Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Tiểu luận: Thực trạng sử dụng các phương thức phát hành chứng khoán tại Việt Nam pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.48 KB, 28 trang )

Tiểu Luận
Thực trạng sử dụng
các phương thức
phát hành chứng
khoán tại Việt Nam
Mục lục
1. Phát hành chứng khoán trực tiếp
1.1. Cơ sở pháp lý
1.2. Thực trạng phát hành cổ phiếu trực tiếp
2. Phát hành cổ phiếu thông qua bảo lãnh
2.1. Điều kiện pháp lí
2.2. Các phương thức bảo lãnh
2.3. Thực trạng phát hành
2.4. Ưu nhược điểm
3. Phương thức phát hành bằng đấu thầu
3.1. Phân loại hình thức đấu thầu
3.2. Thực trạng của việc phát hành cổ phiếu bằng đấu thầu
3.2.1. Đấu thầu trái phiếu chính phủ
3.2.2. Đấu thầu trái phiếu và cổ phiếu doanh nghiệp
3.2.2.1. Đấu thầu trái phiếu doanh nghiệp
3.2.2.2. Đấu thầu cổ phiếu doanh nghiệp
3.3. Ưu nhược điểm
4. Một số biện pháp để phát hành chứng khoán hiệu quả hơn
***
Lời mở đầu
Những năm gần đây, ở Việt Nam đang sôi động một loại thị trường : thị trường
chứng khoán. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến cơn sốt chứng khoán như hiện nay,
trong đó phải kể đến những món lợi về kinh tế mà nó mang lại cho các nhà đầu tư
và cho chính những nhà phát hành. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị
trường tại Việt Nam, xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế, nhiều làn sóng kinh doanh
mới đã và đang ùa vào nước ta. Nhu cầu tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh


tranh đã buộc các doanh nghiệp phải minh bạch hoá cơ chế quản lý,mở rộng ngồn
vốn kinh doanh. Chính vì lẽ đó, các công ty cổ phần ra đời và ngày càng thể hiện
bước đi đúng đắn của mình khi đưa cổ phiếu của công ty đến với công chúng, gắn
liền lợi ích của công ty với các cổ đông. Qua đó, chúng ta cũng có thể thấy vai trò
của thị trường chứng khoán nói chung và thị trường cổ phiếu nói riêng đến sự phát
triển nền kinh tế đất nước. Việc phát hành cổ phiếu ra công chúng đã không còn
chỉ là việc của các doanh nghiệp mà là của tất cả mọi người, những ai quan tâm
đến thị trường chứng khoán. Các công ty càng có uy tín trong kinh doanh thì sự
chú ý của các nhà đầu tư vào đợt phát hành cổ phiếu của chúng càng lớn. Cũng vì
thế, nhìn vào giá của cổ phiếu mà chúng ta có thể thấy một phần kết quả kinh
doanh của công ty. Như vậy, phát hành cổ phiếu ra công chúng là một bước tiến
rất quan trọng, nó đánh dấu một thời kỳ phát triển của công ty. Tuy cũng đã hình
thành ở nước ta trong một thời gian nhưng nghiệp vụ phát hành chứng khoán ở
Việt Nam vẫn còn khá non yếu nếu đem so với thế giới. Có nhiều câu hỏi đặt ra là:
hiện nay các doanh nghiệp đã sử dụng những phương pháp nào để thực hiện phát
hành chứng khoán ra công chúng?thực trạng phát hành cổ phiếu ở nước ta trong
những năm qua có những nét gì đặc biệt? cũng như những giải pháp cho vấn đề
này trong giai đoạn hiện nay? Tất cả những nội dung đó cũng là đề tài nghiên cứu
chính trong bài thuyết trình của nhóm1:”Thực trạng sử dụng các phương thức phát
hành chứng khoán ở Việt Nam hiện nay”
***
1. PHÁT HÀNH CHỨNG KHOÁN TRỰC TIẾP
1.1. Cơ sở pháp lý
Phát hành chứng khoán trực tiếp là phương pháp mà tổ chức phát hành trực tiếp
chào bán chứng khoán cho người đầu tư theo giá chào bán đã xác định.
Trong phương pháp này, này người phát hành trực tiếp lo tất cả các khâu từ
khâu làm thủ tục phát hành cho đến khâu bán chứng khoán ra công chúng.
Điều kiện chào bán chứng khoán ra công chúng
1. Điều kiện chào bán cổ phiếu ra công chúng bao gồm:
a) Doanh nghiệp có mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký chào bán

từ mười tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán;
b) Hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký chào bán phải có
lãi, đồng thời không có lỗ luỹ kế tính đến năm đăng ký chào bán;
c) Có phương án phát hành và phương án sử dụng vốn thu được từ đợt chào
bán được Đại hội đồng cổ đông thông qua.
2. Điều kiện chào bán trái phiếu ra công chúng bao gồm:
a) Doanh nghiệp có mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký chào bán
từ mười tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán;
b) Hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký chào bán phải có
lãi, đồng thời không có lỗ luỹ kế tính đến năm đăng ký chào bán, không có các
khoản nợ phải trả quá hạn trên một năm;
c) Có phương án phát hành, phương án sử dụng và trả nợ vốn thu được từ
đợt chào bán được Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng thành viên hoặc Chủ sở hữu
công ty thông qua;
d) Có cam kết thực hiện nghĩa vụ của tổ chức phát hành đối với nhà đầu tư
về điều kiện phát hành, thanh toán, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu
tư và các điều kiện khác.
3. Điều kiện chào bán chứng chỉ quỹ ra công chúng bao gồm:
a) Tổng giá trị chứng chỉ quỹ đăng ký chào bán tối thiểu năm mươi tỷ đồng
Việt Nam;
b) Có phương án phát hành và phương án đầu tư số vốn thu được từ đợt chào
bán chứng chỉ quỹ phù hợp với quy định của Luật này.
Điều kiện chào bán chứng khoán riêng lẻ
1. Điều kiện chào bán cổ phiếu riêng lẻ bao gồm:
Để chào bán cổ phiếu, tổ chức chào bán cổ phiếu phải đáp ứng đầy đủ các điều
kiện được quy định trong Nghị định, trong đó bao gồm các điều kiện quan trọng
sau:
a, Phải có phương án phát hành và phương án sử dụng số tiền thu được từ đợt
phát hành. Trường hợp là doanh nghiệp cổ phần thì phương án phát hành và
phương án sử dụng số tiền thu được từ đợt phát hành phải được ĐHĐCĐ thông

qua, hoặc HĐQT thông qua theo Điều lệ công ty hoặc uỷ quyền của ĐHĐCĐ;
b, Trường hợp chào bán cho các đối tác chiến lược, phải xây dựng tiêu chí xác
định, lựa chọn đối tác chiến lược. Trường hợp là doanh nghiệp cổ phần thì tiêu chí
xác định, lựa chọn đối tác chiến lược phải được ĐHĐCĐ thông qua, hoặc HĐQT
thông qua theo Điều lệ công ty hoặc uỷ quyền của ĐHĐCĐ;
c, Trường hợp chào bán cổ phiếu cho người lao động, thành viên HĐQT, thành
viên ban kiểm soát trong doanh nghiệp, phương án chào bán phải được ĐHĐCĐ
thông qua.
2. Điều kiện chào bán trái phiếu riêng lẻ bao gồm:
a, Là doanh nghiệp thuộc đối tượng: công ty cổ phần, công ty nhà nước trong thời
gian chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần theo quy
định của Luật Doanh nghiệp và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên phạm
vi lãnh thổ Việt Nam.
b, Có thời gian hoạt động tối thiểu là 1 năm, kể từ ngày doanh nghiệp chính thức đi
vào hoạt động.
c, Có báo cáo tài chính của năm liền kề trước năm phát hành được kiểm toán.
d, Kết quả hoạt động sản xuất - kinh doanh năm liền kề năm phát hành phải có lãi.
e, Có phương án phát hành trái phiếu được tổ chức, cá nhân có thẩm quyền thông
qua.
f.Có quyết định của Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản trị thông qua
phương án chào bán và sử dụng số tiền thu được từ đợt chào bán; xác định rõ đối
tượng, số lượng nhà đầu tư;
g.Việc chuyển nhượng cổ phần, trái phiếu chuyển đổi chào bán riêng lẻ bị hạn chế
tối thiểu một năm, kể từ ngày hoàn thành đợt chào bán, trừ trường hợp chào bán
riêng lẻ theo chương trình lựa chọn cho người lao động trong công ty, chuyển
nhượng chứng khoán đã chào bán của cá nhân cho nhà đầu tư chứng khoán chuyên
nghiệp, chuyển nhượng chứng khoán giữa các nhà đầu tư chứng khoán chuyên
nghiệp, theo quyết định của Tòa án hoặc thừa kế theo quy định của pháp luật;
h. Các đợt chào bán cổ phần hoặc trái phiếu chuyển đổi riêng lẻ phải cách nhau ít
nhất sáu tháng.

