Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Quá trình hình thành tư liệu nghiên cứu thực trạng và quan điểm phát triển chung của doanh nghiệp nhà nước p9 doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.2 KB, 9 trang )

động dôi d do sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nớc). Tại khu vực nông thôn
còn d thừa 26% quỹ thời gian lao động, tơng đơng khoảng 9 triệu ngời,
nhng 95,5% lao động không có tay nghề. Theo tổng điều tra dân số (4/1999)
trong số những ngời từ 13 tuổi trở lên 92,4% là không có trình độ chuyên
môn. Mặc dù thời điểm hiện tại, mỗi năm có thêm khoảng 1,6 triệu ngời
bớc vào độ tuổi lao động, nhng theo dự báo trong 10 năm tới, số lợng này
sẽ tăng lên mức cao nhất là 1,8 triệu ngời, do đó việc đào tạo, nâng cao tay
nghề và tạo việc làm cho số lao động hiện tại cũng nh cho số thanh niên mới
bớc vào độ tuổi lao động sẽ thách thức vô cùng lớn.
Cơ cấu nguồn lao động đợc đào tạo trong những năm qua còn rất bất
hợp lý. Nếu năm 1979 cứ 1 cán bộ Đại học , cao đẳng có 2,2 cán bộ trung học
chuyên nghiệp và 7,1 công nhân kỹ thuật thì đến năm 1997, cơ cấu này là 1-
1,5-1,7 và 1999 là hợp lý, cứ 4 cán bộ đại học mới có 1 công nhân kỹ thuật
cao. Đây chính là tình trạng "thầy nhiều hơn thợ". Tại các nớc phát triển thì
cứ 1 thầy có 10 thợ, nhng ở nớc ta, bình quân một thầy chỉ có 0,95 thợ.
Trong khi số sinh viên đại học tăng nhanh thì số công nhân kỹ thuật giảm dần
(1979 chiếm 70% , đến năm 1999 giảm xuống còn 30,3% trong tổng số lực
lợng lao động kỹ thuật). Trong các năm 1996 - 1998, bình quân công nhân
kỹ thuật tăng 6,3%/năm nhng số sinh viên đại học, cao đẳng tăng 27,5%.
Một thực tế đáng lo ngại nh tại các khu công nghiệp ở Đồng Nai, từ nay đến
2010, mỗi năm cần khoảng 20 ngàn lao động kỹ thuật, nhng khả năng đào
tạo nghề cũng cung ứng 12.000 ngời/năm. Năm 1997 khu chế xuất Tân
Thuận cần tuyển 15.000 lao động kỹ thuật nhng chỉ tuyển đợc 3000 ngời
đủ tiêu chuẩn.
Hiện nay nhu cầu tuyển lao động kỹ thuật hầu nh không đợc đáp ứng
đầy đủ, trong khi lao động phổ thông lại d thừa quá nhiều.
Tỷ lệ lao động kỹ thuật đã thấp lại phân bổ không đồng đều giữa các
ngành và các thành phần kinh tế. Rất nhiều lao động kỹ thuật tập trung ở các
cơ quan trung ơng. Các ngành nông - lâm - ng nghiệp, các thành phần kinh
tế tập thể , t nhân, cá thể còn thiếu nhiều lao động kỹ thuật. ở khu vực nông
thôn, số lao động đã qua đào tạo chiếm tỷ lệ càng thấp (chỉ khoảng 4%). Đặc


