Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Chữa bệnh vảy nến - Thuốc gì? potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.63 KB, 9 trang )

Chữa bệnh vảy nến -
Thuốc gì?

Bệnh vảy nến là một bệnh mạn tính, biểu hiện đỏ da
và bong vảy trắng bạc như sáp nến. Bệnh gặp ở mọi
lứa tuổi, mọi giới, được chia làm 6 thể chính: vảy nến
thể mảng, thể giọt, thể mủ, thể đỏ da toàn thân, thể
đảo ngược và thể khớp. Vì vậy việc điều trị phụ thuộc
vào các thể bệnh, mức độ nặng nhẹ và diện tích
thương tổn. Có 3 bước tiếp cận là: thuốc bôi tại chỗ,
dùng thuốc đường uống (toàn thân) và quang hoá trị
liệu. Thông thường các thầy thuốc dùng phối hợp các
phương pháp trên.
Thuốc điều trị tại chỗ gồm các loại

Tổn thương da trong
Corticosteroids (diproson,
diprosalic, betnovate,
dermovate ): Thuốc có tác dụng giảm viêm, giảm quá
trình chuyển hoá của tế bào da và ức chế hệ miễn dịch
nhưng không được dùng kéo dài vì dễ gây biến chứng
như teo da, rạn da
Calcipotrience (daivonex): Thuốc dạng tổng hợp của
vitamin D3 có tác dụng khống chế tốc độ sừng hoá của da
trong bệnh vảy nến. Không bôi thuốc lên mặt và bộ phận
sinh dục, thuốc có thể gây kích ứng da.
bệnh vảy nến.
Retinoid (tazorax) dạng gel hoặc cream là dạng tổng hợp
của vitamin A, bôi tại chỗ tác dụng không nhanh như
corticosteroids nhưng không có biến chứng như
corticosteroids. Tuy nhiên thuốc có thể gây kích ứng da.


Dùng phối hợp với corticosteroids hiệu quả sẽ tốt hơn.
Lưu ý thuốc có nguy cơ gây quái thai nên phụ nữ trong
tuổi sinh đẻ nhất thiết phải tránh thai khi dùng thuốc này.
Coaltar (dầu than đá): một số xà phòng, dầu gội đầu có
chứa coaltar (polytar liquid). Sử dụng dầu gội đầu, tắm có
tác dụng bong vảy, sạch da nhưng kém hiệu quả hơn
corticosteroids. Thuốc có mùi hôi, làm bẩn da và quần áo
nên không phổ biến với các bệnh nhân.
Salisylic acid dạng mỡ, kem, gel 2%, 5% có tác dụng bạt
sừng mạnh thường được dùng phối hợp với
corticosteroids, coaltar hiệu quả điều trị sẽ cao hơn.
Thuốc điều trị toàn thân
Được chỉ định cho những trường hợp vảy nến thể nặng
(đỏ da toàn thân, thể khớp, thể mủ) và phải có sự theo
dõi chặt chẽ của thầy thuốc tại bệnh viện như:
Methotrexate: ức chế hệ miễn dịch làm chậm quá trình
phân bào. Thuốc có 2 dạng uống và tiêm, không dùng cho
người bị bệnh gan, phụ nữ có thai vì thuốc có hại cho tế
bào gan và máu, có thể gây quái thai.
Retinoid (soriantane, tigason) là một dạng của vitamin A
acid được chỉ định cho các trường hợp vảy nến nặng.
Cyclosporine là thuốc ức chế miễn dịch làm chậm quá
trình phân bào của tế bào da do vậy nhanh chóng làm
sạch vảy, được chỉ định cho các trường hợp nặng, kháng
lại các phương pháp điều trị khác. Thuốc gây độc cho
thận và gây tăng huyết áp, do vậy bệnh nhân phải được
theo dõi điều trị tại bệnh viện.
Alefacept (amevie) và etanercept (enbrel) là chế phẩm
sinh học cũng có tác dụng rất tốt với bệnh vảy nến.
Quang hoá trị liệu gồm các liệu pháp:

Tắm nắng: Trong ánh nắng có tia cực tím (UV), khi hấp
thụ vào da có tác dụng ngăn chặn tiến triển của bệnh, làm
giảm viêm, chậm quá trình sừng hoá.
UVB (tia cực tím nhóm B): Liệu pháp này có hiệu quả tốt
cho vảy nến thể nhẹ và thể trung bình và những thương
tổn kháng lại liệu pháp tại chỗ. Hiện nay ứng dụng UVB
với bước sóng hẹp hiệu quả điều trị sẽ cao hơn.
PUVA (phối hợp thuốc uống proralen và tia cực tím nhóm
A): UVA (tia cực tím nhóm A) có bước sóng dài được hấp
thu sâu hơn UVB còn proralen làm cho da tăng nhạy cảm
với ánh nắng.
Hiệu quả của PUVA cao hơn UVB, tuy nhiên liệu pháp
này có một số tác dụng phụ như đau đầu, mệt mỏi, nóng
rát và ngứa. Bệnh nhân sau khi uống proralen nên đeo
kính râm và tránh ánh nắng trong 2 ngày. Tuy nhiên nếu
điều trị PUVA kéo dài sẽ có nguy cơ ung thư tế bào gai và
u hắc sắc tố da. Phối hợp PUVA với uống retinoid hiệu
quả điều trị sẽ tốt hơn.

×