1.2. Thực trạng phát hành chứng khoán thông qua phương pháp trực tiếp
Phát hành chứng khoán trực tiếp cũng là một phương thức được nhiều doanh
nghiệp lựa chọn vì nó mang lại những thuận lợi nhất định. Thời gian qua, không ít
doanh nghiệp đã tiến hành phát hành cổ phiếu trực tiếp cho các đối tác chiến lược
như: Bảo Việt, Vinare, Đạm Phú Mỹ… Gần đây, Ngân hàng Thương mại Cổ phần
Xuất nhập khẩu ViệtNam (Eximbank) đã phát hành thành công 12.890.216 cổ
phiếu cho các đối tác chiến lược nước ngoài.
Ông Đoàn Nguyên Đức, Chủ tịch Hội đồng quản trị Hoàng Anh Gia Lai cho biết,
công ty này có nhiều dự án trung và dài hạn nhưng tìm nguồn vốn từ ngân hàng
không đủ nên buộc phải tự huy động qua kênh khác.
Phó tổng giám đốc một công ty chứng khoán vừa công bố phát hành trái phiếu cho
biết, hiện nay họ rất cần tiền để đầu tư vào cổ phiếu và cung cấp dịch vụ chứng
khoán. Tuy nhiên, do ngân hàng không hào hứng tài trợ cho những nghiệp vụ này
nên họ phải tự phát hành trái phiếu để huy động vốn.
Ông Nguyễn Quang Vinh, Tổng giám đốc Công ty chứng khoán Sài Gòn – Hà Nội
(SHS) cho biết, giá của nhiều cổ phiếu đang ở mức hấp dẫn cho đầu tư trung và dài
hạn. SHS phát hành trái phi Những nhân tố trên đã thúc đẩy các công ty chứng
khoán, bất động sản đi tìm vốn từ huy động trái phiếu dù chi phí từ nguồn này
không rẻ hơn so với vay ngân hàng.
Tháng 9/2010 Công ty cổ phần Xây dựng số 12 (Vinaconex No12) đã chào bán
trực tiếp 3 triệu cổ phiếu phổ thông (mệnh giá 10.000 đồng/cổ phiếu), trong đó 2,7
triệu cổ phiếu chào bán cho cổ đông hiện hữu; 153.000 cổ phiếu chào bán cho
Công ty cổ phần Xuất nhập khẩu và Xây dựng Việt Nam (Vinaconex); 147.000 cổ
phiếu chào bán cho cán bộ, công nhân viên. Tổng giá trị cổ phiếu chào bán tính
theo mệnh giá là 30 tỷ đồng.
Ngoài Vianconex No12, Công ty cổ phần Dược phẩm Viễn Đông (DVD) tự chào
bán 7,09 triệu cổ phiếu phổ thông (mệnh giá 10.000 đồng/cổ phiếu), trong đó,
6.550.500 cổ phiếu chào bán cho cổ đông hiện hữu; 539.500 cổ phiếu chào bán cho
cán bộ, công nhân viên. Tổng giá trị cổ phiếu chào bán tính theo mệnh giá là 70,9
tỷ đồng.

Các NHTM cũng không chịu thua kém, Ngân hàng thương mại cổ phần Đệ Nhất
đã trực tiếp phát hành 200 triệu cổ phiếu phổ thông. Việc tăng vốn của Ngân hàng
Đệ Nhất được chia thành 2 đợt. Đợt 1, có 100 triệu cổ phiếu được phân phối vào
thời gian cuối tháng 11/2010. Đợt 2, 100 triệu cổ phiếu nữa được chào bán nốt vào
cuối năm 2010. Tổng giá trị cổ phiếu chào bán tính theo mệnh giá là 2.000 tỷ đồng.
Vietinbank cũng đã tham gia hoạt động này bằng cách chào bán loại CP phổ thông
có mệnh giá 10.000 đồng/CP, số lượng đăng ký chào bán là 392.000.000 CP.Trong
đó chia cổ tức bằng CP phát hành: 76.900.000 CP dành cho cổ đông hiện hữu có
tên trong danh sách tại ngày chốt danh sách cổ đông để chi trả cổ tức bằng cổ
phiếu. Tỷ lệ chia cổ tức bằng CP là 6,83%. Với cổ đông hiện hữu, số CP được chào
bán: 315.100.000 CP, giá chào bán: 10.000 đồng/CP.
Vào tháng 10/2010 Công ty Quốc Cường Gia Lai đã cho tiếp tục phát hành trực
tiếp 800 tỷ đồng trái phiếu chuyển đổi sau đợt phát hành hơn 61,3 triệu cổ phiếu
thu về gần 1.000 tỷ đồng. Trước đó, Công ty Hoàng Anh Gia Lai cũng bán 1.100 tỷ
đồng trái phiếu chuyển đổi cho Tập đoàn Temasek.
Ngày 11/10/2010 Công ty cổ phần Đầu tư và Xây dựng công nghiệp (ICIC) đã
chào bán 1 triệu cổ phiếu ra công chúng. Trong đó, 760.000 cổ phiếu chào bán cho
cổ đông hiện hữu, 240.000 cổ phiếu phát hành cổ phiếu thưởng. Tổng giá trị cổ
phiếu chào bán tính theo mệnh giá là 10 tỷ đồng.
Giống với SPC JSC, công ty cổ phần Cavico Xây dựng thủy điện (CAVICO
HC.,JSC) phát hành 3.134.667 cổ phiếu, với tổng giá trị hơn 31,3 tỷ đồng. Trong
đó 463.839 cổ phiếu trả cổ tức năm 2009 cho cổ đông hiện hữu; 1.932.666 cổ
phiếu chào bán cho cổ đông hiện hữu; 193.266 cổ phiếu thưởng cho cán bộ công
nhân viên; 544.896 cổ phiếu chào bán cho đối tác chiến lược.
Ngày 12/11/2010 CTCP Thuận Thảo (GTT) đã phát hành trực tiếp thành công
14.501.000 cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu theo tỷ lệ 2:1, với giá 10.000 đồng/CP.
Cùng thời gian này, Tại CTCP Licogi 16.6 (LCS), ngày 3/11 cũng đã phát hành 3,9
triệu cổ phiếu, nhằm huy động vốn để đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất gạch nhẹ
block bê tông bọt tại Xuân Mai và một số dự án khác.
Tương tự, CTCP Đầu tư và thương mại Dầu khí Sông Đà (SDP) cũng thông qua

việc phát hành 7 triệu cổ phiếu, tăng vốn từ 80 tỷ đồng lên 150 tỷ đồng. Trong đó,
phát hành 4 triệu cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu theo tỷ lệ 2:1, với giá 12.000
đồng/CP; phát hành 3 triệu cổ phiếu cho đối tác chiến lược, với giá 15.000
đồng/CP. Mục đích sử dụng vốn của đợt phát hành là đầu tư dự án Khu dân cư
Vĩnh Thanh - Nhơn Trạch - Đồng Nai, dự án đầu tư mở rộng dây chuyền nghiền đỏ
tại Quốc Oai, Hà Nội.
Các công ty chứng khoán cũng không chịu kém khi thi nhau tung ra các đợt phát
hành tương tự. Công ty chứng khoán VNDirect đã tự phát hành 500 tỷ đồng trái
phiếu chuyển đổi; Công ty chứng khoán Thăng Long phát hành 500 tỷ đồng trái
phiếu kỳ hạn 2 năm trả lãi 3 tháng một lần với lãi suất kỳ đầu là 11,7% một năm;
Công ty chứng khoán Sài Gòn – Hà Nội bán 250 tỷ đồng trái phiếu có kỳ hạn 1
năm với lãi suất 14%.
Bên cạnh việc tự phát hành cổ phiếu, nhiều doanh nghiệp cũng lựa chọn phương
thức phát hành trực tiếp trái phiếu để huy động vốn. Tập đoàn Sông Đà là DN phát
hành TPDN bằng tiền VND đầu tiên trên thị trường vốn nợ VN trong năm 2010,
với tổng giá trị 1.500 tỉ đồng (tương đương 79 triệu USD); Tập đoàn Điện lực Việt
Nam phát hành 2.000 tỉ đồng trái phiếu; TCty cổ phần XNK và Xây dựng VN
(VCG) phát hành 2.000 tỉ đồng; CTCP Long Hậu (LHG) phát hành 200 tỉ đồng trái
phiếu (mệnh giá 1 tỉ đồng) để huy động vốn cho dự án khu dân cư Long Hậu;
CTCP Vincom (VIC) phát hành 1.000 tỉ đồng trái phiếu DN, với kỳ hạn trái phiếu
là 5 năm.
Năm 2010 đánh dấu sự phát triển của thị trường trái phiếu doanh nghiệp với nhiều
đợt phát hành thành công, tổng giá trị trong năm đạt 47.000 tỷ đồng, tăng 76% so
với năm 2009. Trong đó, trái phiếu doanh nghiệp của các doanh nghiệp sản xuất,
thương mại và bất động sản chiếm tỷ trọng 55%; các ngân hàng thương mại chiếm
khoảng 45%. Do rủi ro biến động lãi suất cao nên đa phần các đợt phát hành trái
phiếu có cấu trúc lãi suất thả nổi chiếm khoảng 75% và lãi suất cố định 25%.
1.3. Ưu và nhược điểm của phương pháp
Ưu điểm:
Đối với nhà đầu tư, khi tổ chức phát hành chứng khoán trực tiếp, nhà đầu tư

phải đăng ký mua và nộp tiền trực tiếp tại tổ chức phát hành chứng khoán nên sẽ
giảm được các chi phí giao dịch thông qua trung gian như phí bảo lãnh,
Đối với tổ chức phát hành, khi phát hành chứng khoán trực tiếp, không thông
qua các nhà đại lý hoặc bảo lãnh phát hành( thông thường là các công ty chứng
khoán và các Ngân hàng thương mại) thì chi phí phát hành sẽ tương đối thâp do
không phải trả các khoản phí như phí tư vấn bảo lãnh, phí bảo lãnh, là các khoản
phí không nhỏ.
Nhược điểm:
Đối với nhà đầu tư, khi mua trực tiếp chứng khoán từ tổ chức phát hành có
nhiều bất cập. Nhà đầu tư phải tự nghiên cứu thị trường, tự đưa ra các nhận định
của mình về chứng khoán cần mua,…dẫn đến rủi ro khi mua chứng khoán của họ
cao hơn. Bên cạnh đó, khuyết điểm lớn nhất là về mặt địa lý khi nhà đầu tư nếu
muốn mua chứng khoán phải đến tận tổ chức phát hành, tốn thời gian, công sức và
tiền bạc.
Đối với tổ chức phát hành,thời gian tập trung vốn thường chậm,kéo dài công ty
khó bán hết được chứng khoán để huy động vốn theo dự kiến,dẫn tới phát sinh các
chi phí khác không mong muốn. Ngoài ra,khi thị trường phát triển,nhiều tổ chức
phát hành mà tổ chức phát hành không nắm bắt được nhu cầu của nhà đầu tư, phát
hành ra những chứng khoán không hấp dẫn,thu hút được nhà đầu tư thì việc huy
động vốn của doanh nghiệp trở nên rất khó khắn. Do vậy, việc phát hành chứng
khoán trực tiếp mang lại rủi ro rất lớn cho tổ chức phát hành.
2. Phát hành chứng khoán thông qua bảo lãnh phát hành
2.1. Điều kiện pháp lý
Bảo lãnh phát hành là việc tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện các
thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, tổ chức việc phân phối chứng khoán và
giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu sau khi phát hành. Trên thế giới,
các ngân hàng đầu tư thường là những tổ chức đứng ra làm bảo lãnh phát hành.
Tổ chức bảo lãnh là người chịu trách nhiệm mua hoặc chào bán chứng khoán của
một tổ chức phát hành nhằm thực hiện việc phân phối chứng khoán để hưởng hoa
hồng.Bảo lãnh được hiểu là hoạt động kinh doanh của các tổ chức đầu tư, đặc biệt

