Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Phân tích chuỗi giá trị cá ngừ sọc dưa tại thị trường nha trang, tỉnh khánh hòa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.42 MB, 110 trang )

- i -
LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện luận văn tốt nghiệp của mình, em đã
nhận được rất nhiều sự đóng góp ý kiến, động viên, giúp đỡ từ phía gia đình, người
thân, thầy cô, bạn bè,…Chính vì thế, em xin được gửi lời cảm ơn chân thành nhất
đến tất cả mọi người.
Đầu tiên, em xin được gửi lời cảm ơn đến Quý thầy cô Trường Đại học Nha
Trang nói chung và Khoa Kinh tế nói riêng, đã truyền đạt những kiến thức cơ bản
và bổ ích trong suốt quá trình học tập vừa qua của em.
Đặc biệt, em xin trân trọng cảm ơn Th.S Nguyễn Ngọc Duy – Người trực tiếp
hướng dẫn em thực hiện khóa luận này. Thầy đã tận tình hướng dẫn em trong suốt
quá trình làm đề tài, giúp em có được cái nhìn toàn diện hơn về vấn đề mình nghiên
cứu.
Qua đây, em cũng xin cảm ơn anh Tuấn – Trưởng phòng kinh doanh của Công
ty TNHH Tín Thịnh, chị Thủy – Nhân viên phòng kinh doanh và chị Liên – Nhân
viên phòng kế toán của Công ty Cổ phần Nha Trang Seafood – F17; cùng các bác,
các cô, chú, các anh, chị ở cảng Hòn Rớ, chợ Đầm, chợ Vĩnh Hải, chợ Phước Hải
đã giúp đỡ em thực hiện và hoàn thiện các bảng câu hỏi nghiên cứu, giúp em có căn
cứ để thực hiện khóa luận tốt nghiệp.
Và cuối cùng, em xin cảm ơn gia đình, người thân và bạn bè đã quan tâm,
động viên em hoàn thành khóa luận này.
Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn !


Nha Trang, tháng 07 năm 2011
Sinh viên thực hiện


Nguyễn Thị Ánh Dũng
- ii -


MỤC LỤC
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
LỜI CẢM ƠN i
MỤC LỤC ii
DANH MỤC BẢNG v
DANH MỤC HÌNH VẼ, SƠ ĐỒ v
LỜI MỞ ĐẦU 1
1. Sự cần thiết của đề tài 1
2. Mục tiêu nghiên cứu 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2
4. Phương pháp nghiên cứu 3
5. Kết cấu đề tài 3
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 4
1.1 Khái niệm chuỗi giá trị 4
1.2 Mối quan hệ giữa chuỗi giá trị và chuỗi cung ứng 6
1.3 Mô hình SCP (Structure - Conduct - Performance) 9
1.4 Lý thuyết về lợi thế cạnh tranh của Michael E. Porter 12
1.4.1 Khái niệm cạnh tranh 12
1.4.2 Lợi thế cạnh tranh 14
1.4.3 Lợi thế cạnh tranh theo quan điểm của Michael E. Porter 15
1.5 Một số quy chế, quy định kiểm soát chất lượng và truy xuất nguồn gốc: 20
1.5.1 Quy chế kiểm tra và chứng nhận chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm
hàng hóa thủy sản 20
1.5.2 Quy định IUU (Illegal, unreported and unregulated fishing) 21
1.6 Các nghiên cứu về chuỗi giá trị các mặt hàng ở Việt Nam 23
Chương 2: TỔNG QUAN NGÀNH THỦY SẢN VIỆT NAM VÀ KHÁNH HÒA29
2.1 Tình hình sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm thủy sản Việt Nam 29
2.1.1 Tình hình sản xuất 29
2.1.2 Tình hình tiêu thụ 31
- iii -

2.2 Tình hình sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm thủy sản Khánh Hòa 33
2.2.1 Tình hình sản xuất sản phẩm thủy sản Khánh Hòa 34
2.2.2 Tình hình tiêu thụ 36
2.3 Tình hình tiêu thụ cá ngừ 37
2.3.1 Giới thiệu cá ngừ 37
2.3.2 Tình hình tiêu thụ cá ngừ Việt Nam 39
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CHUỖI GIÁ TRỊ CÁ NGỪ SỌC DƯA TẠI
NHA TRANG 42
3.1 Cấu trúc thị trường cá ngừ sọc dưa tại Nha Trang 42
3.1.1 Các tác nhân trong chuỗi cá ngừ sọc dưa 43
3.1.2 Tình hình cạnh tranh mặt hàng cá ngừ sọc dưa của các tác nhân trong
chuỗi giá trị 55
3.1.3 Quá trình hình thành giá 58
3.2 Các thể chế, chính sách ảnh hưởng đến ngành thủy sản và nghề cá ngừ Việt
Nam 59
3.3 Phân tích chi phí – lợi nhuận của các tác nhân trong chuỗi giá trị cá ngừ sọc
dưa tại Nha Trang 62
3.3.1 Ngư dân 62
3.3.2 Chủ nậu vựa 63
3.3.3 Người bán sỉ cấp 1 64
3.3.4 Người bán sỉ cấp 2 65
3.3.5 Người bán lẻ 66
3.3.6 Công ty chế biến 67
Chương 4: GIẢI PHÁP NÂNG CAO VỊ THẾ CẠNH TRANH CHUỖI GIÁ TRỊ
CÁ NGỪ SỌC DƯA TẠI NHA TRANG 74
4.1 Giải pháp 1: Thiết lập cơ chế hợp tác dọc trong chuỗi giá trị cá ngừ sọc dưa
Nha Trang 74
4.2 Giải pháp 2: Tổ chức hợp tác ngang giữa các ngư dân khai thác 78
- iv -
4.3 Giải pháp 3: Tăng cường liên kết giữa các công ty chế biến xuất khẩu thủy

sản trong hoạt động nghiên cứu thị trường nước ngoài và hoạt động tình báo ở thị
trường nước ngoài 80
4.4 Giải pháp 4: Đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm cá ngừ sọc dưa ở thị trường trong
nước và đa dạng hóa thị trường tiêu thụ ở nước ngoài 82
Chương 5: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 84
5.1 Kết luận 84
5.2 Khuyến nghị 85
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC






















- v -
DANH MỤC BẢNG

Bảng 1.1: Các nhân tố của SCP 10
Bảng 1.2: Các nhân tố của SCP sử dụng trong nghiên cứu 10
Bảng 3.1: Chi phí – lợi nhuận của ngư dân 63
Bảng 3.2: Chi phí – lợi nhuận của chủ nậu vựa 63
Bảng 3.3: Chi phí – lợi nhuận của người bán sỉ cấp 1 65
Bảng 3.4: Chi phí – lợi nhuận của người bán sỉ cấp 2 66
Bảng 3.5: Chi phí – lợi nhuận của người bán lẻ 66
Bảng 3.6: Chi phí – lợi nhuận của công ty chế biến 67
Bảng 3.7: Tổng hợp chi phí – lợi nhuận của chuỗi cá ngừ sọc dưa Nha Trang 69

