Tải bản đầy đủ (.pdf) (41 trang)

Đề án môn học: Quản lý với bài toán xoá đói giảm nghèo và nâng cao dân trí khu vực miền núi phía Bắc ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (649.21 KB, 41 trang )



Đề án mơn học
Quản lý với bài tốn xố đói
giảm nghèo và nâng cao dân
trí khu vực miền núi phía Bắc

..........., tháng ... năm ........


Đề án mơn học

MỞ ĐẦU
Xố đói giảm nghèo và nâng cao dân trí là bài tốn khó mà bất kì quốc
gia đang phát triển nào cũng phải đối mặt. Hậu quả do đói nghèo và dân trí
thấp gây ra cho sự phát triển chung của một vùng cũng như một quốc gia là
vô cùng nặng nề. Sự bất ổn về kinh tế sẽ dẫn đến sự bất ổn về chính trị, đó là
điều mà bất kì nhà quản lý vĩ mô nào cũng hiểu được.Nhưng những nhà quản
lý Việt Nam vẫn đang rất lúng túng trong việc giải quyết bài tốn khó, mà
biểu hiện cụ thể của nó là: khoảng cách giàu nghèo của việt nam ngày càng
tăng, tình trạng tái nghèo vẫn diễn ra…Đừng đổ lỗi cho răng sự bất bình đẳng
là sự trả giá cho sự tăng trưởng, đừng dựa vào mơ hình “chữ U ngược “ của
Kuznes để biện minh. Nếu chúng ta, những nhà quản lý khơng vơ trách
nhiệm , sử dụng lãng phí những đồng vốn vào những dự án mía đường, dự án
ni bị sữa…hay để thất thoát, tham nhũng, chi tiêu sai mục đích hàng ngàn
tỷ đồng thì mọi sự có thể sẽ khác đi. Quản lý với đầy đủ những chức năng của
nó, thêm vào đó là những chính sách đúng đắn và sự quan tâm của toàn xã hội
sẽ là lời giải hay cho bài tốn khó xố đói giảm nghèo.
Xố đói giảm nghèo là vấn đề trước mắt, nâng cao dân trí là vấn đề lâu
dài, song hai vấn đề này cần phải được giải quyết song song, tuy không phải
là trong một sớm một chiều, nhưng những nhà quản lý cần phải nhanh chóng


tìm lời giải, tháo dỡ sợi dây níu giữ sự bứt phá trên con đường phát triển của
Việt Nam. Đề án này đề cập đến vấn đề: Quản lý với bài tốn xố đói giảm
nghèo và nâng cao dân trí khu vực miền núi phía Bắc với mong muốn cung
cấp một lời giải cho bài toán khó này.

Thân Văn Khoa - QLKT 46A

1


Đề án môn học

Phần I: Cơ sở lý luận
I.

Khái niệm về quản lý:

1. Quản lý và các dạng quản lý
Có nhiều cách hiểu khác nhau về quản lý nhưng nhìn chung có thể
hiểu: quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm
đạt được những mục tiêu nhất định trong điều kiện biến động của mơi trường.
Với định nghĩa trên, quản lý có phạm vi hoạt động vô cùng rộng lớn,
được chia làm ba dạng chính:
- Quản lý giới vơ sinh
- Quản lý giới sinh vật.
- Quản lý xã hội loài người.
Tất cả các dạng quản lý trên đều mang những đặc điểm chung sau đây:
- Để quản lý được phải tồn tại một hệ quản lý bao gồm hai phân hệ: chủ
thể quản lý và đối tượng quản lý. Chủ thể quản lý là tác nhân tạo ra
các tác động quản lý nhằm dẫn dắt đối tượng quản lý đi đến mục tiêu.