là ngân hàng đầu tư, tập hợp của nhiều nhà đầu tư (gọi là nhóm bao tiêu/bảo lãnh)
chịu chung rủi ro và đảm bảo phân phối thành công số chứng khoán đã được bảo
lãnh phát hành. Như vậy bảo lãnh chính là công việc đầu tiên của các tổ chức đầu
tư trước khi tiến hành phân phối thứ cấp. Nhóm bảo lãnh hoạt động theo thỏa
thuận giữa những người bảo lãnh, gọi là hợp đồng bảo lãnh. Công ty bắt đầu làm
việc với nhà phát hành để hoạch định chi tiết việc phát hành và chuẩn bị tài
liệu đăng ký để nộp cho Nhà nước. Trong suốt thời gian cung ứng, bên
nhận bảo lãnh phải chịu trách nhiệm ổn định giá thị trường cổ phần bằng cách phát
giá trong thị trường mở rộng. Khi cầu giảm, nhóm sẽ chỉ định ra một nhóm
bảo lãnh mua chứng khoán đó trên thị trường nhằm cân bằng và điều chỉnh giá cả.
Thông thường, để phát hành chứng khoán ra công chúng, tổ chức phát hành cần
phải được sự bảo lãnh phát hành. Nếu số lượng phát hành không lớn thì chỉ cần có
một tổ chức bảo lãnh phát hành. Nếu đó là một công ty lớn và số lượng chứng
khoán phát hành vượt quá khả năng của một tổ chức bảo lãnh thì cần phải có một
tổ hợp bảo lãnh phát hành, bao gồm một hoặc một số tổ chức bảo lãnh chính và
một số tổ chức bảo lãnh phát hành thành viên.
Các tổ chức bảo lãnh phát hành được hưởng một khoản phí bảo lãnh nhất định trên
số tiền thu được từ đợt phát hành. Phí bảo lãnh cao hay thấp là tùy thuộc vào tính
chất của đợt phát hành (lớn hay nhỏ, thuận lợi hay khó khăn). Đối với trái phiếu,
phí bảo lãnh phụ thuộc vào lãi suất trái phiếu (lãi suất trái phiếu thấp thì phí bảo
lãnh phát hành cao và ngược lại).
Tổ chức bảo lãnh phát hành là CTCK được phép hoạt động bảo lãnh phát hành
chứng khoán và ngân hàng thương mại được UBCK chấp thuận bảo lãnh phát hành
trái phiếu theo điều kiện do Bộ Tài chính quy định.
Để phát hành chứng khoán ra công chúng, tổ chức phát hành cần phải thỏa mãn
điều kiện phát hành chứng khoán ra công chúng và được sự bảo lãnh phát hành
(Trường hợp: cổ phiếu phát hành có tổng giá trị theo mệnh giá vượt 10 tỷ đồng
thì phải có tổ chức bảo lãnh phát hành) . Nếu số lượng phát hành không lớn thì
chỉ cần có một tổ chức bảo lãnh phát hành Nếu đó là một công ty lớn và số lượng
chứng khoán phát hành vượt quá khả năng của một tổ chức bảo lãnh thì cần phải

có một tổ hợp bảo lãnh phát hành, bao gồm một hoặc một số tổ chức bảo lãnh
chính và một số tổ chức bảo lãnh phát hành thành viên.
Điều kiện để được bảo lãnh phát hành:
CTCK chỉ được phép thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán (CK)
khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh CK; vốn pháp định để thực hiện nghiệp vụ tự
doanh CK là 100 tỷ đồng, nghiệp vụ bảo lãnh phát hành là 165 tỷ đồng.
- Không vi phạm pháp luật CK trong 6 tháng liên tục liền trước thời điểm bảo lãnh.
- Tổng giá trị bảo lãnh phát hành không được lớn hơn 50% vốn chủ sở hữu của tổ
chức bảo lãnh phát hành vào thời điểm cuối quý gần nhất tính đến ngày ký hợp
đồng bảo lãnh phát hành, trừ trường hợp bảo lãnh phát hành trái phiếu chính phủ,
trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh.
- Có tỷ lệ vốn khả dụng trên nợ điều chỉnh trên 6% trong 3 tháng liền trước thời
điểm nhận bảo lãnh phát hành.
Tổ chức bảo lãnh không được bảo lãnh phát hành theo hình thức cam kết
chắc chắn trong các trường hợp sau đây:
-Tổ chức phát hành độc lập hoặc cùng các công ty con của tổ chức bảo lãnh
phát hành có sở hữu từ 10% trở lên vốn điều lệ của tổ chức phát hành.
-Tối thiểu 30% vốn điều lệ của tổ chức bảo lãnh phát hành và của tổ chức
phát hành là do cùng một tổ chức nắm giữ.
-Trường hợp đợt phát hành có tổng giá trị cam kết bảo lãnh lớn hơn hai lần
vốn chủ sở hữu của tổ chức phát hành, phải lập tổ hợp bảo lãnh phát hành, trong đó
có tổ chức bảo lãnh phát hành chính và các tổ chức bảo lãnh phát hành phụ.
Khi một công ty CK bảo lãnh phát hành CK, công ty đó phải mở một tài khoản
riêng biệt tại một ngân hàng đang hoạt động hợp pháp tại Việt Nam để nhận tiền
đặt mua CK của khách hàng.
2.2. Các phương thức bảo lãnh phát hành
Việc bảo lãnh phát hành thường được thực hiện theo một trong các phương thức
sau:
- Bảo lãnh với cam kết chắc chắn: là phương thức bảo lãnh mà theo đó tổ chức bảo
lãnh cam kết sẽ mua toàn bộ số chứng khoán phát hành cho dù có phân phối được

hết chứng khoán hay không. Trong hình thức bảo lãnh tổ hợp theo "cam kết chắc
chắn", một nhóm các tổ chức bảo lãnh hình thành một tổ hợp để mua chứng khoán
của tổ chức phát hành với giá chiết khấu so với giá chào bán ra công chúng (POP -
Public Offering Price) và bán lại các chứng khoán đó ra công chúng theo giá POP.
Chênh lệch giữa giá mua chứng khoán của các tổ chức bảo lãnh và giá chào bán ra
công chúng được gọi là hoa hồng chiết khấu.
- Bảo lãnh theo phương thức dự phòng: đây là phương thức thường được áp dụng
khi một công ty đại chúng phát hành bổ sung thêm cổ phiếu thường ở các nước
phát triển. Trong trường hợp đó, công ty cần phải bảo vệ quyền lợi cho các cổ đông
hiện hữu, và như vậy, công ty phải chào bán cổ phiếu bổ sung cho các cổ đông cũ
trước khi chào bán ra công chúng bên ngoài. Dĩ nhiên, sẽ có một số cổ đông không
muốn mua thêm cổ phiếu của công ty. Do vậy, công ty cần có một tổ chức bảo lãnh
dự phòng sẵn sàng mua những quyền mua không được thực hiện và chuyển thành
những cổ phiếu để phân phối ra ngoài công chúng. Có thể nói, bảo lãnh theo
phương thức dự phòng là việc tổ chức bảo lãnh cam kết sẽ mua nốt số chứng khoán
còn lại chưa được phân phối hết của tổ chức phát hành và bán lại ra công chúng.
Tại các nước đang phát triển, khi các tổ chức bảo lãnh còn non trẻ và chưa có tiềm
lực lớn thì phương thức bảo lãnh phát hành dự phòng lại là phương thức bảo lãnh
thông dụng nhất.
- Bảo lãnh với cố gắng cao nhất: là phương thức bảo lãnh mà theo đó tổ chức bảo
lãnh tổ chức bảo lãnh thoả thuận làm đại lý cho tổ chức phát hành. Tổ chức bảo
lãnh không cam kết bán toàn bộ số chứng khoán mà cam kết sẽ cố gắng hết sức để
bán chứng khoán ra thị trường, nhưng nếu không phân phối hết sẽ trả lại cho tổ
chức phát hành phần còn lại.
- Bảo lãnh theo phương thức bán tất cả hoặc không: trong phương thức này, tổ
chức phát hành yêu cầu tổ chức bảo lãnh bán một số lượng chứng khoán nhất định,
nếu không phân phối được hết sẽ huỷ toàn bộ đợt phát hành.
- Bảo lãnh theo phương thức tối thiểu - tối đa: là phương thức trung gian giữa
phương thức bảo lãnh với cố gắng cao nhất và phương thức bảo lãnh bán tất cả
hoặc không. Theo phương thức này, tổ chức phát hành yêu cầu tổ chức bảo lãnh