DANH MỤC HÌNH VẼ, SƠ ĐỒ

Hình 1.1: Chuỗi giá trị áp dụng cho một doanh nghiệp. Nguồn: [3] 4
Hình 1.2 : Sự tương tác qua lại giữa ba yếu tố trong mô hình SCP 9
Hình 1.3: Mô hình 5 lực lượng. Nguồn: [2] 17
Hình 2.1: Các thị trường xuất khẩu thủy sản lớn năm 2010 32
Hình 2.2: Xuất khẩu cá ngừ 11 tháng đầu năm 2010 40
Hình 3.1 Ngư dân tại cảng Hòn Rớ 43
Hình 3.2 Hoạt động của nậu vựa tại cảng Hòn Rớ 47
Hình 3.3 Người bán sỉ tại cảng Hòn Rớ 49
Hình 3.4 Người bán lẻ tại chợ Đầm 51
Hình 3.5 Quang cảnh công ty Cổ phần Nha Trang Seafood – F17 52
Sơ đồ 3.1: Sơ đồ cấu trúc thị trường cá ngừ sọc dưa tại Nha Trang 42
Sơ đồ 4.1: Mô hình hợp tác dọc trong chuỗi giá trị cá ngừ sọc dưa 76
- 1 -
LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài

Trong những năm qua, thủy sản luôn đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế
Việt Nam nói chung và Khánh Hòa nói riêng. Khai thác thủy sản đã đem lại công ăn
việc làm cho hàng triệu người lao động tham gia vào các khâu khác nhau trong
chuỗi ngành hàng thủy sản.
Hiện nay, xu hướng toàn cầu hóa kinh tế làm cho cạnh tranh trở nên gay gắt
hơn giữa các nước trên thế giới. Nhưng chính xu hướng này cũng tạo sự liên kết và
phụ thuộc lẫn nhau càng cao giữa các quốc gia và khu vực. Nó tạo cơ hội cho Việt
Nam xuất khẩu các mặt hàng ra thị trường nước ngoài, tham gia vào chuỗi giá trị
toàn cầu, trong đó có chuỗi giá trị sản phẩm thủy sản toàn cầu mà Việt Nam tham
gia. Tuy nhiên, chúng ta gặp không ít khó khăn và thử thách trong quá trình hội
nhập. Một trong những khó khăn hiện nay đó là sự đòi hỏi ngày càng cao của người
tiêu dùng. Đây chính là một trong những rào cản lớn gây khó khăn trong việc tham
gia vào chuỗi giá trị toàn cầu của chúng ta. Chính những đòi hỏi về chất lượng vệ
sinh an toàn thực phẩm cũng như quan tâm tới vấn đề môi trường…của người tiêu
dùng nên hiện nay hàng loạt các tiêu chuẩn, quy định đã được đặt ra đối với mặt
hàng thủy sản xuất khẩu trên thế giới như: quy định về chất lượng, vệ sinh an toàn
thực phẩm, nguồn gốc xuất xứ…Do đó, các tác nhân tham gia trương chuỗi giá trị
cần có sự hợp tác chặt chẽ với nhau làm cho sản phẩm của mình đáp ứng được nhu
cầu của thị trường.
Tỉnh Khánh Hòa với 655 km bờ biển và bờ ven đảo, trong những năm gần đây,
bên cạnh du lịch biển thì nghề nuôi trồng, khai thác và chế biến thủy sản đang là thế
mạnh của tỉnh. Toàn tỉnh có hơn 10.100 tàu, thuyền lắp ráp, trong đó có gần 500 tàu
công suất 100CV trở lên, có khả năng đánh bắt dài ngày trên biển. Với lợi thế về
đường bờ biển dài, các công ty chế biến, xuất khẩu thủy sản ở đây ngày càng mọc
lên nhiều. Hiện nay, với 44 doanh nghiệp tham gia xuất khẩu thủy sản, Khánh Hòa
đang là tỉnh đứng thứ 4 cả nước với kim ngạch xuất khẩu hàng năm đạt hơn 300
triệu USD [1]. Cá ngừ là đối tượng thủy sản khai thác xuất khẩu có giá trị kinh tế
- 2 -
cao, có vị trí quan trọng trong cơ cấu hàng thủy sản xuất khẩu của thế giới. Nhu cầu
tiêu dùng sản phẩm cá ngừ trên thế giới ngày càng gia tăng.

Là một loài thuộc họ cá ngừ, hiện nay cá ngừ sọc dưa nằm trong số ít các loài
cá ngừ được đánh bắt ở dưới mức tối đa cho phép và còn tiềm năng khai thác cao.
Với sản lượng khai thác được quanh năm phục vụ cho nhu cầu xuất khẩu, cá ngừ
sọc dưa đem lại nguồn thu nhập lớn cho các tác nhân tham gia vào quá trình sản
xuất và phân phối sản phẩm này. Tuy nhiên, làm thế nào để nâng cao khả năng cạnh
tranh lâu dài cho mặt hàng này là câu hỏi không những cho các tác nhân trong chuỗi
mà còn cho cả những nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách.
Xuất phát từ các vấn đề ở trên, em thực hiện đề tài khóa luận tốt nghiệp là
“Phân tích chuỗi giá trị cá ngừ sọc dưa tại thị trường Nha Trang, tỉnh Khánh
Hòa”. Hy vọng rằng nghiên cứu này sẽ giải quyết được các mục tiêu đặt ra và đề
xuất các chính sách nhằm nâng cao vị thế cạnh tranh cho chuỗi giá trị cá ngừ sọc
dưa tại thị trường Nha Trang, Khánh Hòa.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Hệ thống hóa lý luận và thực tiễn về chuỗi giá trị sản phẩm
- Phân tích cấu trúc chuỗi giá trị mặt hàng cá ngừ sọc dưa tại Nha Trang.
- Đánh giá cách thức vận hành thị trường của các tác nhân trong chuỗi giá trị
cá ngừ sọc dưa tại Nha Trang.
- Xác định phân phối lợi ích của các tác nhân trong chuỗi giá trị cá ngừ sọc dưa.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao tính cạnh tranh cho toàn chuỗi giá trị mặt
hàng cá ngừ sọc dưa tại Nha Trang.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: là các tác nhân trong chuỗi giá trị cá ngừ sọc dưa bao
gồm: ngư dân, chủ nậu vựa, công ty chế biến, người bán sỉ cấp 1, người bán sỉ cấp
2, người bán lẻ.
- Phạm vi nghiên cứu: Trên địa bàn thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.
Thời gian tiến hành điều tra là tháng 04/2011 với số liệu thu thập được của năm
2010.
- 3 -
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận nghiên cứu:

- Tiếp cận phân tích theo chuỗi giá trị trên cơ sở áp dụng mô hình SCP
(Structure – Conduct – Performance) để nghiên cứu trường hợp chuỗi giá trị cá ngừ
sọc dưa tại thị trường Nha Trang.
- Ngoài ra, nghiên cứu vận dụng lý thuyết lợi thế cạnh tranh của Michael E.
Porter để phân tích sức ép lẫn nhau giữa các tác nhân trong chuỗi.
Phương pháp thu thập số liệu:
Dữ liệu sơ cấp được thu thập thông qua việc phỏng vấn trực tiếp 15 ngư dân, 3
chủ nậu vựa, 2 người bán sỉ cấp 1, 2 người bán sỉ cấp 2, 5 người bán lẻ, 2 công ty
chế biến bằng việc sử dụng bảng câu hỏi.
5. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, tài liệu tham khảo, mục lục và phụ
lục, nội dung chính của đề tài gồm 5 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
Chương 2: Tổng quan ngành thủy sản Việt Nam và Khánh Hòa
Chương 3: Kết quả nghiên cứu chuỗi giá trị cá ngừ sọc dưa tại Nha Trang
Chương 4: Giải pháp nâng cao vị thế cạnh tranh chuỗi giá trị cá ngừ sọc dưa
tại Nha Trang.
Chương 5: Kết luận và khuyến nghị.
- 4 -
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.1 Khái niệm chuỗi giá trị
Khái niệm chuỗi giá trị được đưa ra đầu tiên bởi Michael E. Porter – Giáo sư
của trường Kinh Doanh Harvard, chuyên gia hàng đầu thế giới trong lĩnh vực cạnh
tranh. Ông đưa thuật ngữ này lần đầu tiên vào năm 1985 trong cuốn sách phân tích
về lợi thế cạnh tranh khi khảo sát kỹ các hệ thống sản xuất, thương mại và dịch vụ
đã đạt tới tầm ảnh hưởng rất lớn ở Mỹ và các quốc gia phát triển khác.
Theo Michael E. Porter, chuỗi giá trị là chuỗi các hoạt động từ khâu đầu tiên
đến khâu cuối cùng của sản phẩm bao gồm các hoạt động chính và các hoạt động bổ
trợ để tạo nên lợi thế cạnh tranh của sản phẩm (xem hình 1.1). Theo đó khi đi qua

lần lượt các hoạt động của chuỗi, mỗi sản phẩm nhận được một số giá trị. Các hoạt
động chính là các hoạt động liên quan đến việc chuyển đổi về mặt vật lý, quản lý
sản phẩm cuối cùng để cung cấp cho khách hàng. Các hoạt động bổ trợ nhằm hỗ trợ
cho các hoạt động chính [2].













Hình 1.1: Chuỗi giá trị áp dụng cho một doanh nghiệp. Nguồn: [3]
Hậu
cần ra
ngoài
- 5 -
Các hoạt động chính: bao gồm hậu cần đến, sản xuất, hậu cần ra ngoài,
marketing và bán hàng, dịch vụ khách hàng.
1

Hậu cần đến: Những hoạt động liên quan đến việc nhận, lưu trữ, dịch chuyển
đầu vào sản phẩm, chẳng hạn như quản trị nguyên vật liệu, kho bãi, kiểm soát tồn
kho, lên lịch trình xe cộ và trả lại sản phẩm cho nhà cung cấp
Sản xuất: là hoạt động chuyển nguyên vật liệu đầu vào thành sản phẩm hoàn

thành.
Hậu cần ra ngoài: gồm những hoạt động kết hợp thu thập, lưu trữ và phân
phối sản phẩm từ nhà sản xuất đến người mua.
Marketing và bán hàng: là những hoạt động liên quan đến việc quảng cáo,
khuyến mại, lựa chọn kênh phân phối, quản trị mối quan hệ trong kênh và định giá.
Dịch vụ khách hàng: (dịch vụ sau bán hàng) liên quan đến việc cung cấp dịch
vụ nhằm gia tăng, duy trì giá trị của sản phẩm.
Các hoạt động bổ trợ: bao gồm các hoạt động như thu mua, phát triển công
nghệ, quản trị nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng của công ty.
Thu mua: liên quan đến chức năng mua nguyên vật liệu đầu vào bao gồm
nguyên vật liệu, các nhà cung cấp, máy móc…
Phát triển công nghệ: liên quan tới các bí quyết, quy trình, thủ tục, công nghệ
được sử dụng.
Quản trị nguồn nhân lực: bao gồm các hoạt động liên quan tới chiêu mộ,
tuyển dụng, đào tạo, phát triển và quản trị thù lao cho người lao động trong công ty.
Cơ sở hạ tầng công ty: bao gồm quản lý chung, lập kế hoạch quản lý, tuân thủ
luật pháp, tài chính, kế toán, quản lý chất lượng, quản lý cơ sở vật chất…
Khái niệm trên được áp dụng khi phân tích chuỗi giá trị của một doanh nghiệp
cụ thể. Tuy nhiên, trên thực tế chuỗi giá trị còn được sử dụng để xem xét ở phạm vi
một ngành, địa phương, quốc gia hoặc toàn cầu. Và khi đó, người ta dùng đến khái
niệm chung cho chuỗi giá trị như sau: “Chuỗi giá trị được hiểu chung là một loạt
các chuyển đổi từ nguyên vật liệu (giai đoạn đầu) đến khi giao sản phẩm/dịch vụ

1
Nội dung phần này tham khảo tại [3].
- 6 -
hoàn chỉnh đến người tiêu dùng cuối cùng (giai đoạn cuối). Trong chuỗi giá trị toàn
cầu có sự tham gia của nhiều công ty và nhiều quốc gia với những chức năng khác
nhau, một số cung cấp nguyên vật liệu, một số sản xuất sản phẩm cuối cùng, và một
số chuyển giao sản phẩm này đến người tiêu dùng cuối cùng” [4].

Cũng đứng trên góc độ xem xét chuỗi giá trị của một ngành, tác giả Nguyễn
Thị Trâm Anh đã đưa ra khái niệm về chuỗi giá trị sản phẩm thủy sản: “Chuỗi giá
trị sản phẩm thủy sản được hiểu là sự liên kết giữa các tác nhân trong chuỗi, bao
gồm nhà cung ứng đầu vào (ngư dân / hộ nuôi trồng thủy sản và người cung ứng
dịch vụ như con giống, thức ăn, thuốc, tín dụng, kỹ thuật ), nhà mua bán trung
gian, nhà chế biến, nhà nhập khẩu, nhà bán buôn, nhà bán lẻ và người tiêu dùng
thông qua dòng chảy sản phẩm trước và dòng thông tin phản hồi sau” [5].
Nhìn chung, một ngành có thể được ví như một doanh nghiệp lớn, mỗi doanh
nghiệp trong ngành có thể xem như bộ phận nhỏ của doanh nghiệp lớn đó, tham gia
vào một số công đoạn để chế biến từ đầu vào thành đầu ra cung cấp cho thị trường.
Một số ngành có thể có nhiều chuỗi giá trị gia tăng khác nhau liên quan đến các sản
phẩm khác nhau. Trong mỗi chuỗi giá trị gia tăng như vậy, phần đóng góp của mỗi
công đoạn sẽ có giá trị khác nhau. Phân tích chuỗi giá trị ngành giúp ta nhìn ra giá
trị của mỗi công đoạn, nhận diện xu hướng biến đổi của từng công đoạn và điều cốt
lõi nhất là những yếu tố làm ra giá trị cho mỗi công đoạn. Từ đó giúp các doanh
nghiệp trong chuỗi ngành có thể đánh giá bản thân và các doanh nghiệp khác trong
chuỗi mạnh yếu chỗ nào, nhìn ra cơ hội tạo ra giá trị tốt nhất để khai thác [6].
1.2 Mối quan hệ giữa chuỗi giá trị và chuỗi cung ứng
Để hiểu rõ hơn về mối quan hệ giữa chuỗi giá trị và chuỗi cung ứng, trước tiên
cần hiểu qua về khái niệm chuỗi cung ứng. Hiện nay, có rất nhiều khái niệm về
chuỗi cung ứng được nhắc đến, có thể kể đến một số khái niệm như:
Bài giảng của GS. Souviron về quản trị chuỗi cung cấp: “Chuỗi cung cấp là
một mạng lưới gồm các tổ chức có liên quan, thông qua các mối liên kết phía trên