Chủ thể có thể là một người, một bộ máy quản lý gồm nhiều người.
Đối tương quản lý tiếp nhận các tác động của chủ thể quản lý. Đây có
thể là những yếu tố thuộc giới vô sinh, giới sinh vật hoặc con người.
- Phải có một hoặc một tập hợp mục đích thống nhất cho cả chủ thể và
đối tượng quản lý. Đạt mục đích theo cách tốt nhất trong hồn cảnh
mơi trường ln biến động và nguồn lực hạn chế là lí do tồn tại của
quản lý. Đó cũng chúnh là căn cứ quan trọng nhất để chủ thể tiến hành
các tác động quản lý.
- Quản lý bao giờ cũng liên quan đến việc trao đổi thông tin nhiều
chiều. Quản lý là một q trình thơng tin. Chủ thể quản lý phải liên
tục thu thập dữ liệu về môi trường và hệ thống, tiến hành chọn lọc
thông tin, xử lý thông tin, bảo quản thông tin, truyền tin và ra quyết
Thân Văn Khoa - QLKT 46A

2


Đề án môn học

định, một dạng thông tin đặc biệt nhằm tác động lên các đối tượng
quản lý. Còn đối tượng quản lý phải tiếp nhận các tác động quản lý
của chủ thể cùng các đảm bảo vật chất khác để thực hiện các chức
năng, nhiêm vụ của mình.
- Quản lý bao giờ cũng có khả năng thích nghi. Đứng trước những thay
đổi của đối tượng quản lý cũng như môi trườngcả về quy mô và mức
độ phức tạp, chủ thể quản lý khơng chịu bó tay mà vẫn có thể tiếp tục
quản lý có hiệu quả thơng qua việc điều chỉnh, đổi mới cơ cấu,
phương pháp, công cụ và hoạt động của mình.
Với những đặc điểm trên có thể khẳng định rằngquản lý là một tiến
trình năng dộng.

2. Quản lý nhà nước về kinh tế:
2.1.

Khái niệm:

Quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế quốc dân là sự tác động có tổ
chức và bằng pháp quyền của nhà nước lên nền kinh tế quốc dân nhằm sử
dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực kinh tế trong và ngồi nước, các cơ hội
có thể có, để đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế đất nước đã đặt ra, trong
điều kiện hội nhập và mở rộng giao lưu quốc tế. Quản lý kinh tế là nội dung
cốt lõi của quản lý xã hội nói chung và nó phải gắn chặt với các hoạt động
quản lý khác của xã hội. Quản lý nhà nước về kinh tế được thể hiện thông qua
các chức năng kinh tế và quản lý kinh tế của nhà nước.
Như đã phân tích ở trên, việc khắc phục những nhược điểm, hạn chế
khuyết tật của cơ chế thị trường, để tạo điều kiện thuân lợi cho cơ chế này
hoạt động có hiệu quả, khơng thể khơng có nhà nước với tư cách là chủ thể
của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Như vậy, nhà nươc thực hiện chức năng
quản lý kinh tế là nhu cầu khách quan , nội tại và nền kinh tế vận động theo
cơ chế thị trường; còn việc điều tiết, khống chế và định hướng các hoạt động
kinh tế của các cơ sở thuộc các thành phần kinh tế theo phương hướng và mục

Thân Văn Khoa - QLKT 46A

3


Đề án môn học

tiêu nào lại lệ thuộc vào bản chất của các hình thức nhà nước và con đường
phát triển mà nước đó lựa chọn.

2.2.

Các kết luận cần lưu ý:

Từ định nghĩa đã nêu có thể rút ra các kết luận cơ bản sau:
- Thực chất của quản lý nhà nước về kinh tế là việc tổ chức và sử dụng
có hiệu quả nhất các nguồn lực trong và ngồi nước mà nhà nước có khả năng
tác động vì mục tiêu xây dựng và phát triển đất nước. Trong đó có vấn đề nắm
bắt được con người, tổ chức và tạo động lực lớn nhấtcho con người hoạt động
trong xã hội. Đúng như Trần hưng Đạo đã nói “ Kể ra dân khơng bao giờ hai
lịng, sợ ta thì khinh địch, sợ địch thì khinh ta. Bị dân khinh thì thua, dân sợ
uy thì thắng”.
- Bản chất của quản lý nhà nước về kinh tế là đặc trưng thể chế chính
trị của đất nước; nó chỉ rõ nhà nước là cơng cụ của giai cấp hoặc lực lượng
chính trị nào? Nó dựa vào ai, hướng vào ai để phục vụ? Đây là vấn đề khác
nhau cơ bản giữa quản lý nhà nước về kinh tế của các chế độ xã hội khác
nhau.
- Quản lý nhà nước về kinh tế cịn là một nghệ thuật và một nghề vì nó
lệ thuộc khơng nhỏ vào trình độ nghề nghiệp, nhân cách , bản lĩnh của đội ngũ
cán bộ quản lý kinh tế; phong cách làm việc, phương pháp và hình thức tổ
chức quản lý; khả năng thích nghi cao hay thấp… của bộ máy quản lý kinh tế
nhà nước.
II.