bán tối thiểu một tỷ lệ chứng khoán nhất định (mức sàn). Vượt trên mức ấy, tổ
chức bảo lãnh được tự do chào bán chứng khoán đến mức tối đa quy định (mức
trần). Nếu lượng chứng khoán bán được đạt tỷ lệ thấp hơn mức yêu cầu thì toàn bộ
đợt phát hành sẽ bị huỷ bỏ.
2.3. Thực trạng
Năm 2005, CTCK Ngân hàng Công Thương (VietinbankSC) đã bảo lãnh phát hành
cho cổ phiếu LAF của Công ty CP Chế biến hàng xuất khẩu Long An với giá khởi
điểm 19.000 đ/CP. Thế nhưng, thị trường lúc đó đang xuống, kéo thị giá LAF trên
sàn xuống dưới mức khởi điểm (16.000 đ/CP).Đơn vị bảo lãnh là VietinbankSC
phải ôm toàn bộ cổ phiếu đó dù biết rằng lỗ, nhưng phải cố để đảm bảo phát hành
thành công cổ phiếu. Ông Hà Khánh Thủy, Giám đốc Chi nhánh VietinbankSC lúc
đó cho rằng, với mức giá khởi điểm trên là hợp lý, nhưng vì thị trường biến động,
giá tạm xuống. Thực tế, không lâu sau, LAF tăng giá hơn 19.000 đ/CP và
VietinbankSC đã lần lượt bán hết lượng cổ phiếu đã mua và còn có lợi nhuận.TS.
Lê Vũ Nam, giảng viên môn chứng khoán Trường Đại học Quốc gia, cho rằng,
việc bảo lãnh phát hành chỉ nhằm hỗ trợ cho tổ chức phát hành bán hết cổ phiếu,
chứ không phải bảo đảm giá trị cổ phần được đấu giá. Bởi vì, công ty tư vấn cũng
có phân tích các trường hợp rủi ro cho nhà đầu tư trước khi mua.
Tuy nhiên,hoạt động bảo lãnh phát hành của các CtyCK 6 tháng đầu năm 2007 vẫn
tập trung chủ yếu là bảo lãnh phát hành các loại trái phiếu như trái phiếu chính phủ
cho Kho bạc Nhà nước, trái phiếu ngân hành, trái phiếu đô thị (xem bảng dưới
đây).
Công ty Khối
lượng
Giá bảo
lãnh
Vốn chủ sở
hữu của
Hình
thức bảo

Số hợp
đồng bảo
Giá trị bảo
lãnh (triệu
bảo lãnh (đồng) CtyCK (tỷ
đồng)
lãnh lãnh đồng)
BVSC 5.314 33.500 150 Chắc
chắn
1 178
ACBS 880.000 67.000 250 Chắc
chắn
1 58.960
Cty CK
Thăng Long
108.758

451.000

120 Chắc
chắn
2 49.050

Như vậy, các CtyCK đã thực hiện 4 hợp đồng bảo lãnh phát hành với hình thức bảo
lãnh cam kết chắc chắn. Các hợp đồng bảo lãnh nói trên đã thực hiện theo đúng
quy định hiện hành do giá trị chứng khoán đã được bảo lãnh không vượt quá 50%
vốn điều lệ của CtyCK. Tuy nhiên, số liệu trên cũng cho thấy, trong thời gian gần
đây, có rất ít CtyCK thực hiện việc bảo lãnh phát hành và các công ty chưa chú
trọng đầu tư tìm kiếm khách hàng, đào tạo nhân sự, xây dựng quy trình chuẩ n để
triển khai nghiệp vụ này.

Nhưng hoạt động bảo lãnh chứng khoán đến thời điểm đó vẫn còn nhiều bất
cập.Câu chuyện bảo lãnh phát hành chứng khoán của ngân hàng ANZ cho công ty
CP Thực phẩm quốc tế Interfood (IFS) hẳn vẫn còn nhiều người còn nhớ. Việc
Ngân hàng ANZ bị CTCP Thực phẩm Quốc tế (HOSE: IFS) kiện lên Tòa phúc
thẩm liên quan đến hợp đồng bảo lãnh phát hành trái phiếu ký kết từ cuối năm
2007 vẫn đang gây sự chú ý của dư luận. HOSE đã thông báo về việc đưa cổ phiếu
IFS vào diện tạm ngừng giao dịch kể từ ngày 17/8/2010 do Công ty hoạt động kinh
doanh thua lỗ trong 2 năm liên tiếp.Theo hợp đồng ký kết ngày18/12/2007, ANZ
Chi nhánh Hà Nội là người quản lý chính và người bảo lãnh duy nhất liên quan đến
hoạt động huy động vốn của IFS. Việc huy động vốn bao gồm chào bán trái phiếu
có lãi suất cố định bằng VND với giá trị huy động là 650 tỷ đồng trong năm 2008.
Thời gian phát hành cụ thể sẽ tùy thuộc vào điều kiện thị trường và khuyến nghị
sau cùng từ người quản lý chính.
Trong công văn gửi Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCK) và Bộ Tài chính, IFS
cho biết, tháng 1/2008, ANZ đã chỉ định Công ty Luật Clifford Chance và Vilaf
làm cố vấn pháp lý cho việc bảo lãnh phát hành trái phiếu của IFS. Sau đó, ANZ đã
chuẩn bị cho việc phát hành trái phiếu như dự thảo bản chào bán trái phiếu và tiến
hành quá trình soát xét toàn diện IFS. Tuy nhiên, trong năm 2008, viện vào lý do
điều kiện thị trường không thuận lợi, ANZ đã không tiếp tục thực hiện hợp đồng,
cho dù trước đó IFS đã trả 30% phí bảo lãnh phát hành trái phiếu, tương đương
hơn 2,437 tỷ đồng cho ANZ và đã nhiều lần yêu cầu ANZ thực hiện nghĩa vụ bảo
lãnh phát hành trái phiếu theo quy định của hợp đồng. Theo IFS, việc ANZ không
tiếp tục thực hiện hợp đồng dẫn đến các hoạt động mở rộng sản xuất - kinh doanh
của Công ty thất bại và IFS chịu tổn thất lớn. theo IFS, ANZ không tiếp tục thực
hiện hợp đồng không phải do điều kiện thị trường mà là do ANZ không đủ năng
lực pháp lý và điều kiện để cung cấp dịch vụ bảo lãnh phát hành trái phiếu theo
quy định của pháp luật. Việc cung cấp dịch vụ bảo lãnh phát hành trái phiếu DN là
một loại hình kinh doanh chứng khoán và ngân hàng thương mại cung cấp dịch vụ
cần phải có giấy phép chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và UBCK.
Trong khi đó, vào thời điểm ký kết hợp đồng (18/12/2007), ANZ chưa được cấp

giấy phép hoạt động này. Mãi đến ngày 12/6/2008, ANZ mới được NHNN cấp giấy
phép tiến hành các dịch vụ nêu trên (Quyết định số 1345/QĐ-NHNN) và đến khi
xảy ra tranh chấp giữa ANZ và IFS, ANZ vẫn chưa được UBCK cấp phép chấp
nhận là ngân hàng thương mại đủ điều kiện thực hiện bảo lãnh phát hành trái
phiếu.
Như vậy,qua vụ việc của IFS và ANZ, các DN cần rút ra bài học gì?Các DN tham
gia hoạt động trong TTCK cần tự bảo vệ quyền lợi của mình bằng việc nghiên cứu
kỹ các quy định pháp luật xem mình đã đủ điều kiện hay chưa, đồng thời, phải xem
bên cung cấp dịch vụ có đủ điều kiện hay không. Các bên tham gia phải soát xét kỹ
trước khi có giao kết vì đây là lĩnh vực mới, rất phức tạp và chịu sự kiểm tra ngặt
nghèo của cơ quan quản lý. Bởi trên TTCK, hoạt động hai công ty có liên quan đến
rất nhiều NĐT trên thị trường.
Năm 2009 là năm nền kinh tế nước ta gặp nhiều khó khăn do tác động của khủng
hoảng tài chính toàn cầu. Tuy nhiên, TTCK Việt Nam đã có dấu hiệu hồi phục, tạo
đà cho các bước tăng trưởng của những năm tiếp theo. Trong năm 2009 hoạt động
của các công ty chứng khoán (CTCK) được thể hiện trên các mặt sau:
Cùng với sự gia tăng khối lượng giao dịch, các CTCK đã thực hiện trên 5.000 hợp
đồng tư vấn và bảo lãnh phát hành. Tính đến cuối năm 2009 đã có gần 80 CTCK
hoạt động có lãi trong năm 2009. Quy mô vốn hoạt động của các CTCK ngày càng
được nâng cao. Tính đến cuối năm 2009, tổng số vốn điều lệ của các CTCK là
24.855 tỷ đồng, tăng 9,4% so với năm 2008
Câu chuyện bảo lãnh phát hành cổ phiếu SCR của CTCP Địa ốc Sài Gòn Thương
Tín (Sacomreal) đã diễn ra được gần 2 năm. Nhưng, dư âm của đợt bảo lãnh "cực
kỳ hiệu quả" này khiến không ít NĐT e ngại, liệu các DN khác có sử dụng tình
huống này để lách luật trong thời gian tới? Trong Bản cáo bạch niêm yết cổ phiếu
SCR có một nội dung được nhiều NĐT chú ý là việc CTCP Chứng khoán Ngân
hàng Sài Gòn Thương Tín (SBS) đã mua 38,088 triệu cổ phần với giá 11.000
đồng/cổ phiếu. Số cổ phần này là hàng "không bán được" trong một đợt chào bán
riêng lẻ cho cổ đông chiến lược với mức giá không thấp hơn 24.559 đồng/cổ phần.
Theo lý giải của Sacomreal thì việc phát hành không thành công là do diễn biến

không thuận lợi của TTCK nên SBS đã phải thực hiện việc mua như trên theo nội
dung Hợp đồng dịch vụ tư vấn và Bảo lãnh phát hành cổ phiếu số
142/2009/TV.HĐ. Tổ hợp bảo lãnh ngày 18/09/2009.

