Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Ăn hoa quả không khoa học có thể gây sảy thai pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.24 KB, 6 trang )

Ăn hoa quả không khoa học có thể
gây sảy thai

Hoa quả là nguồn thực phẩm cần thiết đối với con người đặc biệt là phụ nữ
trong thời kỳ mang thai. Ăn bảo nhiêu hoa quả là đủ và ăn các loại hoa quả
nào là cần thiết ?



Ăn quá lượng hoa quả có thể gây sảy thai

Thông thường hoa quả chứa nhiều hợp chất đường, nước, vitamin, protein,
chất béo, vitamin A, B và khoáng chất. Nhưng hàm lượng chất xơ và một số
thành phần dinh dưỡng đặc biệt không bằng các loại thân củ, thiếu vitamin
B12 và thành phần acid amin.

Nếu chỉ ăn hoa quả trong thời gian dài dễ gây thiếu máu. Chuyên gia dinh
dưỡng đã khuyến cáo nên ăn nhiều thực phẩm khác nhau để hấp thụ đa dạng
các chất dinh dưỡng. Phụ nữ mang thai không nên chỉ xem hoa quả là thức
ăn chính, nên tôn trọng thời điểm hấp thụ hoa quả. Hoa quả mỗi bữa ăn từ 1
– 3 quả, rau hấp thụ mỗi ngày là 400 g, trong đó chất diệp lục chiếm ½.

Ngoài ra, phụ nữ mang thai nên tránh ăn quá nhiều hoa quả, sau mỗi bữa ăn
ăn một ít hoa quả đảm bảo hấp thụ đủ dinh dưỡng. Nghiên cứu lâm sàng gần
đây đã phát hiện, sản phụ ăn quá nhiều hoa quả dễ gây huyết áp cao và nguy
cơ mắc bệnh tiểu đường. Tiểu đường ở phụ nữ mang thai là do sự trao đổi
chất bị rối loạn, gây ra đường trong máu tăng cao, thường phục hồi ở trạng
thái bình thường sau 2 tháng. Nguyên nhân phát bệnh là do ăn uống không
khoa học, ăn quá nhiều hoa quả cũng là một nguyên nhân dẫn đến tiểu
đường. Tiểu đường ở thời kỳ mang thai nếu không được khống chế kịp thời,
trước tiên sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe của người mẹ, sau 5 – 6 năm sau sẽ


chuyển biến thành tiểu đường loại 2, dễ gây lây nhiễm thời kỳ mang thai,
sảy thai, sinh non.

Những loại hoa quả tốt cho thời kỳ mang thai

1. Quả hồng: Đối phó với cao huyết áp thời kỳ mang thai

Hồng là loại quả nhiều nước, vị ngọt là hoa quả được yêu thích. Trong 100 g
hồng chứa 20 g đường, 6.7 g protein, 0.1 g chất béo, 49.7 g iot, còn chứa
nhiều loại vitamin, kali, sắt, canxi, magie, photpho…Hàm lượng các loại
khoáng chất nhiều hơn táo, lê, đào, lê…Hồng tính hàn, có tác dụng thanh
nhiệt, nhuận phế, sinh tân, giải khát, trị ho, tiêu đờm, thích hợp cho người
cao huyết áp, viêm khí quản mãn tính, xơ cứng động mạch, bệnh trĩ, táo bón.
Hồng có giá trị dinh dưỡng đồng thời đóng vai trò là một loại thuốc quý đối
với những người mang thai.

Nhưng không nên ăn quá nhiều hồng trước bữa ăn, trong hồng chứa nhiều
acid Tannic, keo phenon có thể kích thích dạ dày, dễ nôn, tiêu hóa không tốt.
Phụ nữ mang thai đã từng bị viêm dạ dày, loét dạ dày có thể gây các triệu
chứng chảy máu dạ dày.

2. Chuối: Đảm bảo thai nhi phát triển khỏe mạnh

Trong chuối chứa nhiều canxi, photpho, sắt, beta carotin, vitamin B11,
vitamin C, chứa ít magie, lưu huỳnh, đồng, vitamin D, E…vì thế thích hợp
cho những người mang thai.
Chuyên gia dinh dưỡng gần đây đã chỉ ra rằng, phụ nữ trong bữa ăn hàng
ngày nên ăn thêm chuối, vì chuối là nguồn kali tốt nhất, chứa nhiều vitamin
B11. Sự tích trữ vitamin B6, vitamin B11 trong cơ thể đảm bảo thần kinh
thai nhi phát triển bình thường, tránh dị dạng. Ngoài ra kali trong chuối còn

có tác dụng hạ áp, bảo vệ tim và huyết quản , có lợi với những người mang
thai.