Khái niệm về đói nghèo:

1. Quan niệm chung:
Trong đời sống thực tiễn cũng như trong nghiên cứu khoa học các vấn
đề kinh tế-xã hội chúng ta thường thấy các khái niệm sau đây: đói nghèo hoặc
nghèo khổ; giàu- nghèo và phân hóa giàu nghèo; trong xã hội học còn đề cập

đến cả thuật ngữ: phân tầng xã hội , phân hóa giai cấp, phân cực xã hội. Ngay
khái niệm đói nghèo nếu tách riêng ra để phân tích và nhân dạng, cũng thấy
giữa đói và nghèo, trong cặp đơi này vừa quan hệ mật thiết với nhau lại vừa
Thân Văn Khoa - QLKT 46A

4


Đề án mơn học

có sự khác biệt về mức độ và cấp độ. Đã lâm vào tình trạng đói thì đương
nhiên là nghèo. Theo cách tư duy của người Việt nam, chúng ta thừong nhân
diện đói ở hai dạng: đói kinh niên và đói gay gắt. Đây vẫn thuần túy là đói ăn,
nằm chọn trong phạm trù kinh tế vật chất. Nó khác với đói thơng tin, đói thụ
hưởng văn hóa thuộc phạm trù đời sống tinh thần. Quan niệm về nghèo thì có
thể có nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối. Tất nhiên dù ở dạng nào thì nghèo
vẫn có quan hệ mật thiết với đói. Nghèo là một kiểu đói tiềm tàng và đói là
một tình trạng hiển nhiên của nghèo. Sự nghèo vànghèo khổ kéo dài, nếu
không ra khỏi cái vịng của sự trì trệ, túng thiếu thì chỉ cần xảy ranhữngbiến
cố đột xuất của hồn cảnh (thiên tai, đau ốm , bệnh tật, rủi ro…) là con người
ta dễ dàng rơi vào cảnh đói ( đói khổ , đói rách). Ở đây, chúng ta xem xét hiện
tượng đói nghèo ở góc độ đời sống vật chất, góc độ kinh tế, tức là tính vật
chất của nó. Chủ thể xem xét ở đây là con người, từng cá thể cũng như
trongpham vi xã hội, tức là cộng đồng dân cư xác định, quy mô lớn, nhỏ,
rộng, hẹp khác nhau. Vì thế, với những cách tiếp cân khác nhau, chúng ta có
thể hướng mục tiêu nghiên cứu vào người nghèo, hộ nghèo, vùng dân cư
nghèo, nước nghèo và khu vực nghèo.
Các hội nghị bàn về giảm nghèođói trong khu vực châu Á- Thái bình
Dương do ESCAP tổ chức ở Băng Cốc tháng 9.1993 đã đưa ra khái niệm và
định nghĩa về nghèo đói như sau : “Nghèo đói là tình trạng một bộ phân dân

cư khơng được hưởng và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người đã
đựoc xã hội thừa nhận tùy theo tình trạng phát triển kinh tế, xã hội và phong
tục tập quán của các địa phương”.
Có thể xem đây là định nghĩa chung nhất về nghèo đói, một định nghĩa
có tính chất hướng dẫnvề phương pháp đánh giá, nhận diện nét chính yếu, phổ
biến về nghèo đói. Các tiêu chí và chuẩn mực đánh giá cịn để ngỏ về mặt
lượng hóa ( định lượng) , bởi nó chưa tính đến sự khác biệt và độ chênh lệch
giữa các vùng, các điều kiện lịch sử cụ thể quy định trình độ phát triển ở mỗi
nơi. Quan niệm hạt nhân có trong định nghĩa này là ở nhu cầu cơ bản của con
Thân Văn Khoa - QLKT 46A