biệt vùng miền núi, hải đảo, đang thiếu lao động kỹ thuật và trí thức trầm
trọng, trong khi số tri thức d thừa giả tạo ở thành phố ngày càng nhiều.
Không những vậy, có những lao động sau khi đợc đào tạo đã không làm
đúng ngành nghề, thậm chí còn làm công việc của lao động giản đơn.
b. Những nguyên nhân dẫn đến chất lợng nguồn nhân lực Việt
Nam còn yếu kèm.
Một là lực lợng và cơ sở trang thiết bị quá thiếu thốn, y tế cơ sở không
đảm bảo chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, đặc biệt là miền núi, vùng sâu,
vùng xa. Tình trạng bệnh tật vẫn còn nặng nền. Hơn nữa những kiến thức cơ
bản về chăm sóc sức khỏe cho nhân dân còn thấp, vệ sinh môi trờng còn rất
kém, ô nhiễm, môi trờng ngày càng nghiêm trọng. Đặc biệt là cung cấp nớc
sạch và xử lý chất thải các loại có tác động bất lực đến sức khỏe nhân dân.
Hai là, cơ cấu giáo dục đào tạo giữa các bậc học, các ngành học, khối
ngành học trong cả nớc nói chung và ở từng khu vực nói riêng còn bất hợp
lý. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do sự điều tiết của Nhà nớc về
giáo dục đào tạo cha hiệu quả thể hiện:
Việc điều tiết, quản lý, giám sát thực hiện các chỉ tiêu tuyển sinh ở các
bậc học, ngành học, khối học còn nhiều bất hợp lý. Các trờng, các ngành
học, mở rộng hoặc thu hút chỉ tiêu tuyển sinh tùy ý, dẫn tới tình trạng có
những ngành đã thừa lại càng thừa trong khi các chuyên ngành đã thiếu lại
càng thiếu.
Các chính sách, biện pháp khuyến khích theo học những ngành học,
khối ngành học mà xã hội cần nhng bản thân đối tợng không muốn học là
cha hiệu quả.
Việc mở rộng tràn lan các loại hình đào tạo là một nguyên nhân gây ra
tình trạng này.
Một số chế độ, chính sách đã ban hành đến nay có những điểm không
còn phù hợp hoặc thiếu những văn bản cụ thể nên cha khuyến khích cán bộ,
công nhân viên trong các cơ sở sản xuất cũng nh các cơ quan Nhà nớc,
trong các tầng lớp xã hội bồi dỡng nâng cao trình độ văn hóa.

Ba là, kinh phí giáo dục đào tạo. Do khu vực t nhân ở Việt Nam cha
phát triển và Nhà nớc cũng cha có chính sách chia sẻ gánh nặng này cho
khu vực t nhân nên phần chủ yếu là từ ngân sách Nhà nớc nh vậy mức chi
ngân sách Nhà nớc nh vậy mức chi ngân sách cho giáo dục đào tạo đã có sự
gia tăng chút ít nhng cha đáp ứng đợc yêu cầu cũng nh cha phản ánh sự
u tiên và cha tơng xứng với khả năng, còn vào loại rất thấp so với nhiều
nớc trong khu vực và thế giới.
Bốn là, mục tiêu, nội dung, chơng trình hình thức, phơng thức và
phơng pháp đào tạo chậm đổi mới. Trong những năm gần đây, ngành giáo
dục và đào tạo đã có những nỗ lực lớn nhằm đổi mới các nội dung đó. Bớc
đầu đã thu đợc những kết quả nhất định song còn cha tơng xứng với tiềm
năng và yêu cầu đặt ra.
Năm là, đội ngũ giáo viên ở các trờng còn yếu, thiếu về số lợng năng
lực giảng dạy, nghiên cứu khoa học. Ngoài ra chính sách đãi ngộ cha thỏa
đáng nên không phát huy đợc tiềm năng và nhiệt huyết của họ.
Sáu là, mạng lới trờng và trung tâm đào tạo bố trí còn phân tán, hiệu
quả đầu t sử dụng cơ sở vật chất kỹ thuật kém, lãng phí, chồng chéo.
Bảy là, một bộ phận nhỏ công nhân cha nhận thức đầy đủ về sự cần
thiết phải nâng cao trình độ văn hóa, tay nghề nên còn thờ ơ, cha thực sự cố
gắng hoặc tận dụng những điều kiện đã có để tự học tập, bồi dỡng nâng cao
trình độ của bản thân.
II. Một số giải pháp nhằm giải quyết hợp lý vấn đề về nguồn
nhân lực
Nhìn rõ đợc thực trạng về nguồn nhân lực của nớc ta để chúng ta phát
huy những điểm mạnh, khắc phục và hạn chế những điểm yếu đồng thời đa
ra những yêu cầu đối với giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực.
Để đảm bảo chất lợng về mặt thể lực cho nguồn nhân lực trong tơng
lai, các chơng trình bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em, đặc biệt chơng trình
bảo vệ sức khỏe phụ nữ, phòng chống suy dinh dỡng theo hớng ngăn ngừa
cần đợc tiếp tục đầu t từ quan tâm và sẽ phải đặc biệt chú ý đến các vùng