Ngoài ra chuối còn có tác dụng thần kỳ gi ?

Chuối điều trị chứng phiền muộn, có tác dụng thúc đẩy đại não sinh ra 5-
hydroxy tryptamine, nó cải thiện tinh thần, thậm chí có thể giảm nhẹ cơn
đau, giảm nhẹ những hóc môn không tốt. Người mắc chứng bệnh phiền
muộn hoặc tâm trạng không tốt, nếu có thể ăn một vài quả chuối có thể làm
nồng độ 5-hydroxy tryptamine trong bộ não tăng cao, giảm nhẹ phiền muộn
bi quan, thậm chí tiêu tan những tinh thần không tốt.

Phòng chống viêm loét dạ dày: Chuối chứa hợp chất chống viêm loét dạ dày,
có thể làm acid dạ dày giảm thấp, giảm nhẹ kích thích đối với niêm màng tế
bào, thúc đẩy sự tái sinh niêm màng tế bào, có tác dụng bảo vệ và điều trị
nhất định đối với viêm loét dạ dày.

Giảm nhẹ huyết áp và phòng chống trúng gió, chuối chứa hợp chất chủ yếu
là đường glucoza, hàm lượng chất béo tương đối thấp, cholesterol, người
huyết áp cao và người mắc bệnh tim nên ăn chuối. Người thường xuyên ăn
chuối, tỷ lệ phát bệnh trúng gió thấp hơn người ngẫu nhiên ăn chuối 23.6 %.

Thực đơn với chuối cho người mang thai:

Nguyên liệu: chuối, dâu tây, khoai tây, mật ong.

Cách làm: Chuối bỏ vỏ, dùng thìa giã nát, khoai tây rửa sạch, bỏ vỏ, cho vào
nồi áp suất ninh cho nhừ, ăn lạnh. Chuối và khoai tây trộn lẫn, cho thêm dâu
tây, cho thêm ít mật ong.


Công dụng: Chuối và khoai tây chứa vitamin B11. Trước khi mang thai nên
ăn nhiều thực phẩm chứa vitamin B11, có tác dụng đối với sự phát triển thần
kinh huyết mạch của thai nhi.

3. Táo: Phòng chống hen suyễn ở trẻ

Táo không chỉ chứa các nguyên tố vi lượng kẽm, chất béo, đường, các loại
vitamin, đặc biệt là hàm lượng chất xơ tương đối cao, có lợi cho sự phát
triển não của thai nhi. Điều tra còn phát hiện phụ nữ thời kỳ mang thai ăn
nhiều táo, trẻ sau này ít nguy cơ mắc bệnh hen suyễn. Nhân viên nghiên cứu
còn phân tích táo sở dĩ có tác dụng này do chứa nhiều thành phần hóa học
đặc biệt như xê tôn.

Phụ nữ mang thai mỗi ngày ăn từ 1- 2 quả táo để đáp ứng đủ nhu cầu kẽm và
các thành phần dinh dưỡng như chất béo, đường, vitamin, chất xơ.

4. Xoài: Chống nghén hiệu quả

Xoài có tác dụng giá trị dinh dưỡng cao, hàm lượng vitamin A đạt 3.8 %.
Hàm lượng vitamin C cũng nhiều hơn quýt, dâu tây. Xoài chứa nhiều thành
phần dinh dưỡng đường, protein, canxi, photpho, cung cấp nhu cầu cần thiết
cho cơ thể. Xoài chứa hàm lượng đường từ 11 – 19%, protein từ 0.65 – 1.31
%.

5. Lê: Thanh nhiệt hạ huyết áp

Lê thơm ngon nhiều nước, vị ngọt, tính hàn lạnh có tác dụng nhuận phế. Lê
có tác dụng điều trị các bệnh viêm khí quản, viêm đường hô hấp, ngứa, hạ
huyết áp. Người mắc bệnh cao huyết áp, bệnh tim, viêm gan, xơ cứng động
mạch thường xuyên ăn lê tăng cảm giác ăn uống, tiêu hóa tốt, lợi tiểu, giải

nhiệt. Phụ nữ mang thai có thể ăn từ 1-2 quả lê mỗi ngày. Nhưng người tổn
thương tỳ vị, tỳ vị hàn nên ít ăn, phụ nữ mang thai mắc bệnh tiểu đường
cũng không nên ăn.

×