- 7 -
và phía dưới trong các quá trình và hoạt động khác nhau sản sinh ra giá trị dưới hình
thức sản phẩm dịch vụ trong tay người tiêu dùng cuối cùng” [7].
Theo Ganeshan & Harrison “chuỗi cung ứng là một chuỗi hay một tiến trình
bắt đầu từ nguyên liệu thô cho tới khi sản phẩm làm ra hay dịch vụ tới tay người

tiêu dùng cuối cùng. Chuỗi cung ứng là một mạng lưới các lựa chọn về phân phối
và các phương tiện để thực hiện thu mua nguyên liệu, biến đổi các nguyên liệu này
qua khâu trung gian để sản xuất ra sản phẩm, phân phối sản phẩm này tới tay người
tiêu dùng” [8].
Theo Michael E. Porter (1990) “chuỗi cung ứng là một quá trình chuyển đổi từ
nguyên vật liệu thô cho tới sản phẩm hoàn chỉnh thông qua quá trình chế biến và
phân phối tới tay khách hàng cuối cùng” [9].
Từ các khái niệm trên có thể hiểu chuỗi cung ứng sản phẩm là chuỗi của các
hoạt động từ khâu sản xuất, qua lưu thông (có thể qua chế biến) và đến tay người
tiêu dùng cuối cùng. Sản phẩm đi qua tất cả các hoạt động của chuỗi theo thứ tự và
tại mỗi hoạt động sản phẩm luôn có sự thay đổi về giá cả và có thể có những thay
đổi nhất định về giá trị vì luôn có các chi phí xảy ra trong suốt các hoạt động.
Trong một chuỗi cung ứng điển hình, nguyên vật liệu được mua ở một hoặc
nhiều nhà cung cấp; các bộ phận được sản xuất ở một nhà máy hoặc nhiều hơn, sau
đó được vận chuyển đến nhà kho để lưu trữ ở giai đoạn trung gian và cuối cùng đến
nhà bán lẻ và khách hàng. Vì vậy, để giảm thiểu chi phí và cải tiến mức phục vụ,
các chiến lược chuỗi cung ứng hiệu quả phải xem xét đến sự tương tác ở các cấp độ
khác nhau trong chuỗi cung ứng. Chuỗi cung ứng, cũng được xem như mạng lưới
hậu cần, bao gồm các nhà cung cấp, các trung tâm sản xuất, nhà kho, các trung tâm
phân phối, và các cửa hàng bán lẻ, cũng như nguyên vật liệu, tồn kho trong quá
trình sản xuất và sản phẩm hoàn thành dịch chuyển giữa các cơ sở [3].
Trong chuỗi cung ứng thì mỗi thành viên của chuỗi là người mua hàng của
người trước và là nhà cung cấp cho người sau, các thành viên trong chuỗi có chung
một mục đích và cùng nhau làm việc để đạt được mục đích đó. Mỗi thành viên của
chuỗi có thể độc lập với nhau, nhưng lại phụ thuộc lẫn nhau. Mỗi thành viên góp
- 8 -
thêm giá trị tại mắt xích cuối của chuỗi bằng cách đóng góp vào sự thỏa mãn của
khách hàng.
Tóm lại, chuỗi cung ứng bao gồm tất cả các doanh nghiệp tham gia, một cách
trực tiếp hay gián tiếp, trong việc đáp ứng nhu cầu khách hàng. Chuỗi cung ứng

không chỉ bao gồm nhà sản xuất và nhà cung cấp, mà còn công ty vận tải, nhà kho,
nhà bán lẻ và khách hàng của nó.
Mối quan hệ giữa chuỗi giá trị và chuỗi cung ứng:
Mọi người sử dụng những tên gọi khác nhau cho các chuỗi hoạt động và tổ
chức. Khi con người nhấn mạnh đến họat động sản xuất, họ xem chúng như là các
quy trình sản xuất; khi họ nhấn mạnh đến khía cạnh marketing, họ gọi chúng là
kênh phân phối; khi họ nhìn ở góc độ tạo ra giá trị, họ gọi chúng là chuỗi giá trị; khi
họ nhìn nhận về cách thức thỏa mãn nhu cầu của khách hàng, họ gọi nó là chuỗi nhu
cầu; khi tập trung vào sự dịch chuyển nguyên vật liệu gọi là chuỗi cung ứng [3].
Theo khái niệm thì chuỗi cung ứng là sự nối tiếp nhau của các quá trình và
các hoạt động nhằm mục đích có được những sản phẩm từ trạng thái ban đầu
(nguyên liệu), để đưa nó từ nhà máy đến tay khách hàng. Chuỗi cung ứng cũng có
thể bao gồm việc vận chuyển từ khách hàng đến các công ty tái chế sau khi sử dụng
nó. Chuỗi cung ứng liên quan đến nhu cầu của khách hàng, nó sẽ thay đổi tùy thuộc
vào nhu cầu của khách hàng.
Trong khi đó chuỗi giá trị là sự kế tiếp nhau của quá trình, các hoạt động và
dịch vụ nhằm tăng giá trị cho mặt hàng đó. Nó không những chỉ bao gồm các
bước tạo ra sản phẩm mà còn cung cấp các dịch vụ cho khách hàng như dịch vụ
khách hàng hoặc bảo hành. Định nghĩa chuỗi giá trị được hiểu là giá trị của sản
phẩm phụ thuộc vào sự thỏa mãn nhu cầu của khách hàng vào chất lượng sản xuất
và phụ thuộc vào dịch vụ kèm theo.
Như vậy, chuỗi giá trị và chuỗi cung ứng tuy khác nhau nhưng lại bổ sung cho
nhau. Giá trị tạo ra của chuỗi bao gồm tổng các giá trị tạo ra tại mỗi công đoạn của
chuỗi. Đối với mỗi khách hàng khác nhau, phụ thuộc vào việc họ trả bao nhiêu cho
các đặc tính của sản phẩm đó mà tổng giá trị của chuỗi sẽ khác nhau.
- 9 -
Chuỗi cung ứng phụ thuộc vào nhu cầu của khách hàng, được đưa ra bởi chuỗi
giá trị. Chuỗi giá trị đó sẽ quyết định chuỗi cung ứng dựa vào những gì mà khách
hàng quan tâm đến [10].
1.3 Mô hình SCP (Structure - Conduct - Performance)