miền núi, vùng sâu, vùng xa để giảm dần sự cách biệt giữa các vùng.
Các chơng trình tuyên truyền giáo dục càn đợc tăng cờng để ngăn
ngừa từ xa các tệ nạn lạm dụng ma túy, đặc biệt trong thanh thiếu niên.
Trong trình tự giải quyết phải đi tuần tự từ tiếp tục xóa mù chữ, phổ cập
tiểu học, đang bị những kiến thức cơ bản, đào tạo nghề từ sơ cấp đến các bậc
cao hơn những phải tạo ra một bộ phận ngời lao động có chất lợng cao, đặc
biệt phải chú trọng đào tạo lao động kỹ thuật, nhằm đáp ứng nhu cầu của
những ngành công nghệ mới, các khu công nghiệp và các khu kinh tế mở.
Việc mở rộng quy mô giáo dục đào tạo là rất cần thiết. Nhng cố gắng
mở rộng quy mô giáo dục đào tạo của nớc ta vẫn không theo kịp tốc độ gia
tăng dân số. Quy mô mọi ngành, bậc học hiện nay đều cha đáp ứng đợc yêu
cầu theo học của mọi lứa tuổi. Nhìn chung số học sinh và số trờng lớp ở mọi
ngành học từ mẫu giáo, các cấp phổ thông, trung học chuyên nghiệp, cao
đẳng, đại học, đều tăng các hệ thống trung tâm xúc tiến việc làm, các trung
tâm kỹ thuật tổng hợp, hớng nghiệp và nhiều cơ sở dạy nghề bán công, dân
lập, t thục đợc thành lập. Quy mô đào tạo có chuyển biến là nhờ tăng
cờng hình thức đào tạo ngắn hạn. Riêng đối với quy mô của hệ thống đào tạo
nghề ngày càng bị thu hẹp. Đảng và Nhà nớc cần có chính sách khuyến
khích mở rộng và hỗ trợ cho các trờng dạy nghề nhằm thu hút học sinh, sinh
viên, khắc phục sự mất cân đối trong cơ cấu ngành học, bậc học của giáo dục
và đào tạo. Giáo dục mầm non có tầm quan trọng đặc biệt đứng từ góc độ
chuẩn bị nền tảng về thể thực và trí lực cho nguồn nhân lực. Giáo dục đào tạo
chuyên môn nghiệp vụ kỹ thuật, ngoài ý nghĩa với tăng trởng kinh tế còn đặc
biệt quan trọng trong việc phát triển giảm nguy cơ tụt hậu. Tuy nhiên, những
bất hợp cập giữa các ngành đào tạo, giữa các bậc học đã gây khó khăn không
ít cho sự phát triển của nền kinh tế. Một số ngành đợc học sinh, sinh viên
theo học nh một phong trào, một số ngành thì rất ít ngời theo học. Nếu
không có sự điều chỉnh kịp thời, Việt Nam sẽ nhanh chóng gặp khó khăn về
đội ngũ kỹ s, công nhân kỹ thuật nh ở nhiều nớc Asea, nhất là Thái Lan.
Giáo dục đào tạo ở thành phố, đồng bằng có điều kiện phát triển hơn ở