5


Đề án mơn học

người. Căn cứ xác định đói hay nghèo là ở chỗ đối với những nhu cầu cơ bản
ấy, con người không được hưởng và thỏa mãn. Nhu cầu cơ bản nói ở đây
chính là cái thiết yếu, tối thiểu để duy trì sự tồn tại của con người như ăn,
mặc, ở. Theo đó, sự nghèo khổ tuyệt đối, sự bần cùng được biểu hiện là đói,
là tình trạng con người khơng có ăn, ăn khơng đủ lượng dinh dưỡng tối thiểu
cần thiết, sự đứt đoan trong nhu cầu ăn. Nói một cách khác, đói là một khái
niệm biểu đạt tình trạng con người ăn khơng đủ no, khơng đủ năng lượng tối
thiểu cần thiết để duy trì sự sống hằng ngày và không đủ sức để lao động, để
tái sản xuất sức lao động. Đây là trường hợp đói gay gắt kinh niên, là tình
trạng thiếu ăn thường xuyên. Cũng như vậy, nếu con người trong những hoàn
cảnh đột xuất, bất ngờ do thiên tai bão lụt, mất mùa, bệnh tật, rơi vào cùng
cực , khơng cịn gì để sống, khơng có lương thực thực phẩm để ăn, có thể dẫn
tới cái chết thì đólà trường hợp đói gay gắt cấp tính, phải cứu trợ khẩn cấp.
Để lượng hóa các tiêu chí đói, người ta thường dùng số đo hiện vật theo

quy chuẩn gạo hoặc số đo giá trị theo quy chuẩn tiền theo mức bình quân đầu
người trong tháng. ở đây, mức chenh lệch là khác nhau giữa nơng thơn và
thành thị. Tính đến những biến động về giá cả trên thị trường tiêu dùng, nhất
là khi có lạm phát, khủng hoảng,nền kinh tế suy thối hoặc chậm phát triển, ta
thường thấy mức hiện vật ( gạo) phổ biến được dùng làm số đo hiện trạng đói
nghèo. Cách tính hiện nay ở nước ta là như vậy, nhất là khi khảo sát đói
nghèo ở nơng dân và nông thôn.
Tiếp theo ta xem xét về khái niệm nghèo. Về mặt kinh tế, nghèo đồng
nghĩa với nghèo khổ, nghèo túng, túng thiếu. Trong hồn cảnh nghèo thì
người nghèo và hộ nghèo vẫn chỉ vật lộn với những mưu sinh hằng ngày về
kinh tế, vật chất, biểu hiện trực tiếp nhất ở bữa ăn. Họ không thể vươn tới các
nhu cầu vêg văn hóa, tinh thần hoặc những nhu cầu này phải cắt giảm tới mức
tối thiểu nhất, gần như khơng có. Điều này đặc biệt rõ ở nơng thôn với hiện
tượng trẻ em thất học, bỏ học, cán bộ nơng dân nghèo khơng có khả năng để
hưởng thụ văn hóa, chữa bệnh khi ốm đau, khơng đủ hoặc không thẻ mua sắm
Thân Văn Khoa - QLKT 46A

6


Đề án môn học

thêm quần áo cho nhu cầu mặc, sửa chữa nhà cửa cho nhu cầu ở… Nghèo là
khái niệm chỉ tình trạng mà thu nhập thực tế của người dânchỉ dành chi hầu
như toàn bộ cho ăn, thậm chí khơng đủ chi cho ăn, phần tích lũy hầu như
khơng có. Các nhu cầu tối thiểu ngồi ăn ra thì các mặt khác như ở, mặc , văn
hóa, y tế, giáo dục, đi lại, giao tiếp chỉ đáp ứng một phần rất ít ỏi, khơng đáng
kể.
Cần phân biệt hai dạng nghèo : nghèo tương đối và nghèo tuyệt đối.
Nghèo tuyệt đối là tình trạngmột bộ phận dân cư khơng có khả năng thỏa mãn