Mô hình SCP chỉ ra rằng có mối liên hệ giữa ba yếu tố cấu trúc thị trường, vận
hành thị trường và kết quả thực hiện thị trường. Cấu trúc thị trường và sự vận hành
thị trường ảnh hưởng đến kết quả thực hiện thị trường. Ngược lại, kết quả thị trường
sẽ tác động trở lại đến cấu trúc và sự vận hành thị trường trong dài hạn như được
chỉ trong hình 1.2. Kết quả thị trường phụ thuộc vào sự vận hành thị trường của
người bán và người mua thông qua các chính sách định giá, chủng loại sản phẩm,
đầu tư phương tiện sản xuất. Sự vận hành ảnh hưởng chi phối ngược lại cấu trúc thị
trường bao gồm ảnh hưởng đến số lượng và quy mô sản xuất kinh doanh của những
người bán và người mua, các kênh marketing, mức độ khác biệt hóa sản phẩm, sự
tồn tại hay không của các rào cản gia nhập và xuất ngành.










Hình 1.2 : Sự tương tác qua lại giữa ba yếu tố trong mô hình SCP
Nguồn: [11]



Cấu trúc
thị trường

Vận hành
thị trường


Kết quả thực
hiện thị trường
- 10 -

Các nhân tố trong của cấu trúc SCP được thể hiện trong bảng 1.1:
Bảng 1.1: Các nhân tố của SCP
Nhân tố cấu trúc Nhân tố vận hành Nhân tố kết quả
Những trung gian
trong hệ thống kênh
marketing
Những cản trở gia
nhập và ra khỏi ngành
Sự tham gia của người
mua và người bán
Phân loại chất lượng
Phân tích thông tin thị
trường
Cấu trúc kênh thị
trường
Cơ sở hình thành giá
Nguyên tắc điều phối
thị trường
Hoạt động mua vào
Hoạt động bán ra
Vận chuyển
Dự trữ
Thương lượng
Tiến hành
Thông tin

Tài chính/ rủi ro
Chiến lược thương mại
chung để tăng hiệu quả
marketing

Sự thích hợp của sản phẩm liên
quan đến thị hiếu của khách
hàng
Hiệu quả của dịch vụ cung ứng:

Tỉ lệ lợi nhuận liên quan đến
chênh lệch biên tế giữa giá và
chi phí marketing
Phân tích thị trường; thương
lượng chi phí giao dịch (tìm
kiếm và kí hợp đồng)
Phân tích khác biệt về giá và
giao động về giá theo thời vụ
Tham gia thị trường
Phân tích sự năng động của thị
trường
(Nguồn: [11])
Căn cứ vào mục tiêu nghiên cứu và những hạn chế về số liệu nghiên cứu nên
đề tài chỉ đề cập đến các nhân tố chính như trong bảng 1.2:
Bảng 1.2: Các nhân tố của SCP sử dụng trong nghiên cứu
Nhân tố cấu trúc (S) Nhân tố vận hành (C) Nhân tố kết quả (P)
Những tác nhân trung gian
trong hệ thống marketing.
Tình hình cạnh tranh mặt
hàng cá ngừ sọc dưa.

Quá trình hình thành giá.
Hoạt động mua vào.
Hoạt động bán ra.
Thương lượng.
Các thể chế, chính sách
liên quan.
Phân tích giá trị tăng
thêm và giá trị tạo ra để
nhận biết đâu là giá trị
kinh tế được tạo ra
trong một chuỗi giá trị.
- 11 -

Những yếu tố của cấu trúc thị trường:
Khi phân tích cấu trúc thị trường thì điều trước tiên cần được xem xét đó là các
tác nhân có liên quan đến thị trường cá ngừ sọc dưa. Những thông tin thu thập được
từ đối tượng này sẽ cung cấp một bức tranh tổng quát về các kênh tiêu thụ sản phẩm
cá ngừ sọc dưa bắt đầu từ ngư dân đến tay người tiêu dùng cuối cùng. Các kênh tiêu
thụ sẽ giúp cho việc xác định mối liên hệ giữa các tác nhân tham gia trên thị trường.
Bên cạnh đó, đề tài còn tập trung xem xét tính cạnh tranh trên thị trường thông
qua phân tích các tiêu chí:
- Sự tồn tại các rào cản thâm nhập và xuất ngành: sự tồn tại các rào cản gia
nhập và xuất ngành ảnh hưởng đến mối quan hệ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
hiện tại và các đối thủ tiềm ẩn. Nếu không có các rào cản gia nhập và xuất ngành,
các đối thủ mới có thể dễ dàng gia nhập thị trường làm tăng tính cạnh tranh trên thị
trường hoặc rời bỏ thị trường. Ngược lại, nếu thị trường tồn tại các rào cản gia nhập
và xuất ngành mức độ cao, các rào cản này đảm bảo cho các doanh nghiệp đang tồn
tại một sự bảo vệ để tránh được sự cạnh tranh đến từ các đối thủ tiềm ẩn.
- Sự khác biệt về sản phẩm: ở đây những người bán sẽ dựa vào các tiêu chí
khác nhau để phân định sự khác biệt giữa những sản phẩm của họ với các sản phẩm

cạnh tranh của những người khác.
- Tiếp cận thông tin thị trường: được đo lường thông qua tiêu chí mức độ dễ
dàng tiếp cận các thông tin cần thiết về thị trường ví dụ như giá cả sản phẩm và
nguồn cung cấp thông tin về giá cho những ngư dân và sự chính xác của các thông
tin.
Những yếu tố của kết quả thực hiện thị trường:
Trong phân tích kết quả thị trường, đề tài tập trung vào việc phân phối giá trị
tăng thêm của các tác nhân tham gia trong chuỗi.
Giá trị tăng thêm là chênh lệch giá trị của sản phẩm B và giá trị sản phẩm A.
Phân tích giá trị tăng thêm là công cụ để đánh giá giá trị kinh tế được tạo ra trong
chuỗi giá trị của một tác nhân. Phân tích giá trị tăng thêm nhằm nhận dạng giá trị
- 12 -
kinh tế được tạo ra ở đâu trong chuỗi giá trị. Giá trị kinh tế được tạo ra là hiệu số
giữa lợi ích và chi phí của sản phẩm qua từng thành viên trong kênh phân phối [11].
Đối với kênh phân phối cá ngừ sọc dưa, việc phân tích giá trị tăng thêm dựa
vào chi phí sản xuất, chi phí gia tăng và lợi nhuận biên đối với mỗi thành viên trong
kênh phân phối bao gồm ngư dân, nậu vựa, người bán buôn, người bán lẻ, cơ sở chế
biến. Qua việc phân tích giá trị tăng thêm nhằm làm rõ mức phân chia lợi nhuận cho
từng thành viên trong kênh. Hai tỉ số sẽ được sử dụng trong phân tích đó là: lợi
nhuận biên trên tổng chi phí và lợi nhuận trên chi phí gia tăng. Hai tỉ số này được sử
dụng nhằm so sánh và xác định mức độ hợp lý của việc phân chia lợi nhuận giữa
các tác nhân trong chuỗi.
Lợi nhuận biên