Một lãnh đạo của SBS cho biết, thời điểm ký hợp đồng bảo lãnh cho đợt phát hành
trên của nhóm 2 CTCK (CTCK Sacombank, CTCK Bản Việt), chỉ số VN-Index
đang trong đà đi lên, ở mức xấp xỉ 570 điểm. Khi đó, niềm tin thị trường khá tốt,
tính khả thi của đợt phát hành cao. Khó ai ngờ, vào cuối đợt phát hành, chỉ số VN-
Index về mức xấp xỉ 500 điểm, niềm tin NĐT bị dao động. Đây có thể là một lý
giải cho việc doanh nghiệp đã chủ quan về khả năng thành công của đợt chào bán
cho đối tác chiến lược khiến Sacomreal chấp nhận ký hợp đồng bảo lãnh phát hành
với điều kiện: nếu không phát hành hết thì SBS phải mua lại với mức giá 11.000
đồng/cổ phiếu.

Tuy nhiên, giá 11.000 đồng/cổ phiếu mà SBS "phải" mua lại trong tình huống này
khiến không ít NĐT phải giật mình. Mức giá 11.000 đồng/cổ phiếu này vừa đủ cao
để lớn hơn giá trị sổ sách của SCR sau khi đã thực hiện chia cổ phiếu thưởng cho
cổ đông hiện hữu theo tỷ lệ 10:9 (giá xấp xỉ 10.500 đồng/cổ phiếu), nhưng thấp
hơn rất nhiều so với mức giá mà Công ty định bán cho đối tác chiến lược là 24.559
đồng. Đây là mức chiết khấu rất cao. Và chỉ khoảng 3-5 tháng sau đợt bảo lãnh
phát hành, SBS đã bán toàn bộ số cổ phiếu trên, với mức giá khoảng 3x.

Thường các tổ chức phát hành khi muốn phát hành chứng khoán ra ngoài công
chúng sẽ nhờ một đơn vị tư vấn lo thủ tục phát hành, định giá phát hành, nhưng
mấy năm nay, ít có CTCK nào nhận dịch vụ này với lý do thị trường tăng giảm thất
thường. Từ lúc định giá cổ phiếu đến khi phát hành, thị trường giảm thì cổ phiếu
IPO sẽ giảm theo, nên đơn vị bảo lãnh phát hành sẽ lỗ.
Năm 2010,mặc dù nền kinh tế Việt Nam vẫn chịu ảnh hưởng nhất định từ cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu nhưng đã lấy lại được đà hồi phục và đạt được tốc
độ tăng trưởng mà Đảng và Chính phủ đã đề ra. Cùng với đó, thị trường chứng

khoán Việt Nam đã tìm lại được nhịp độ phát triển ổn định hơn, thực hiện chức
năng là kênh huy động vốn hiệu quả cho nền kinh tế. Hoạt động của các công ty
chứng khoán (CtyCK) cũng có những bước phát triển nhất định trên các mặt như
mạng lưới hoạt động, quy mô vốn, cơ sở vật chất, nhân sự, quy mô cung cấp dịch
vụ và chất lượng hoạt động. Sau đây là những điểm nổi bật trong hoạt động của
các CtyCK và trong công tác quản lý giám sát của UBCKNN năm 2010.
2.4. Ưu nhược điểm
Ưu điểm:
Đối với các nhà đầu tư, khi một cổ phiếu mang ra đấu giá được bảo lãnh
phát hành, họ sẽ yên tâm hơn vì đã có người thẩm định giá trị tố thiểu của cổ phiếu
đó. Những cổ phiếu còn thừa sẽ được đơn vị bảo lãnh phát hành mua lại ở mức giá
khởi điểm. như vậy, thị giá của cổ phiếu này ở một góc độ nào đó được xem như
đã bảo chứng.
Đối với công ty phát hành, việc bảo lãnh chỉ nhằm hỗ trợ công ty phát hành
cổ phiếu một cách tốt nhất, tránh trường hợp không bán hết cổ phiếu, chứ không
bảo đảm giá trị cổ phần được đấu giá vì công ty bảo lãnh đã phân tích các trường
hợp rủi ro cho nhà đầu tư trước khi mua. Tuy nhiên, việc hỗ trợ này sẽ đảm bảo
cho việc quảng bá, phát hành và phân phối chứng khoán của công ty thành công, từ
đó đảm bảo khả năng huy động vốn của công ty để mở rộng sản xuất kinh doanh.
Đối với công ty chứng khoán:
• Các công ty chứng khoán bảo lãnh phát hành sẽ được hưởng một khoản phí
bảo lãnh (hay hoa hồng bảo lãnh) nhất định trên số tiền thu được từ đợt phát
hành. Phí bảo lãnh phát hành là mức chênh lệch giữa giá abns chứng khoán
cho nhà đầu tư và số tiền tổ chức phát hành nhận được.
Ví dụ: nếu công chúng mua chứng khoán phải trả 20.000 đ một cổ phiếu, trong khi
công ty phát hành nhận 18.000 đ một cổ phiếu thì tiền phí bảo lãnh phát hành là
2.000 đ một cổ phiếu.
Phí bảo lãnh phát hành cao hay thấp là tùy thuộc vào tính chất của đợt phát
hành (lớn hay nhỏ, thuận lợi hay khó khăn). Đối với trái phiếu, phí bảo lãnh
phát hành phụ thuộc vào lãi suất trái phiếu (lãi suất trái phiếu thấp thì chi phí

bảo lãnh cao và ngược lại). nếu đợt phát hành đó là đợt phát hành lần đầu
(IPO) thì mức phí phải cao hơn lần phân phối sơ cấp.
• Thông qua nghiệp vụ bảo lãnh phát hành thành công chứng khoán, các
CTCK sẽ chứng tỏ được tính chuyên nghiệp (định giá chính xác, đầu tư tài
chính đúng chỗ) cũng như quảng cáo thương hiệu CTCK mà không tốn phí.
Ví dụ:
Năm 2005, CTCK Ngân hàng Công thương (VietinbankSC) đã bảo lãnh phát hành
cho cổ phiếu LAF của Công ty CP chế biến hàng xuất khẩu
Long An với giá khởi điểm 19000 đ/CP. Thế nhưng, thị trường lúc đó đang xuống,
kéo thị giá LAF trên sàn xuống dưới mức khởi điểm (16000 đ/CP). Đơn vị bảo
lãnh là VietinbankSC phải ôm toàn bộ số cổ phiếu đó dù biết ràng lỗ, nhưng phải
cố để đảm bảo phát hành thành công cổ phiếu. Đợt phát hành lần này đã chứng tỏ
sự chuyên nghiệp của VietinbankSC trong việc bảo lãnh phát hành cổ phiếu. Đồng
thời đảm bảo mục đích huy động vốn của Công ty CP chế biến hàng xuất khẩu
Long An.
Có thể nói, mức giá khởi điểm mà CTCK đưa ra là hợp lý, nhưng vì thị trường biến
động, giá tạm xuống. Thực tế không lâu sau, LAF giá tăng hơn 19000 đ/CP và
VietinbankSC đã lần lượt bán hết lượng cổ phiếu đã mua và còn có lợi nhuận.
Nhược điểm:
• Sự thất bại của các đợt phát hành gây khó khăn cho tình hình tài chính của
các công ty phát hành:
• Có thể gây nên sự mâu thuẫn lợi ích giữa các nhà đầu tư với công ty phát
hành và CTCK.Doanh nghiệp phát hành phải tốn một khoản phi cho nhà
bảo lãnh
Các tổ chức phát hành thường muốn định giá cổ phiếu cao để hưởng chênh lệch
giá, nhưng công chúng đầu tư lúc nào cũng dè dặt, muốn giá cổ phiếu thấp hơn
nhiều với giá thị trường để có khoảng cách an toàn. Trong khi đó, đơn vị tư vấn lại
không mạnh dạn định giá cổ phiếu cho hợp lý mà có xu hướng nghe theo tổ chức
phát hành (khách hàng của mình) bỏ mặc cho nhà đầu tư tìm hiểu và quyết định.
Do vậy, đợt phát hành đa số đều không thành công vì giá không hấp dẫn nhà đầu

tư.
Một ví dụ thực tế cho thực trạng này chính là hợp đồng bảo lãnh giữa Ngân hàng
The Australia and New Zealand Banking Group Limited – Chi nhánh Hà Nội
(ANZ) với CTCP Thực phẩm quốc tế Interfood (IFS). Theo hợp đồng ký kết ngày
18/12/2007, ANZ chi nhánh Hà Nội là người quản lý chính và người bảo lãnh duy
nhất liên quan đến hoạt dộng huy động vốn của IFS. Việc huy động vốn bao gồm
chào bán trái phiếu có lãi suất cố định bằng VND với giá trị huy động là 650 tỷ
dồng trong năm 2008. Thời gian phát hành cụ thể sẽ tùy thuộc vào điều kiện thị
trường và khuyến nghị sau cùng từ người quản lý chính. Đồng thời, ANZ Chi
nhánh TP. HCM và IFS còn ký thỏa thuận một khoản vay bắc cầu có tổng hạn mức
18 triệu USD. Công ty cam kết sẽ phát hành trái phiếu bằng VND tương đương tối
thiểu 18 triệu USD, với mức lãi suất được xác định theo điều kiện thị trường do
ANZ tư vấn và xác định nhưng không muộn hơn ngày 30/6/2008 để trả khoản vay
bắc cầu khi đáo hạn. Tuy nhiên, trong năm 2008, do tình hình biến động của thị
trường tài chính và tín dụng, ANZ đã không thực hiện cam kết phát hành trái phiếu
và ngừng cung cấp khoản vay bắc cầu cho IFS làm công ty này buộc phải ngưng
dự án đầu tư tại miền Bắc và chịu lỗ cho các khoản vi phạm hợp đồng. Vụ việc này
đã gây xôn xao dư luận khi IFS khởi kiện ANZ không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ
trong hợp đồng và đòi bồi thường thiệt hại. IFS cho rằng việc phát hành thất bại
không phải do điều kiện thị trường mà do ANZ không đủ năng lực pháp lý và điều
kiện để cung cấp dịch vụ bảo lãnh phát hành trái phiếu theo quy định của pháp luật
. Tòa án sơ thẩm và phúc thẩm đã xử ANZ thắng kiện.
Việt Nam chưa có một cơ chế giám sát chặt chẽ hoạt động bảo lãnh phát hành
chứng khoán để đảm bảo lợi ích cho doanh nghiệp và cho các nhà đầu tư nhỏ lẻ:
3. Phương pháp chào bán bằng đấu thầu
Đấu thầu là sự cạnh tranh giữa các nhà đầu tư và tổ chức đấu thầu chủ yếu là về giá
chứng khoán.
Đối tượng áp dụng:phương pháp này thường được áp dụng đối với các loại trái
phiếu ,cổ phiếu…
3.1. Phân loại hình thức đấu thầu:

Có hai hình thức đấu thầu là đấu thầu không cạnh tranh và đấu thầu
cạch tranh
 Đấu thầu không cạnh tranh là đấu thầu khối lượng theo mức giá hoặc lãi
suất chỉ đạo.
 Đấu thầu cạnh tranh là đấu thầu về giá hoặc lãi suất.Giá trúng thầu là giá
dự thầu thấp nhất đối với cổ phiếu hoặc lãi suất dự thầu cao nhất đối với
trái phiếu mà tại đó tổ chức phát hành đạt được số vốn cần huy động.
+ Đấu thầu kiểu Hà Lan : cơ chế giá thống nhất.
+ Đấu thầu kiểu Mỹ : cơ chế đa giá.
3.2. Thực trạng của việc chào bán bằng đấu thầu tại Việt Nam.
3.2.1. Đấu thầu trái phiếu chính phủ .
Đấu thầu TPCP là việc bán trái phiếu cho các tổ chức tham gia đấu thầu đáp
ứng đủ các yêu cầu của Bộ Tài chính và có các mức lãi suất đặt thầu thấp.
Trái phiếu chính phủ VN được phát hành bằng hình thức đấu thầu tại Trung
tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội
a. Hình thức và đặc điểm như sau:
- Có kỳ hạn từ 1 năm trở lên. Có mệnh giá tối thiểu là 100.000 đồng, các
mệnh giá cao hơn được quy định bằng bội số của 100.000 do Bộ Tài chính quy
định cụ thể cho từng đợt phát hành và được TTGDCK công bố trong thông báo
phát hành;
- TPCP được phát hành dưới hình thức chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ.
Chứng chỉ trái phiếu do Bộ Tài chính quy định mẫu. Kho bạc Nhà nước tổ
chức in ấn và quản lý thống nhất trong phạm vi cả nước.
Tất cả các loại trái phiếu trúng thầu khi phát hành sẽ được ghi sổ vào tài
khoản lưu ký chứng khoán và người sở hữu được cấp giấy chứng nhận sở hữu trái
phiếu. Trường hợp các đối tượng trúng thầu có nhu cầu rút chứng chỉ TPCP thì
được thực hiện theo quy trình và quy định của TTGDCK.
b.Hình thức đấu thầu
Việc đấu thầu TPCP qua TTGDCK được thực hiện theo hình thức đấu thầu cạnh
tranh lãi suất và không cạnh tranh lãi suất. Mỗi thành viên đấu thầu có thể đồng

thời tham gia đấu thầu cạnh tranh và không cạnh tranh.
Đối tượng tham gia đấu thầu TPCP là các đối tượng được quy định tại điểm
3, Mục II Thông tư số 55/2000/TT-BTC ngày 09/06/2000 của Bộ Tài chính hướng
dẫn việc đấu thầu trái phiếu Chính phủ qua thị trường giao dịch chứng khoán tập
trung. Chỉ những đơn vị được công nhận là thành viên đấu thầu mới được tham gia
đấu thầu.
c.Điều kiện tham gia đấu thầu qua thị trường giao dịch chứng khoán tập trung:
- Các công ty chứng khoán;
- Các tổ chức ngân hàng hoạt động tại Việt Nam bao gồm ngân hàng thương mại,
ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác,
ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các loại hình ngân hàng
khác hoạt động theo Luật Các tổ chức tín dụng.Các công ty tài chính, công ty bảo
hiểm, quỹ bảo hiểm, quỹ đầu tư hoạt động tại Việt Nam.
- Các Tổng công ty Nhà nước thành lập theo Quyết định số 90/TTg và Quyết định
số 91/TTg ngày 07 tháng 3 năm 1994 của Thủ tướng Chính phủ;
- Các đối tượng khác tham gia đấu thầu trái phiếu kho bạc phải đáp ứng các điều
kiện do Bộ Tài chính và ủy ban Chứng khoán Nhà nước quy định.
Các đối tượng trên muốn tham gia đấu thầu trái phiếu Chính phủ qua thị trường
giao dịch chứng khoán tập trung phải bảo đảm các điều kiện sau:
- Có tư cách pháp nhân, được thành lập theo luật pháp hiện hành của Việt Nam;
- Có mức vốn pháp định tối thiểu là 22 tỷ đồng Việt Nam;
- Hoạt động kinh doanh có hiệu quả, tình hình tài chính lành mạnh;
- Có tài khoản tiền đồng Việt Nam mở tại ngân hàng theo quy định của Trung tâm
GDCK, Sở GDCK;
- Có đơn xin tham gia đấu thầu trái phiếu Chính phủ gửi đến Trung tâm GDCK, Sở
GDCK.
Hàng năm, Trung tâm GDCK, Sở GDCK xem xét điều kiện của các đối tượng
để cấp hoặc thu hồi giấy chứng nhận thành viên tham gia đấu thầu trái phiếu Chính
phủ.
Thực tế việc phát hành chứng khoán của chính phủ từ năm 2008 tới nay:

Từ năm 2008 tới nay chính phủ đã liên tiếp thực hiện các đợt đấu thầu tại sở
GDCK.Các đợt đấu thầu về cơ bản vẫn đạt kết quả nhưng cũng không ít lần thất
bại khiến chính phủ phải tổ chức lại nhằm đảm bảo cho việc điều hành kinh tế xã
hội.
Năm 2008 là 1 năm có nhiều khó khăn cho thị trường TPCP VN vì các điều kiện
kinh tế vĩ mô không mấy thuận lợi.Trái phiếu chính phủ được phát hành nhiều lần
thất bại.
Năm 2009: Với tỷ lệ huy động được chỉ đạt hơn 4,18% so với gọi thầu, mức độ
huy động vốn qua đấu thầu trái phiếu Chính phủ trong năm 2009 tại Sở Giao dịch
Chứng khoán Hà Nội là khá thấp so với các năm 2007 và 2008.
Theo thống kê, năm 2009, Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội đã tổ chức 51 đợt
đấu thầu trái phiếu Chính phủ bằng nội tệ, huy động được 2.578 tỷ/62.700 tỷ gọi
thầu. Trong khi đó, năm 2007 huy động được 15.839 tỷ đồng/khối lượng gọi thầu
23.400 tỷ đồng, tỷ lệ thành công là 67,69%. Năm 2008 huy động 6.060 tỷ
đồng/26.600 tỷ đồng khối lượng gọi thầu, tỷ lệ thành công 22,78%. Năm 2009 huy
động 2.578,5 tỷ đồng/61.700 tỷ đồng khối lượng gọi thầu, tỷ lệ thành công 4,18%.
Năm 2010 cũng là một năm không thực sự thành công của việc huy động TPCP .
Đến hết tháng 5.2010 đã huy động được 26.065 tỉ đồng trái phiếu chính phủ, bằng
khoảng 65% yêu cầu nhiệm vụ huy động 5 tháng đầu năm và bằng 26% nhiệm vụ
huy động trái phiếu chính phủ cả năm.
Tính đến hết tháng 10-2010 Kho bạc Nhà nước đã huy động được 67.620 tỉ
đồng, bằng 67,6% kế hoạch được giao. Trong đó, 16 phiên tín phiếu đấu thầu qua
Ngân hàng Nhà nước đã huy động 7.491 tỉ đồng, 24 phiên đấu thầu trái phiếu qua
sàn HNX đã huy động được 26.157 tỉ đồng, 16 phiên phát hành trái phiếu theo
phương thức bảo lãnh huy động được 26.442 tỉ đồng,Tháng 11 và tháng 12 chính
phủ cũng tổ chức phát hành trái phiếu nhưng đều không thành công.
Năm 2011, lượng TPCP phát hành theo nghị quyết của Quốc hội là 45.000 tỷ.
Ngày 11/2, Kho bạc Nhà nước đã đấu giá thành công 4.650 tỷ đồng/5.000 tỷ trái
phiếu Chính phủ. Các phiên giao dịch cuối tháng 2 hầu hết chỉ bán được dưới 50%
khối lượng trúng thầu.