các nhu cầu tối thiểu để duy trì sự sống. Trên thưc té, một bộ phận dân cư
nghèo tuyệt đổi rơi vào tình trạng đói và thiếu đói. Nghèo tương đối là tình
trạng của một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức trung bình của cộng
đồng tại địa phương. Quan niệm này phù hợp với sự xác định khái niệm
nghèo khổ, hiểu theo hai nghĩa tuyệt đối và tương đối do ủy ban kinh tế, xã
hội khu vực châu Á – Thái Bình Dương đưa ra gần đây.
2. Phương pháp đánh giá nghèo khổ:
Theo quan điểm tiếp cận của WB , thì phạm vi của sự nghèo khổ ngày
càng mở rộng. Nghèo khổ thường gắn với sự thiếu thốn trong tiêu dùng.
Nhưng từ giữa năm 1970 và những năm 1980 , nghèo khổ được tiếp cận theo
nhu cầu cơ bản gồm: tiêu dùng, dịch vụ xã hội và nguồn lực. Từ giữa những
năm 1980 đến nay tiếp cận theo năng lực và cơ hội, gồm: tiêu dùng , dịch vụ
xã hội, nguồn lực và tính dễ bị tổn thương. Từ cách tiếp cận trên, khi đánh
giá tình trạng nghèo khổ khơng chỉ dựa theo tiêu chí thu nhập mà cịn gồm cả
những tiêu chí không gắn với thu nhập
Tuy nhiên ở các nước đang phát triển, việc phân tích và đánh giá nghèo
khổ chủ yếu dựa trên tiêu chí thu nhập ( hay chi tiêu) . Phương pháp này cho
phép so sánh tình trạng nghèo khổ giữa các nước, các vùng khác nhau theo
thời gian nhằm cung cấp thơng tin cho các chính sách cơng và đánh giá được
mức độ thành cơng của chính sách đó. Nhưng làm thế nào để biểu thị “ nghèo
khổ” bằng một con số có ý nghĩa? Các nhà kinh tế đã dựa trên khái niệm”
Thân Văn Khoa - QLKT 46A

7


Đề án môn học

nghèo khổ tuyệt đối” . Khái niệm này nhằm biểu thị một mức thu nhập tối
thiểu cần thiết để đảm bảo những nhu cầu vạt chất cơ bản như lương thực ,

quần áo, nhà ở để cho mỗi người có thể tiếp tục tồn tại. Tuy nhiên khi xem xét
mức nghèo khổ theo khái niệm trên nảy sinh một số vấn đề sau:
- Thứ nhất, việc xác định mức này là một vấn đề chủ quan, gây khó
khăn cho việc so sánh giữa các nước.
- Thứ hai, mức thu nhập tối thiểu cần thiết sẽ thay đổi theo tiêu chuẩn
của mức sống theo thời gian và theo quốc gia ( hay khu vực) . Chẳng hạn, một
người dân ở nước phát triển hiện nayđược phân loại là nghéo thì thực ra họ lại
cịn có mức sống tốt hơn những người dân ở nước họ vào những năm 1960
hoặc một số người dân ở một số nước kém phát triển ngày nay mà họ không
được coi là nghèo.
Do vậy một phương pháp đã được các nhà kinh tế sử dụng là xác định “
giới hạn nghèo khổ” hay còn gọi là “đường nghèo khổ”.
Vậy “ giới hạn nghèo khổ được tính như thế nào? Về phương pháp luận
tiếp cận, chúng ta có thể lựa chọn xác định giới hạn nghèo khổ theo thu nhập
hay theo chi tiêu. Tuy nhiên phương pháp được sử dụng nhiều hơn là tiếp cận
theo chi tiêu.Vì chi tiêu của hộ gia đình là chỉ số liên quan chặt chẽ đến phúc
lợi hơn là thu nhập. Và số liệu về thu nhập thường không chính xác, đặc biệt
là ở các nước đang phát triện ( có một bộ phận những người lao động là tự
hành nghề).
- Phương pháp của Ngân hàng thế giới:
Phương pháp mà WB đã sử dụng ở nhiều nước đang phát triển là dựa
vào ngưỡng chi tiêu tính bằng dolla mỗi ngày. Ngưỡng nghèo thường dùng
hiện nay là 1 dolla và 2 dolla/ ngày ( theo sức mua tương đương) . Đây là
ngưỡng chi tiêu có thể đảm bảo mức cung cấp năng lượng tôi thiểu cần cho
con người, mức chuẩn đó là 2100 calo/ người/ ngày.
Ngưỡng nghèo này gọi là ngưỡng nghèo lương thực, thực phẩm (
nghèo đói ở mức thấp). Vì mức chi tiêu này chỉ đảm bảo mức chuẩn về cung
Thân Văn Khoa - QLKT 46A