Lợi nhuận trên tổng chi phí

=

Tổng chi phí


Lợi nhuận
Lợi nhuận trên chi phí gia tăng

=

Chi phí gia tăng


1.4 Lý thuyết về lợi thế cạnh tranh của Michael E. Porter
1.4.1 Khái niệm cạnh tranh
Ngày nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều phải thừa nhận trong mọi hoạt
động đều phải có cạnh tranh và coi cạnh tranh không những là môi trường, động lực
của sự phát triển nói chung, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển và tăng năng
suất lao động, hiệu quả của các doanh nghiệp nói riêng mà còn là yếu tố quan trọng
làm lành mạnh hóa các quan hệ xã hội.
Thuật ngữ này được sử dụng rất phổ biến hiện nay trong nhiều lĩnh vực như
kinh tế, thương mại, luật, chính trị, quân sự, sinh thái, thể thao; thường xuyên được
nhắc tới trong sách báo chuyên môn, diễn đàn kinh tế cũng như các phương tiện
thông tin đại chúng và được sự quan tâm của nhiều đối tượng, từ nhiều góc độ khác
- 13 -
nhau. Chính vì vậy mà cạnh tranh có rất nhiều khái niệm khác nhau ở nhiều khía
cạnh khác nhau, cụ thể:
2

Theo từ điển Tiếng Việt, cạnh tranh được định nghĩa là “tranh đua giữa những
cá nhân, tập thể có chức năng như nhau, nhằm giành phần hơn, những phần thắng
về mình”.
Theo Từ điển Thuật ngữ kinh tế học “cạnh tranh – sự đấu tranh đối lập giữa
các cá nhân, tập đoàn hay quốc gia. Cạnh tranh nảy sinh khi hai bên hay nhiều bên
cố gắng giành lấy thứ mà không phải ai cũng có thể giành được”.

Theo từ điển rút gọn về kinh doanh (xuất bản năm 1992 ở Anh) “cạnh tranh là
sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm giành cùng
một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình”.
Theo từ điển bách khoa của Việt Nam thì “cạnh tranh (trong kinh doanh) là
hoạt động ganh đua giữa những người sản xuất hàng hóa, giữa các thương nhân, các
nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, chi phối bởi quan hệ cung cầu nhằm
giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ và thị trường có lợi nhất”.
Theo Karl Marx, “cạnh tranh là sự ganh đua, đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư
bản để giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa để
thu được lợi nhuận siêu ngạch”.
Hai nhà kinh tế học Mỹ P.A Samuelson và W.D Nordhaus trong cuốn kinh tế
học (xuất bản lần thứ 12) cho rằng, “cạnh tranh là sự kình địch giữa các doanh
nghiệp với nhau để giành khách hàng hoặc thị trường”. Hai tác giả này cho cạnh
tranh đồng nghĩa với cạnh tranh hoàn hảo [12].
Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp của tổ chức Hợp tác và Phát triển
kinh tế (OECD) đưa ra định nghĩa “cạnh tranh là khái niệm của doanh nghiệp, quốc
gia và vùng trong việc tạo việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh
quốc tế” [12].
Khi tiếp cận ở góc độ đơn giản, mang tính tổng quát thì cạnh tranh là hành
động ganh đua, đấu tranh chống lại các cá nhân hay các nhóm, các loài vì mục đích

2
Nội dung phần này tham khảo tại [12]
- 14 -
giành được sự tồn tại, sống còn, giành được lợi nhuận, địa vị, sự kiêu hãnh, các
phần thưởng hay những thứ khác [13].
Trong kinh tế chính trị học, cạnh tranh là sự ganh đua về kinh tế giữa những
chủ thể trong nền sản xuất hàng hóa nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi
trong sản xuất, tiêu thụ hoặc tiêu dùng hàng hóa để từ đó thu được nhiều lợi ích nhất
cho mình. Cạnh tranh có thể xảy ra giữa những người sản xuất với người tiêu dùng

(người sản xuất muốn bán đắt, người tiêu dùng muốn mua rẻ); giữa người tiêu dùng
với nhau để mua được hàng rẻ hơn; giữa những người sản xuất để có những điều
kiện tốt hơn trong sản xuất và tiêu thụ [13].
Theo Michael E. Porter, cạnh tranh là giành lấy thị phần. Bản chất của cạnh
tranh là tìm kiếm lợi nhuận, là khoản lợi nhuận cao hơn mức trung bình mà doanh
nghiệp đang có. Kết quả quá trình cạnh tranh là sự bình quân hóa lợi nhuận trong
ngành theo chiều hướng cải thiện sâu dẫn đến hệ quả giá cả có thể giảm đi [13].
Tóm lại, cạnh tranh là khái niệm dùng để chỉ sự tranh đua giữa các cá nhân, tổ
chức, cùng hoạt động trong một kĩnh vực, để giành phần hơn (về thị trường, khách
hàng, lợi nhuận…), phần thắng về mình.
Như vậy, cạnh tranh có tính chất hai mặt: tác động tích cực và tác động tiêu
cực. Cạnh tranh là động lực mạnh mẽ thúc đẩy các chủ thể kinh doanh hoạt động
hiệu quả hơn trên cơ sở nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả vì sự sống còn và
phát triển của mình. Tuy nhiên, cạnh tranh cũng có nguy cơ dẫn đến cạnh tranh,
giành giật, khống chế lẫn nhau… tạo nguy cơ gây rối loạn và thậm chí đổ vỡ lớn.
Để phát huy được mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực, cần duy trì môi trường cạnh
tranh lành mạnh, hợp pháp và kiểm soát độc quyền, xử lý cạnh tranh không lành
mạnh giữa các chủ thể kinh doanh.
1.4.2 Lợi thế cạnh tranh
3

Lợi thế cạnh tranh và việc nghiên cứu lợi thế cạnh tranh một cách có hệ thống
mới chỉ được bắt đầu ở những năm 1980 đến nay và có nhiều quan điểm khác nhau
về lợi thế cạnh tranh:

3
Nội dung này chủ yếu tham khảo từ [12]
- 15 -
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học cổ điển, thì các yếu tố sản xuất, như:
đất đai, vốn, lao động, những yếu tố tài sản hữu hình là nguồn lực quan trọng để tạo

nên lợi thế cạnh tranh.
Adam Smith cho rằng: lợi thế cạnh tranh dựa trên cơ sở lợi thế tuyệt đối về
năng suất lao động, năng suất lao động cao có nghĩa là chi phí sản xuất giảm, muốn
tăng năng suất lao động thì phải phân công lao động và chuyên môn hóa sản xuất.
David Ricardo lại cho rằng: lợi thế cạnh tranh không chỉ phụ thuộc vào lợi thế
tuyệt đối, mà còn phụ thuộc cả vào lợi thế tương đối, tức lợi thế so sánh và nhân tố
quyết định tạo nên lợi thế so sánh vẫn là chi phí sản xuất nhưng mang tính tương
đối.
Theo Michael E. Porter, lợi thế cạnh tranh trước hết dựa vào khả năng duy trì
một chi phí sản xuất thấp và sau đó là dựa vào sự khác biệt hóa sản phẩm so với đối
thủ cạnh tranh, như: chất lượng sản phẩm, dịch vụ, mạng lưới phân phối, cơ sở vật
chất, trang bị kỹ thuật.
Hiểu một cách tổng quát thì lợi thế cạnh tranh là những lợi thế (khả năng vượt
trội) của các chủ thể cạnh tranh (cá nhân, tổ chức) trong cuộc cạnh tranh (tranh đua)
với các đối thủ của mình; Nói cách khác, lợi thế cạnh tranh là những gì mà chủ thể
cạnh tranh có được để giành phần hơn, phần thắng về mình. Một cách cụ thể hơn,
lợi thế cạnh tranh của một công ty là khả năng công ty đó có thể cung cấp cho thị
trường một giá trị đặc biệt mà không có một đối thủ cạnh tranh nào có thể cung cấp
được. Hay lợi thế cạnh tranh là những năng lực phân biệt của công ty, mà những
năng lực phân biệt này được khách hàng xem trọng, đánh giá cao vì nó tạo ra giá trị
cao cho khách hàng.
1.4.3 Lợi thế cạnh tranh theo quan điểm của Michael E. Porter
4

Trong cuốn sách “Lợi thế cạnh tranh”, Michael E. Porter nghiên cứu và khám
phá những cơ sở cốt lõi của lợi thế cạnh tranh. Nó bắt đầu với tiền đề rằng lợi thế
cạnh tranh xuất phát từ nhiều nguồn khác nhau; sau đó đưa ra cách thức gắn lợi thế
cạnh tranh với những hoạt động cụ thể cũng như cách liên kết các hoạt động ấy với

4

Nội dung phần này tham khảo tại [2]
- 16 -
nhau và với hoạt động cụ thể cũng như cách liên kết các hoạt động ấy với hoạt động
của nhà cung cấp, khách hàng. Nghiên cứu những nguyên nhân tiềm tàng của lợi thế
trong một hoạt động cụ thể: lý do tại sao một doanh nghiệp đạt chi phí thấp hơn,
bằng cách nào mà các hoạt động tạo ra giá trị hữu hình cho người mua. “Lợi thế
Cạnh tranh” biến chiến lược từ một tầm nhìn mang tính vĩ mô trở thành một cấu
trúc nhất quán của những hoạt động bên trong - một phần quan trọng của tư tưởng
kinh doanh quốc tế hiện nay. Cấu trúc mạnh mẽ đó cung cấp những công cụ hữu
hiệu để hiểu được ảnh hưởng của chi phí và vị thế tương đối về chi phí của công ty,
của ngành.
Michael E. Porter chỉ rõ lợi thế cạnh tranh không chỉ nằm ở bản thân mỗi hoạt
động, mà còn ở cả mối liên kết giữa các hoạt động với nhau, với các hoạt động của
nhà cung cấp và cả các hoạt động của khách hàng nữa. Lý thuyết lợi thế cạnh tranh
của Porter mang đến cho chúng ta công cụ để phân đoạn chiến lược một ngành kinh
doanh và đánh giá một cách sâu sắc logic cạnh tranh của sự khác biệt hóa. Nó nhấn
mạnh rằng đa số vị thế cạnh tranh tốt bắt nguồn từ các hoạt động khác nhau. Lợi thế
dựa trên một số ít các hoạt động dễ bị phát hiện và bắt chước bởi các đối thủ cạnh
tranh. Lợi thế có thể ở dưới dạng giá cả thấp hơn đối thủ cạnh tranh (trong khi lợi
ích cho người mua là tương đương), hoặc việc cung cấp những lợi ích vượt trội so
với đối thủ khiến người mua chấp nhận thanh toán một mức giá cao hơn.
Mô hình năm lực lượng cạnh tranh của MichaelE. Porter:
Năm 1979, trên tạp chí Harvard Business Review đã xuất bản mô hình Poter’s
five focers với nội dung là tìm hiểu yếu tố tạo ra lợi nhuận trong kinh doanh. Sau
khi ra đời mô hình được xem là công cụ hữu dụng và có hiệu quả trong việc tìm
hiểu nguồn gốc lợi nhuận. Nó cung cấp các chiến lược cạnh tranh trong kinh doanh
để doanh nghiệp duy trì và gia tăng lợi nhuận
Trong bất cứ ngành nghề nào, cho dù là ở phạm vi trong nước hay quốc tế,
ngành sản xuất hay dịch vụ, quy luật cạnh tranh đều thể hiện qua năm lực lượng
(xem hình 1.3):

 Sự gia nhập ngành của các DN mới
- 17 -
 Các sản phẩm, dịch vụ thay thế
 Sức mạnh của các nhà cung cấp
 Sức mạnh của người mua
 Sự cạnh tranh của các DN hiện tại.















Hình 1.3: Mô hình 5 lực lượng. Nguồn: [2]
Mỗi một yếu tố trong năm lực lượng này lại chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố
khác, mà bản thân các yếu tố đó cũng cần phải được nghiên cứu để tạo ra bức tranh
đầy đủ về sự cạnh tranh trong một ngành. Sự tác động qua lại giữa năm lực lượng
quyết định một ngành hấp dẫn như thế nào đối với các chủ thể kinh doanh ở trong
đó. Qua việc phân tích năm lực lượng này các ngành, các doanh nghiệp sẽ xác định
những lợi thế của mình so với đối thủ để tận dụng và phát triển.
Khách hàng:
Khách hàng là một áp lực cạnh tranh ảnh hưởng trực tiếp tới sự hoạt động sản

xuất của doanh nghiệp. Khách hàng bao gồm: người tiêu dùng cuối cùng, các nhà
Nguy cơ từ những
đối thủ mới
Năng lực
đàm phán

