di tân phục
Đây là phép Trung bình thương, chủ yếu của Lục hợp
thương, thức đầu tiên cùa 24 thức, biến diệu vô cùng, từ
cổ chí kim, các loại khí giới khác khó lòng đương nổi mũi

nhọn của thức này. (hình 71)

Thức 3 : Chỉ nam châm
Đây là phép Thượng bình thương, nhìn qua gần với phép
Trung bình thương ở trên, nhưng là thế chuẩn bị biến
hóa của Lục hợp thương, lấy ý mà diễn ra thì trong 24
thức có thể phá được một nửa. (hình 72)

Thức 4 : Thập diện mai phục
Đây là phép Hạ bình thương, có vẻ kín đáo chặt chẽ hơn
phép Thượng bình ở trên, khéo léo luyện cho trúng thức
thì biến hóa áp đảo được kẻ địch. (hình 73)

Thức 5 : Thanh long hiến trảo
Đây là phép Cô nhạn xuất quần để xuất thương đâm kẻ
địch, tay trái co lại để ngang vai, không nhấc chân lên.
(hình 74)

Thức 6 : Biên lan
Đây là phép Bả môn phong bế, mục đích là thủ, tay cầm
thương như ôm đàn tỳ bà. Thức này cũng tương tự thức
Kỵ long, chỉ khác là chân trái bước trước, chân phải

×