8



Đề án môn học

cấp năng lượng mà không đủ chi tiêu cho những hàng hóa phi lương thực.
Những người có mức chi tiêu dưới mức chi cần thiết để đạt được 2100
calo/ngày gọi là “nghèo về lương thực, thực phẩm”.
- Phương pháp của Việt Nam:
Ở Việt Nam hiện nay, có phương pháp tiếp cận với ranh giới nghèo đói
như sau:
+ Phương pháp dựa vào cả thu nhập và chi tiêu theo đầu người (
phương pháp của tổng cục thống kê).
Phương pháp này xác định hai ngưỡng nghèo.
* Ngưỡng nghèo thứ nhất là số tiền cần thiết để mua được một số lương
thực hằng ngày để đảm bảo mức độ dinh dưỡng. Như vậy phương pháp này
tương tự như phương pháp của WB.
*Ngưỡng nghèo thứ hai, thường được gọi là “ ngưỡng nghèo chung”,
ngưỡng này bao gồm cả phần chi tiêu cho hàng hóa phi lương thực.
Ngưỡng nghèo Việt Nam đựoc tính tốn từ cuộc điều tra mức sống dân
cư năm 1998 như sau: Ngưỡng nghèo về lương thực thực phẩm: 1 287 000
đ/người/ năm. Ngưỡng nghèo chung: 1 788 000 đ/ người/ năm.
+ Phương pháp dựa trên thu nhập hộ gia đình( Phương pháp của Bộ
Lao Động và Thương Binh Xã Hội) . Phương pháp này hiện đang được sử
dụng để xác định chuẩn nghèo đói của chương trình xóa đói giảm nghèo quốc
gia ( chuẩn nghèo quốc gia).
Chuẩn nghèo áp dụng cho thời kì 2001-2005 được xác định dựa trên
thu nhập theo 3 vùng. Cụ thể là:
* Vùng hải đảo và vùng núi nơng thơn: bình qn thu nhập là 80 000/
người/ tháng.
*Vùng đồng bằng nông thôn; 100 000đ/ người/ tháng.

*Khu vực thành thị là 150 000 đ/ người/ tháng.
Người được coi là nghèo khổ về thu nhập là những người mà thu nhập
của họ nằm bên dưới các “giới hạn’ đã được quy định nói trên.
Thân Văn Khoa - QLKT 46A

9


Đề án môn học

Việc nhận diện ai là người nghèo ln là một vấn đề khó khăn. Cách
thơng thường và đã được các nước đang phát triển , WB sử dụng là dựa vào
kết quả các cuộc điều tra về thu nhập ( chi tiêu) của hộ gia đình. Những
người đang sống trong “ nghèo khổ tuyệt đối” là những ngừoi mà 4/5 chi tiêu
của họ cho nhu cầu về ăn mà chủ yếu là lương thực và một chút ít cho thực
phẩm ( thịt hoặc cá ); tất cả đều thiếu dinh dưỡng; chỉ khoảng 1/3 số người
lớn biết chữ; và tuổi thọ trung bình của họ vào khoảng 40 năm.
Một cách tiếp cận khác cũng thường được sử dụng để xem xét nghèo
đói là chia dân cư thành các nhóm khác nhau ( theo 5 nhóm ), Nhóm 1/5
nghèo nhất là 20% dân số, những người sống trong các hộ gia đình có mức
thu nhập ( chi tiêu) thấp nhất.
III. Quản lý với bài tốn xố đói giảm nghèo và nâng cao dân trí:
Từ thực trạng đói nghèo trên thế giới, chúng ta tim những bài học kinh
ngiệmchống đói nghèo của các nước trong khu vực, kinh nghiệm tổng quát
bao trùm mà nhiều nước trên thế giới và khu vực đã thực hiệncó kết quả.
Những kinh nghiệm đó lấp dụng những can thiệp vĩ mơthuộc về vai trị quản
lý kinh tế, xã hội của nhà nước để chống lại đói nghèo , xóa đói , giảm nghèo
tường bước có hiệu quả. Điểm mấu chốt trong kinh nghiệm các nước này là
Nhà nước kịp thời có những giải pháp và chính sách đúng đắn, đồng bộ, đồng
thời đảm bảo được những điều kiện để thực thi. Những giải pháp và chính