của người
mua
Nguy cơ sản
phẩm/dịch
vụ thay thế
Năng lực
đàm phán

của nhà
cung cấp
CÁC ĐỐI THỦ
TIỀM ẨN
KHÁCH
HÀNG
SẢN PHẨM
THAY THẾ
NHÀ
CUNG ỨNG
NH
ỮNG ĐỐI THỦ CẠNH
TRANH TRONG NGÀNH


Cạnh tranh hiện tại giữa

các đối thủ hiện hữu
- 18 -
phân phối (bán buôn, bán lẻ), các nhà mua công nghiệp, và người mua hàng cho các
tổ chức nhà nước hoặc tổ chức xã hội.
Khách hàng luôn tạo ra áp lực về giá cả, chất lượng sản phẩm, dịch vụ đi theo
của doanh nghiệp. Chính họ điều khiển áp lực cạnh tranh trong ngành thông qua
quyết định mua hàng. Khách hàng tạo ra áp lực cạnh tranh đối với doanh nghiệp thể
hiện ở quy mô khách hàng, vị thế đàm phán giá cả, tầm quan trọng của sản phẩm
bao gồm sự khác biệt hóa và khả năng thay thế của sản phẩm khác. Ngoài ra, nhu
cầu thông tin về sản phẩm, chi phí chuyển đổi khách hàng, tính nhạy cảm đối với
giá của khách hàng là một trong những áp lực cạnh tranh thật sự đối với các doanh
nghiệp trong ngành mà khách hàng tạo ra.
Sự trung thành của khách hàng là một lợi thế của doanh nghiệp, sự trung thành
đó xuất phát từ sự thỏa mãn những nhu cầu của họ bởi doanh nghiệp, các doanh
nghiệp muốn có hiệu quả trong sản xuất kinh doanh phải hướng những nỗ lực của
hoạt động marketing vào khách hàng, thu hút sự chú ý, kích thích sự quan tâm, thúc
đẩy khách hàng đến với sản phẩm và dịch vụ của mình.
Đối thủ cạnh tranh hiện tại:
Đối thủ cạnh tranh hiện tại là một trong năm lực lượng cạnh tranh trong ngành.
Các doanh nghiệp đang hoạt động trong ngành cạnh tranh trực tiếp với nhau tạo ra
tác động cạnh tranh trở lại ngành. Việc xem xét đối thủ cạnh tranh hiện tại sẽ cho
phép doanh nghiệp trả lời câu hỏi là phải làm gì để giành được ưu thế so với đối thủ
trong mối tương quan. Tính chất và cường độ cạnh tranh của các doanh nghiệp hiện
tại trong ngành phụ thuộc vào các yếu tố: Số lượng và quy mô của các đối thủ cạnh
tranh trong ngành; Tốc độ tăng trưởng ngành; Chi phí cố định và chi phí lưu kho
cao; Khác biệt hóa sản phẩm và dịch vụ; Các rào cản rút lui; Mối quan hệ giữa rào
cản thu nhập và rào cản rút lui.
Nhà cung cấp:
Các nhà cung cấp là những tổ chức, cá nhân có khả năng sản xuất và cung cấp
các yếu tố đầu vào như: vốn, lao động, máy móc thiết bị, nhà xưởng, nguyên vật

liệu, các loại dịch vụ phương tiện vận chuyển, thông tin,… Việc các nhà cung cấp
- 19 -
đảm bảo đầy đủ các yếu tố đầu vào cho doanh nghiệp về: số lượng, chất lượng,
chủng loại, giá cả, các điều kiện cung cấp sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho ngành,
doanh nghiệp thực hiện tốt hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả.
Ngược lại, trong một số trường hợp, có thể gây áp lực cho hoạt động của doanh
nghiệp.
Sức mạnh của nhà cung cấp thể hiện ở các đặc điểm sau:
- Mức độ tập trung của nhà cung cấp thể hiện ở quy mô và số lượng các nhà
cung cấp. Số lượng nhà cung cấp quyết định đến áp lực cạnh tranh, quyền lực đàm
phán của họ đối với ngành nói chung và doanh nghiệp nói riêng. Nếu thị trường có
một vài nhà cung cấp lớn sẽ tạo nên áp lực cạnh tranh mạnh ảnh hưởng tới sản xuất
của toàn ngành. Ngược lại, khi trên thị trường thị phần của các nhà cung ứng được
chia nhỏ thì sức ép cạnh tranh sẽ được giảm xuống, khả năng ảnh hưởng tới ngành
của một nhà cung ứng là không nhiều.
- Tầm quan trọng của nhà cung ứng thể hiện ở số lượng sản phẩm mà họ
cung ứng, sự khác biệt về sản phẩm cung ứng, khả năng thay thế của các nhà cung
cấp, chi phí chuyển đổi của các doanh nghiệp trong ngành.
Sự hiểu biết thông tin về nhà cung cấp cũng giúp cho doanh nghiệp có quyết
định đúng đắn nhất về sự lựa chọn nhà cung ứng. Trong thời đại bùng nổ thông tin
hiện nay, điều đó cũng là nhân tố quan trọng để doanh nghiệp giảm sức ép cạnh
tranh từ nhà cung ứng.
Đối thủ tiềm ẩn:
Michael E. Porter cho rằng các đối thủ tiểm ẩn là những doanh nghiệp hiện tại
chưa tham gia vào ngành nhưng có khả năng cạnh tranh trong tương lai nếu họ
quyết định gia nhập ngành. Về mọi phương diện các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn
chưa bằng các đối thủ trong ngành. Tuy nhiên họ có hai điểm mà chúng ta cần chú ý
là: có thể biết được điểm yếu của đối thủ hiện tại; và có tiềm lực tài chính, công
nghệ mới để sản xuất các sản phẩm mới.
Đối thủ tiềm ẩn ít hay nhiều, áp lực họ gây ra cho ngành mạnh hay yếu còn

phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó có các yếu tố sau:
- 20 -
Sức hấp dẫn của ngành. Điều này thể hiện qua tỷ suất lợi nhuận của ngành, số
lượng khách hàng của ngành, tốc độ tăng trưởng của ngành và các doanh nghiệp
trong ngành.
Rào cản gia nhập ngành như: vốn, khoa học kỹ thuật, …
Sản phẩm thay thế:
Sản phẩm thay thế là sản phẩm khác có thể thỏa mãn cùng nhu cầu của người
tiêu dùng. Đặc điểm cơ bản của nó thường có các ưu điểm hơn sản phẩm bị thay thế
ở các đặc trưng riêng biệt.
Áp lực cạnh tranh của các sản phẩm thay thế phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong
đó bao gồm chi phí chuyển đổi trong việc sử dụng sản phẩm, xu hướng sử dụng sản
phẩm thay thế của khách hàng, tương quan giữa giá cả và chất lượng của sản phẩm
thay thế. Áp lực cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ khi khả năng bị thay thế của sản
phẩm, dịch vụ ngày càng gia tăng. Tính chất khác biệt của sản phẩm càng lớn thì
tạo nên sức mạnh cạnh tranh với các sản phẩm thay thế càng cao. Tuy nhiên, khoa
học kỹ thuật ngày càng phát triển nhanh chóng, các sản phẩm mới với giá cả và chất
lượng cũng như những tính năng ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách
hàng thì các sản phẩm thay thế ngày càng có chiều hướng gia tăng, tạo nên sức ép
cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ đối với các doanh nghiệp trong ngành.
Như vậy, muốn chiến thắng trong môi trường cạnh tranh thì buộc các doanh
nghiệp phải không ngừng nâng cao vị thế cạnh tranh của mình trên thị trường.
1.5 Một số quy chế, quy định kiểm soát chất lượng và truy xuất nguồn gốc:
1.5.1 Quy chế kiểm tra và chứng nhận chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm
hàng hóa thủy sản
Quy chế được ban hành kèm theo Quyết định số 118 /2008/QĐ-BNN ngày
11/12/2008 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Quy chế này
quy định trình tự, thủ tục, nội dung kiểm tra và chứng nhận chất lượng, vệ sinh an
toàn thực phẩm (viết tắt là CL,VSATTP) hàng hóa thủy sản và trách nhiệm, quyền
hạn của các bên có liên quan trong kiểm tra và chứng nhận CL,VSATTP hàng hóa

thủy sản [14].

×