Đặc biệt, trong phiên đấu thầu trái phiếu Chính phủ do Kho bạc Nhà nước phát
hành, đấu thầu ngày 24/2/2011, khối lượng trúng thầu chỉ đạt 13,75% tổng khối
lượng gọi thầu (tương đương 825 tỷ/6.000 tỷ). Đợt này Kho bạc Nhà nước chủ yếu
phát hành trái phiếu trung và dài hạn.
Đơt phát hành gần đây nhất ngày 3/3/2011 đã thất bại.Tổng khối lượng trúng thầu
chỉ đạt 145 tỷ đồng,bằng 2,4% khối lượng gọi thầu là 6000 tỷ đồng.
Đấu thầu TPCP ngày 17/3: Chỉ bán được 1% tổng khối lượng gọi thầu. Trước đây,
khi lãi suất chiết khấu còn thấp, nhiều NHTM mua trái phiếu đem cầm cố tại
NHNN với lãi suất 7% rồi mang đi cho vay lại với lãi suất cao hơn trên thị trường
liên ngân hàng. Đến nay, khi lãi suất tái chiết khấu tăng lên 12% đồng nghĩa với
việc kênh đầu tư vào trái phiếu Chính phủ không còn hấp dẫn với các NHTM.
• Tại sao phát hành TPCP qua đấu thầu lại thất bại???
Có thể thấy phát hành TPCP qua đấu thầu đã gặp không ít lần thất bại.Điển hình
như năm 2009,phát hành TPCP 12 lần thất bại liên tiếp.Nguyên nhân chính của
việc thất bại là do mức lãi suất trần quá thấp không thu hút được nhà đầu tư,có đợt
không có lấy nhà đầu tư nào tham gia,hoặc có thể thu hút đuợc nhà đầu tư nhưng
lãi suất mà NĐT yêu cầu lại quá cao so với lãi suất trần.
Chính phủ gặp khó khăn nếu phát hành trái phiếu lãi suất cao vì phải trả một
lượng tiền lãi rất lớn trong tương lai.Phát hành TPCP muốn thành công không phải
việc đơn giản,CP cần cân đối lãi suất so với thị truờng để tạo điều kiện tốt nhất cho
việc huy động vốn nhưng cũng phải đảm bảo không tạo gánh nặng cho NS trong
tương lai. Ông Nguyễn Hòa Bình - tân Chủ tịch Hội đồng quản trị của
Vietcombank nhận định, trái phiếu Chính phủ là loại chứng khoán có độ an toàn
cao nhất; nhưng đầu tư vào loại trái phiếu này chỉ đem lại một mức thu nhập khiêm
tốn:"Theo nguyên tắc của kinh tế thị trường, muốn kiếm được lợi nhuận cao thì cần
phải chấp nhận rủi ro cao. Thị trường trái phiếu Việt Nam cũng như các nhà đầu tư
cần những loại trái phiếu có độ rủi ro cao hơn vì hứa hẹn những khoản thu nhập
cao hơn.”
Phó chủ tịch UBCK Nhà nước, ông Nguyễn Đoan Hùng cho rằng, về năng lực hệ
thống giao dịch, trái phiếu hiện được niêm yết theo giá và áp dụng nguyên tắc đấu

giá giống như cổ phiếu (ưu tiên về giá, ưu tiên về thời gian), không áp dụng biên
độ dao động giá. Tuy nhiên, cổ phiếu và trái phiếu là hai loại hàng hóa có đặc điểm
và tính chất hoàn toàn khác nhau, việc áp dụng giao dịch trái phiếu và cổ phiếu như
nhau trên cùng một hệ thống giao dịch tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán là
không có hiệu quả. Do đó, cần tách biệt giao dịch trái phiếu và giao dịch cổ phiếu
ra thành 2 bảng giao dịch riêng biệt là cần thiết. Hơn nữa, giữa các trái phiếu cùng
chủ thể phát hành nhưng khác đợt phát hành cũng khác nhau về lãi suất và thời
gian đáo hạn. Việc yết giá trái phiếu theo thị giá cũng không làm nổi bật sự khác
biệt đó. Hơn nữa, nếu trong nhiều phiên liên tiếp, trái phiếu không có giao dịch thì
việc công bố giá tham chiếu dựa trên kết quả giao dịch gần nhất trước đó cũng ít có
ý nghĩa vào thời điểm giao dịch thỏa thuận hiện tại.
Một thủ phạm khác làm giảm tính cạnh tranh của thị trường là, cơ chế xác định lãi
suất đấu thầu trên thị trường sơ cấp hiện không mang tính thị trường vì áp dụng lãi
suất chỉ đạo nên chưa thu hút được nhu cầu đầu tư của các cá nhân, tổ chức. Quy
định lãi suất đặt thầu phải cao hơn lãi suất chỉ đạo sẽ khiến cho lãi suất trúng thầu
mang tính khiên cưỡng chủ quan hơn là mang tính khách quan thị trường. Điều này
cũng có thể dẫn tới tình trạng khối lượng trúng thầu sẽ bị hạn chế đi rất nhiều so
với khối lượng dự định phát hành và sẽ chỉ bó hẹp trong phạm vi một số nhỏ các
nhà đầu tư. Khối lượng trúng thầu thấp cộng với một số nhỏ các nhà đầu tư nắm
giữ sẽ làm giảm tính thanh khoản của trái phiếu trên thị trường thứ cấp.
Hiệu ứng vòng luẩn quẩn (vicious circle) cũng là một nguy cơ. Thị trường trái
phiếu thanh khoản thấp càng làm giảm tính hấp dẫn của nó đối với các nhà đầu tư,
và càng ít nhà đầu tư càng làm giảm tính thanh khoản của thị trường. ""Đây là hiện
tượng thường thấy trên các thị trường trái phiếu mới nổi và mới đi vào hoạt động.
Sẽ có ít nhà đầu tư muốn tham gia mua trái phiếu lần đầu trên thị trường phát hành
cũng như mua lại trên thị trường thứ cấp nếu biết rằng khả năng bán lại các trái
phiếu đó là rất ít, hoặc nếu có họ phải chờ một thời gian khá lâu và bỏ lỡ các cơ hội
đầu tư khác"", ông Nguyễn Hòa Bình nói.
3.2.2. Đấu thầu trái phiếu và cổ phiếu doanh nghiệp
Trong 3 phương thức chào bán trực tiếp, chào bán qua đấu thầu và chào bán

qua tổ chức bảo lãnh phát hành, thì phương thức chào bán qua đấu thầu luôn được
đánh giá là lựa chọn tốt nhất của đa số doanh nghiệp phát hành chứng khoán.Cùng
với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường chứng khoán,hình thức phát hành cổ
phiếu bằng đấu thầu ngày càng được sử dụng nhiều hơn
Điều kiện phát hành CK ra công chúng được quy định tại khoản 1,2 điều 12
luật chứng khoán năm 2006.
3.2.2.1. Thực tế về việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp
Khoảng 2 – 3 năm gần đây, thị trường vốn Việt Nam bắt đầu đón nhận sự nhập
cuộc của trái phiếu doanh nghiệp . Hay nói cách khác, trái phiếu là một công cụ gọi
vốn còn khá mới mẻ, nhiều lợi ích nhưng không dễ sử dụng và không phải doanh
nghiệp nào cũng có thể nắm lấy.
Năm 2008 lác đác 2-3 DN phát hành trái phiếu thì năm 2009 đã có 15 đợt các
DN phát hành trái phiếu với tổng giá trị xấp xỉ 20.000 tỷ đồng, tăng gấp 3 lần.
Năm 2009 được coi là năm bùng nổ và thành công của trái phiếu DN về khối
lượng.Năm 2010, khi kinh tế bắt đầu hồi phục, để tài trợ cho các dự án và tăng quy
mô vốn hoạt động trong bối cảnh hệ thống NH không có đủ vốn trung - dài hạn để
đáp ứng, nhiều DN có phương án phát hành trái phiếu và đã thành công.
Theo Hiệp hội Thị trường trái phiếu Việt Nam, kể từ năm 2009 đến nay đã có
66.000 tỷ đồng trái phiếu doanh nghiệp được phát hành, trong đó có tới 40.000 tỷ
đồng được tư vấn, thu xếp bởi các Định chế tài chính, phần còn lại chủ yếu là trái
phiếu do các Tổ chức tín dụng trực tiếp phát hành.
Tập đoàn Sông Đà là DN phát hành TPDN bằng tiền VND đầu tiên trên thị
trường vốn nợ VN trong năm 2010, với tổng giá trị 1.500 tỉ đồng (tương đương 79
triệu USD); Tập đoàn Điện lực Việt Nam phát hành 2.000 tỉ đồng trái phiếu; TCty
cổ phần XNK và Xây dựng VN (VCG) phát hành 2.000 tỉ đồng; CTCP Long Hậu
(LHG) phát hành 200 tỉ đồng trái phiếu (mệnh giá 1 tỉ đồng) để huy động vốn cho
dự án khu dân cư Long Hậu; CTCP Vincom (VIC) phát hành 1.000 tỉ đồng trái
phiếu DN, với kỳ hạn trái phiếu là 5 năm
Thực tế cho thấy hình thức huy động vốn bằng phát hành trái phiếu của các DN
ở VN còn rất mới mẻ và chưa đuợc các DN nghĩ tới nhiều khi cần huy động

vốn.chỉ những DN lớn mới tiếp cận hình thức này,và phương thức phát hành phổ
biến là phát hành thông qua bảo lãnh.Quy trình phát hành trái phiếu doanh nghiệp
hiện nay không thống nhất và chưa có quy chuẩn rõ ràng đang là vật cản để thị
trường trái phiếu doanh nghiệp phát triển và ổn định.
3.2.2.2. Phát hành cổ phiếu thông qua đấu giá:

Nguyên tắc xác định kết quả
- Xác định theo giá đặt mua từ cao xuống thấp, nhà đầu tư đặt mua theo giá nào
thì được mua cổ phần theo giá đó.
- Nhà đầu tư trả giá cao nhất được quyền mua đủ số cổ phần đã đăng ký theo các
mức giá đã trả. Số cổ phần còn lại lần lượt được bán cho các nhà đầu tư trả giá cao
liền kề cho đến hết số cổ phần chào bán.
- Trường hợp các nhà đầu tư trả giá bằng nhau nhưng số cổ phần chào bán ít hơn
tổng số cổ phần đăng ký mua thì số cổ phần của từng nhà đầu tư được mua xác
định như sau:
-
Số cổ phần
nhà đầu tư
được mua
=
Số cổ
phần còn
lại chào
bán
Số cổ phần từng nhà đầu tư đăng ký mua giá bằng nhau
Tổng số cổ phần các nhà đầu tư đăng ký mua giá bằng
nhau
Trường hợp còn dư cổ phiếu lẻ, số cổ phần lẻ này được phân bổ cho nhà đầu tư có
khối lượng đăng ký mua lớn nhất tại mức giá đó.
Riêng đối với nhà đầu tư nước ngoài, kết quả đấu giá cũng được xác định theo

nguyên tắc trên, kết hợp với tỷ lệ khống chế trần được phép mua theo quy định.
Thực tế về việc phát hành cổ phiếu bằng hình thức đấu giá
Hoạt động đấu giá cổ phần được thực hiện lần đầu tiên tại trung tâm giao dịch
chứng khoán tp HCM là vào tháng 2-2005. Công ty thực hiện đấu giá cổ phần là
công ty cổ phần sữa Việt Nam Vinamilk. Phiên đấu giá đã thành công ngoài mong
đợi
Đầu tháng 3/2005 phiên đấu giá cổ phiếu đầu tiên tại trung tâm giao dịch chứng
khoán HN được khai trương .Đó là phiên đấu giá cổ phiếu của nhà máy Thiết bị
Bưu điện (Tổng công ty Bưu chính Viễn thông gần 152.000 cổ phiếu với tổng trị
giá trên 24 tỉ đồng đã được bán hết veo ngay trong phiên đấu giá đầu tiên ở Hà
Nội. Tính trung bình, cổ phiếu đã được mua cao gấp 1.6 lần so với giá khởi điểm.
Từ năm 2005 tới năm 2007,các cuộc đấu giá cổ phần phát triển hết sức nhanh
chóng.thị trường đấu giá cổ phần được đánh giá là hết sức côi động.Ngày càng có
nhiều DN phát hành cổ phiếu của mình bằng hình thức đấu giá.Các phiên đấu giá
thu hút rất nhiều nhà đầu tư ,và thường gây hiện tượng quá tải .các nhà đầu tư phải
xếp hang dài để đăng ký tham gia.
Sang năm 2008 ,thị trường bắt đầu có dấu hiệu không mấy khả quan thể hiện ở
việc 1 loạt các cuộc đấu giá thất bại như cuộc đấu giá 3,2 triệu cổ phần của công ty
Hoàng Long Long An ,công ty Thiên Long ,công ty SABECO.Diễn biến trên thị
trường CK cho thấy huy động vốn trong năm 2008 không còn quá dễ dàng đối với
DN.lý doi của tình trang trên có thể giải thích rằng đó là do ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới dẫn đến việc hạn chế nguồn vốn của nhà đầu tư nước
ngoài,hơn nữa thị trường CK thứ cấp ảm đạm cũng khiến các nhà đầu tư e dè hơn
trong việc đầu tư CK.
Nhưng tới cuối năm 2008,và trong năm 2009 khi nền kinh tế bắt đầu hồi
phục,các cuộc đấu giá CK bắt đầu sôi động trở lại. Thang 12-2009 Cùng với sự sôi
động của thị trường tập trung, các phiên đấu giá gần đây cũng dần thu hút thêm
nhà đầu tư. Tuy chưa có cảnh phải chen chân như đầu năm nay, song một số cuộc,
lượng cổ phần đăng ký mua cao gấp hàng chục lần so với chào bán.
Năm 2010,tình hình đấu giá đến nay khá ảm đạm. Theo số liệu tổng kết từ Ủy

ban Chứng khoán Nhà nước (UBCK), tính từ đầu năm đến ngày 5/10, tổng giá trị
cổ phiếu thực hiện đấu giá thành công chỉ đạt 2.110 tỷ đồng. Nguyên nhân chính là
do thị trường chứng khoán ảm đạm, xu hướng thị trường chưa xác lập khiến chỉ số
chứng khoán không ổn định và có chiều hướng đi xuống. Mặt khác, việc các doanh
nghiệp niêm yết liên tục thực hiện phát hành thêm đã hút một lượng tiền khổng lồ
từ thị trường, tính đến ngày 5/10 là hơn 36.167 tỷ đồng.
Theo thống kê của SGDCKHN từ năm 2005 tới nay
Năm 2005 2006 2007 2008 2009
Số đợt đấu giá thực hiện 28 40 53 31 19

3.3. Ưu nhược điểm của phương pháp phát hành chứng khoán thông qua
đấu thầu
Ưu điểm
• Tiết kiệm được chi phí phát hành
Khi sử dụng phương pháp này ,tổ chức phát hành không cần phải trả phí cho
bất kì tổ chức trung gian nào khác như hình thức phát hành qua bảo lãnh
• Xác định được giá (lãi suất) một cách khách quan
Giá của chứng khoán sẽ được xác định theo quan hệ cung cầu một cách
khách quan dựa trên đinh giá của doanh nghiệp và mức giá trần ,qua đó các
đơn vị thamgia đấu thầu sẽ bỏ đặt thầu dựa trên giá trị hiện tại của chứng
khoán đó và kì vọng về giá trong tương lai
• Thời gian thu được tiền nhanh chóng
Thời gian để các chủ thể phát hành thu được nguồn vốn trong thông qua
hình thức nay thường rất nhanh,có thể chỉ trong vài giờ sau khi tung ra thị
trường hoặc trong vài ngày là có thể đạt được khuong tiền mong muốn
Nhược điểm:
• Có thể không đạt được mức vốn cần huy động
Có thể thấy ví dụ điển hình là các đợt phát hành trái phiếu chính phủ thất
bại,có trường hợp khối lượng huy động vốn chỉ đạt 1% so với dự kiến.đây
cũng là một điểm rất đáng lưu ý khi các doanh nghiệp có ý định phát hành

chứng khoán thông qua phương pháp này
• Thủ tục pháp lý rườm rà,phức tạp .
Để huy động vốn trên thị trường chứng khoán các doanh nghiệp phải thực
hiện những thủ tục phức tạp hơn nhiều so với thủ tục xin vay tại các tổ chức
tín dụng, chẳng hạn, các doanh nghiệp phải xây dựng bản cáo bạch để công
khai hoá tài chính, phương án kinh doanh hơn nữa, nhiêu doanh nghiệp
không muốn tiết lộ những thông tin quan trọng cho đối thủ cạnh tranh nên
không mặn mà với hình thức huy động vốn trên thị trường chứng khoán.
4. Các biện pháp để phát hành chứng khoán có hiệu qủa hơn trong thời gian
tới
Theo số liệu của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (UBCK), năm 2010 huy động
vốn qua TTCK đạt 114.000 tỷ đồng, trong đó 83.000 tỷ đồng huy động từ phát
hành cổ phiếu, còn lại là trái phiếu và các hình thức khác. Nguồn vốn huy động
qua TTCK bằng 1/4 tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội. Bên cạnh nguồn vốn
huy động tăng, các DN cũng tích cực lên niêm yết, với số tăng thêm là 261 DN.
Ông Trần Văn Dũng, Giám đốc Sở GDCK Hà Nội cho rằng, việc các DN gia
tăng huy động vốn qua TTCK cho thấy vai trò của thị trường ngày càng quan
trọng. Tuy nhiên, nếu năm 2011 mặt bằng lãi suất ngân hàng không được giảm
xuống mức hợp lý thì DN sản xuất sẽ gặp khó khăn, các DN tiếp tục phát hành
nhiều hơn, tạo ra sức ép lớn về nguồn cung trên thị trường.
Theo ông Hoàng Đức Long, Vụ trưởng Vụ Pháp chế - UBCK, huy động vốn
thông qua TTCK thời gian qua đã đạt được những kết quả tích cực. Tuy nhiên,
do DN phát hành quá nhiều dẫn đến hiện tượng ”pha loãng” cổ phiếu, thị
trường trầm lắng, quan hệ cung - cầu mất cân đối. Với hàng trăm đợt phát hành
cổ phiếu (CP) của các doanh nghiệp trên cả nước trong thời gian qua, gồm cả
phát hành lần đầu và phát hành bổ sung, phát hành công khai và phát hành nội
bộ (phát hành riêng lẻ), về cơ bản có thể nói, các hoạt động và các phương án
phát hành CP của các doanh nghiệp đã diễn ra hợp pháp và mang lại hiệu quả
tích cực cho đời sống kinh doanh của doanh nghiệp – tổ chức phát hành nói
riêng, cũng như cho toàn bộ nền kinh tế nói chung. Điều này có thể thấy và

được minh chứng qua những cải thiện rõ rệt:
• Về phía doanh nghiệp
- Tăng vốn sản xuất – kinh doanh và thu hút các nguồn lực cần thiết
- Mở rộng quy mô, tăng sức cạnh tranh
- Tăng hiệu quả, lợi nhuận kinh doanh, việc làm
- Cải thiện thu nhập và dân chủ về kinh tế cho các cổ đông, người lao động
• Về phía nhà nước
- Tăng thu ngân sách nhà nước do bán được và bán với giá khá cao các phần
vốn, tài sản nhà nước muốn bán (giá tăng so với khởi điểm ít nhất 15 – 20%, cá
biệt có khi hàng chục lần…)
- Tạo động lực làm sống động và phát triển thị trường chứng khoán (TTCK) cả
về bề rộng, lẫn bề sâu, phát triển thu hút cả vốn trong và ngoài nước.
- Thúc đẩy quá trình cổ phần hóa (CPH) doanh nghiệp nhà nước lành mạnh và
hiệu quả
- Tạo động lực phát triển toàn bộ nền kinh tế theo các nguyên tắc thị trường và
cải thiện vị thế, hình ảnh đất nước trong con mắt các nhà đầu tư quốc tế. TTCK
Việt Nam được coi là hiện tượng đáng chú ý trên TTCK thế giới năm 2006, và
là 1/3 thị trường có cơ hội kinh doanh hấp dẫn trên thế giới.
• Về phía nhà đầu tư:
Đã có cơ hội và điều kiện thuận lợi, để tham gia đầu tư và thu lời từ đầu tư
chứng khoán, cổ phiếu.
Tính chất hợp cách, hợp kỹ thuật, hợp pháp còn được minh chứng qua sự ổn
định, suôn sẻ về phương diện pháp lý của tuyệt đại đa số các hoạt động và
phương án phát hành CP doanh nghiệp. Nói cách khác, các cơ quan chức năng
của nhà nước chưa phát hiện những vi phạm lớn hoặc chưa phải vất vả gì nhiều
về các sai phạm liên quan đến phát hành…

×