nông thôn,vùng núi, vùng sâu, vùng xa rất khó khăn. Để nâng cao chất lợng
nguồn nhân lực ở vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa miền núi, Nhà nớc đã
chó chính sách cấp học bổng, giảm học phí, u tiên các học sinh nghèo vợt
khó.Từ đó giúp họ có điều kiện học tập tìm kiếm việc làm, nâng cao mức
sống. Chính nhờ những chủ trơng đúng đắn này mà những bất hợp lý trong
cơ cấu vùng, miền của giáo dục đào tạo nguồn nhân lực đợc điều chỉnh phần
nào.
Yếu tố quan trọng nhất quyết định chất lợng nguồn nhân lực là việc
đổi mới mục tiêu, nội dung, chơng trình và phơng pháp giáo dục đào tạo.
Việc hội nhập và cạnh tranh kinh tế đòi hỏi hàng hóa phải đạt tiêu chuẩn quốc
tế để tăng khả năng cạnh tranh trên thị trờng thế giới, từ đó phải đòi hỏi có
trình độ công nghệ cao và khả năng sử dụng tơng ứng các công nghệ đó.
Ngoài giáo dục đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ về mặt lý thuyết cần chú ý
điều kiện thực hành, ứng dụng, giáo dục kỹ thuật, tác phong lao động công
nghiệp, rèn luyện kỹ năng và những khả năng thích ứng của ngời lao động
với những đặc điểm của nền kinh tế thị trờng. Song song với vấn đề giáo dục
đào tạo con ngời, chúng ta phải quan tâm đến vấn đề dân số, sức khỏe, để
nâng cao chất lợng nguồn nhân lực, giảm sức ép đối với quy mô và chất
lợng giáo dục.
Trong điều kiện của Việt Nam hiện nay, yêu cầu đa dạng hóa các loại
hình giáo dục đào tạo rất cần thiết để bổ sung cải thiện hiện trạng nguồn nhân
lực nhằm khắc phục những bất hợp lý về việc phân bổ nguồn nhân lực, đồng
thời nâng cao hiệu quả của đầu t cho giáo dục và đào tạo để phục vụ cho nhu
cầu phát triển. Trong lĩnh vực giáo dục hớng nghiệp chúng ta cần phải kết
hợp một cách khoa học với kế hoạch phát triển toàn diện với chính sách sử
dụng sau đào tạo hợp lý để giảm lãng phí về chi phí về giáo dục đào tạo của xã
hội và của gia đình. Ngời lao động đào tạo ra đợc làm việc đúng ngành,
đúng nghề, đúng khả năng và sở trờng của mình. Ngoài ra, giáo dục hớng
nghiệp cũng đòi hỏi phải công tác dự báo nghề để xác định đợc xu hớng
phát triển và nhu cầu về lao động trong từng giai đoạn. Giáo dục đào tạo chính

quy, dài hạn là cơ sở để hình thành nên bộ phận ngời lao động có trình độ
chuyên môn, kỹ thuật cao, có kỹ năng tiếp cận với khoa học, công nghệ mới
hiện đại. Ngoài ra, cần mở rộng các loại hình đào tạo ngắn hạn để cải thiện
hiện trạng nguồn nhân lực hiện nay và nhanh chóng nâng cao số lao động đã
qua đào tạo của ta lên. Hình thức giáo dục tại chức và từ xa cần chú ý hơn đến
chất lợng và hiệu quả giáo dục.
Chính sách xã hội hóa giải quyết việc làm cần đợc tiếp tục phát huy,
khôi phục các làng nghề, phố nghề để huy động tổng hợp các nguồn lực và sự
tham gia rộng rãi của các thành phần kinh tế, các tổ chức xã hội mọi ngời
dân. Kinh tế hộ gia đình, cơ sở doanh nghiệp ngành nghề ở nông thôn, doanh
nghiệp vừa và nhỏ ở thành phố là những cơ sở có thể thu hút nhiều lao động,
cần đợc tạo điều kiện phát triển chất lợng.
Các chính sách phụ cấp, tiền lơng cũng nên đợc điều chỉnh lại để thu
hút ngời lao động về công tác tại cơ sở, các vùng khó khăn, tham gia xây
dựng các công trình trọng điểm nhằm động viên thanh niên vào học các
trờng dạy nghề và làm đúng nghề đã đào tạo, đóng góp sức mình vào sự
nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nớc.
Tóm lại, giáo dục đào tạo nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp
hóa - hiện đại hóa đất nớc là một tất yếu khách quan, một nhiệm vụ trọng
tâm trong quá trình đổi mới, xây dựng đất nớc. Mặc dù nền giáo dục đào tạo
đã đạt đợc nhiều hành tựu to lớn (Việt Nam có chỉ số HDI tơng đối cao,
đợc xếp vào các nớc có trình độ phát triển trung bình) nhng so với yêu cầu
phát triển kinh tế xã hội, nền giáo dục đào tạo của ta vẫn cha đáp ứng đợc.
Do đó càn có những chính sách hỗ trợ, khuyến khích và những đờng lối
đúng đắn của Đảng và Nhà nớc đối với sự nghiệp giáo dục
C. ý kiến cá nhân

I.Việc làm của ngời lao động và vấn đề đổi mới chính sách
tiền lơng
1. Việc làm của ngời lao động