sách đó hướng vào phát triẻn sản xuất, tăng trưởng kinh tế, thực hiện bằng
được nhữngnhững cải thiện rõ rệt mức sống dân cư , gắn tăng trưởng kinh tế
với công bằng xã hội. Về mặt lý thuyết, ý tưởng nằm ở vị trí chủ đạo của mọi
chiến lược phát triển và mọi chương trình, kế hoạch quản lyax hội của Nhà
nước. Những kết quả, thành tựu đạt được trong việc khắc phục đói nghèở các
nước trong mỗi giai đoạn xây dựng và cải cách kinh tế- xã hội đã vừa xác
nhận, vừa làm tăng thêm ý nghĩa của bài học kinh nghiệm này. Nó như một
điểm tựa, là cơ sở lý luận cho các quyết sách của chính phủ. Về mặt thực tiễn
xã hội, bài học kinh nghiệm này cho thấy tần quạn trọng thiết thựccủa các
Thân Văn Khoa - QLKT 46A

10


Đề án mơn học

chính sách hỗ trợ , phát triển cho người nghèo bằng cách tạo việc làm và tăng
thu nhập thực tế cho họ, tạo cho họ cơ hội và trợ giúp các điều kiện để tự
mình thốt khỏi đói nghèo. Đay là phương thức cơ bản , lâu dài vì khơng thể
giải quyết đói nghèo trên quy mơ xã hội và cộng đồng dân cư chỉ bằng cách tự
cứu, cứu tế đơn thuần. Cũng không thể giản đơn cắt bớt thu nhập của người
giàu để phân phối cho người nghèo. Biện pháp này có tính chất thụ động gây
hiệu quả tiêu cực , tạo thêm tâm lý chờ đợi ỷ lại và đòi hỏi Nhà nước giải
quyết ở những người nghèo và làm suy giảm nhân tố kích thích đối với lao
động, làm triệt tiêu động lực phát triển của sản xuất , của hoạt động kinh tế.
Lẽ dĩ nhiên điều tiết xã hội qua thu nhập, phân phối để khắc phục những sự
phân hóa giàu nghèo bằng những chính sách hợp lý ( thuế thu nhập đối với
những người có thu nhập cao ), tăng quỹ phúc lợi xã hội là cần thiết và được
coi trọng vì mục đích cơng bằng xã hội.
Kinh nghiệm nêu trên được rút ra từ sự tổng kết thực tiễn việc áp dụng

hàng loạt các chính sách trong khu vực. Ở đó đã đưa ra các chính sách kinh tế
để thúc đẩy phát triển và ổn định kinh tế , cung cấp cơ sở hạ tầng thiết yếu và
dịch vụ xã hội để hỗ trợ phát triển. Nó phải hạn chế những điều tiết không
cần thiết hoặc qua smức gây trở ngại cho sự phát triển, đặc biệt là các doanh
nghiệp, khu vực phi kết cấu. Khu vực này ( phi kết cấu ) chính là cầu nối giữa
đói nghèo và dịng chảy chính của nền kinh tế , là địa bàn chính cho sự hoạt
động của số đơng người để tạo ra thu nhập vượt khỏi đường biên nghèo khổ.
Đồng thời trong những tình huống đột xuất, Nhà nước vẫn áp dụng những can
thiệp tức thời khi cần giải quyết nạn đói , các thảm họa xảy ra ở một khu vực
nào đó.
Kinh nghiệm cho thấy , nhà nước khơng nên can thiệp trược tiếp tới hộ
nghèo, mà chỉ thông qua các chính sách để hỗ trợ phát triển cho người nghèo.
Kinh nghiệm của các nước Đông nam Á : tăng trưởng kinh tế là cần
thiết song không thể chỉ dựa hồn tồn vào tăng trưởng kinh tế để xóa đói
giảm nghèo.Thành công của Trung Quốc trong vấn đề này không chỉ do tăng
Thân Văn Khoa - QLKT 46A

11


Đề án mơn học

trưởng kinh tế, mà cịn do những biện pháp giải quyết việc làm ở nông thôn,
mở rộng hệ thống dạy nghề, tăng kỹ thuật mới, giảm nhẹ đièu kiện làm việc,
cải thiện điều kiện sống ( mô hình xí nghiệp hương trấn ).
(Từ những kinh nghiệm trên, các nhà nghiên cứu đã khái quát hóa về
mặt lý luận và thống nhất một định nghĩa là: Chương trình Xóa đói giảm
nghèo là một hệ thống các giả pháp xác định rõ vai trò của Nhà nước, của các
tổ chức trong xã hội, trong việc phân phối hợp lý các hành động của mình để
nâng cao mức sống cho người nghèo, tạo cho họ những cơ hội phát triển trong