Nói đến việc làm và nâng cao chất lợng cuộc sống của ngời lao động
lao động nói đến vấn đề bức thiết và mục đích của sự nghiệp phát triển kinh tế
xã hội. Việc giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực phải đi đôi với việc giải quyết
việc làm cho ngời lao động có tạo cho ngời lao động việc làm ổn định và
mức thu nhập tơng xứng thì mới tạo đợc động lực phát triển kinh tế.
Việc làm là hoạt động tạo ra giá trị, của cải vật chất. Mác Anghen đã
khẳng định: "Lao động là nguồn gốc của mọi của cải vật chất, là điều kiện cơ
bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài ngời". Lao động là nguồn lực quan
trọng để phát triển đất nớc. Giải quyết việc làm cho ngời lao động xã hội
vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển. Bên cạnh việc kết hợp các
giải pháp khuyến khích phát triển sản xuất, thực hiện các chơng trình các
kinh tế xã hội lớn, tạo ra nhiều việc làm cho ngời lao động. Nhà nớc đã thực
hiện các giải pháp hỗ trợ, tác động vào những ngời cha có việc làm hoặc
thất nghiệp, thiếu việc làm để họ có thêm cơ hội việc làm. Các mô hình kinh
tế hợp lý, nh mô hình V-A-C, hình thức giao đất giao rừng, đợc nhân rộng ở
nhiều nơi. Bên cạnh đó Nhà nớc còn có chính sách khuyến khích ngời dân
tự làm giàu cho chính mình, cho gia đình và cho xã hội. Luật doanh nghiệp ra
đời năm 1999 đánh dấu một bớc phát triển mới, một bớc ngoặt thuận lợi
cho các doanh nhân Việt Nam; làm giàu chính đáng là tiêu chí của nhiều cuộc
hội thảo, là mục đích của nhiều chủ trơng, chính sách, là động lực của nhiều
ngời dân Việt Nam cần cù, thông minh.
Với nền kinh tế vận động theo định hớng xã hội chủ nghĩa, Đảng và
Nhà nớc luôn đặt hiệu quả xã hội và hiệu quả kinh tế lên hàng đầu. Hiệu quả
kinh tế phải đi đôi với hiệu quả xã hội, trong đó việc tạo công ăn việc làm,
nâng cao mức sống ngời dân đợc chú trọng nhất; Dự án xây dựng khu công
nghiệp Dung Quất ở miền Trung khắc nghiệt, dự án mở đờng mòn Hồ Chí
Minh là những chính sách, biện pháp hợp lý đã lấy hiệu quả xã hội đặt lên
hàng đầu.
Giải quyết việc làm là kết quả tổng hợp của sự phát triển sản xuất, của
việc thực hiện các chơng trình kinh tế, xã hội và các giải pháp hỗ trợ trong đó

việc phát triển sản xuất, tăng trởng kinh tế là tiền đề, điều kiện cơ bản nhất là
từ những kết quả bớc đầu về giải quyết việc làm cho ngời lao động xã hội
trong thời gian quả là rất đáng khích lệ. Tuy nhiên, thực tiễn khách quan cũng
cho thấy điều kiện tạo ra việc làm cha vững chắc, nhiều yếu tố khác nảy sinh
làm cho thực trạng lao động việc làm thêm khó khăn phức tạp. Tỷ lệ thất
nghiệp ở các đô thị nớc ta vào loại cao so với các nớc trong khu vực và có
xu hớng tăng. Chất lợng lao động thấp, chỉ có 19% lao động qua đào tạo
chuyên môn kỹ thuật. Cơ cấu lao động kỹ thuật bất hợp lý, cha đáp ứng đợc
yêu cầu của nền kinh tế và càng bất cập trớc yêu cầu lao động kỹ thuật cao
cho sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nớc. Việc phân bố lao động
theo ngành còn nhiều bất hợp lý. Tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra
thấp. Lực lợng lao động phân bố không đồng đều cha tơng xứng với tiềm
năng và yêu cầu phát triển của các vùng. Và một điều quan trọng hơn nữa đó
là công tác quản lý lao động theo ngành và theo lãnh thổ bất cập so với yêu
cầu, cha giám sát đợc sự vận động của thị trờng lao động. Hiện nay ở thủ
đô Hà Nội cũng nh nhiều thành phố khác, các chợ lao động với nguồn nhân
lực chủ yếu là những nông dân ở những vùng nông thôn, đang là vấn đề nan
giải. Chúng ta cần phải sáng tạo ra nhiều hình thức kinh tế làm ăn có hiệu quả
nhằm tăng thêm thu nhập cho ngời lao động tận dụng đợc quỹ thời gian
những ngày nông nhàn.

×