đời sống cộng đồng bằng chính lao động của bản thân.)
Nhưng có gì để đảm bảo rằng chúng ta sẽ thành cơng khi áp dụng
những kinh nghiệm trên; Những chính sách , đường lối của Nhà nước là hoàn
toàn đúng đắn, vấn đề còn lại là việc thực hiện . Theo tơi có hai lý do lớn nhất
cản trở việc biến các chính sách này thành hiện thực: Một là, trình độ và nhân
cách nhà quản lý kém; Hai là trình độ dân trí thấp.
Trình độ quản lý kém dẫn tới tình trạng sử dụng kém hiệu quả những
đồng vốn của những dự án xóa đói , giảm nghèo; thiếu kế hoạch rõ ràng, tổ
chức nhân sự chưa khoa học, lãnh đạo thiếu trách nhiệm, kiểm tra thiếu sát
sao. Tất cả những yếu kém ấy lam lệch đi những đường lối đúng đắn của
Đảng và Nhà nước, ấy là chưa kể đến sự tha hóa về đạo đức của một số nhà
quản lý, gây lãng phí , thất thốt và mất niềm tin của nhân dân với Đảng.
Nghèo đói và dân trí thấp dường như là đơi bạn song hành ln đi cùng
nhau. Bất kì một xã nghèo nào của Việt nam đều có dân trí thấp, trẻ em khơng
được đi học hoặc việc đi học hết sức khó khăn, các phong tục lạc hậu ăn sâu
vào cuộc sống của những người dân nghèo, việc tiếp súc với các hoạt động
văn hóa tiên tiến, lối sống lành mạnh rất hạn chế…
Q trình xóa đói giảm nghèo địi hỏi các nhà quản lý phải khắc phục
được hai khó khăn trên, có thể nói việc khắc phục được hai khó khăn trên là
hai tiền đề vơ cùng cần thiết để những chính sách, đường lối của nhà nước
phát huy hiệu quả tối đa trong việc giúp đỡ người nghèo thoát nghèo.
Thân Văn Khoa - QLKT 46A

12


Đề án mơn học

Phần II: Lời giải cho bài tốn
xóa đói giảm nghèo

I.

Nguyên nhân của đói nghèo:
Nghèo khổ hay đói nghèo là một hiện tượng kinh tế , xã hội, vừa là vấn

đề của lịch sử để lại, vừa là vấn đề của phát triển, thường có trong q trình
phát triển, mà quốc gia nào cũng vấp phải. Nó đụng chạm trực tiếp tới cuộc
sống của con người, từ cá nhân, gia đình đến cộng đồng. Mỗi quốc gia ở các
mức độ khác nhau đều phải quan tâm giải quyết vấn đề đói nghèo để vượt qua
những trở ngại cho sự phát triển phồn thịnh về kinh tế và từng bước đạt tới
công bằng xã hội. Tất nhiên, các chế độ xã hội khác nhau thì mục đích và
mức độ quan tâm cũng khác nhau. Song đây đang là vấn đề tồn cầu nên nó
cũng thu hút sự quan tâm, phối hợp cac snỗ lực giải quyết của cộng đồng
quốc tế.
Để chống lại đói nghèo, giản bớt sự nghèo khổ, cần phải xác định đúng
những nguyên nhân dẫn tới đói nghèo.
Có nhiều ý kiến khác nhau xung quanh việc xác định ngun nhân của
đói nghèo. Trên thực tế khơng có một nguyên nhân biệt lập, riêng rẽ dẫn tới
đói nghèo, nhất là đói nghèo trên diện rộng, có tính chất xã hội. Nó cũng
khơng phải là ngun nhân thuần túy về kinh tế hoặc do thiện tai, địch họa. Ở
đây ngun nhân của tình trạng đói nghèo là có sự đan xen, thâm nhập vào
nhau cả cái tất yếu lẫn ngẫu nhiên, cả cái cơ bản và tức thời ( đột xuất ) , cả
nguyên nhân sâu xa lẫn nguyên nhân trực tiếp, cả khách quan lẫn chủ quan, tự
nhiên lẫn kinh tế- xã hội.
Vì vậy phải giải thích hiện tượng này theo một hệ thống các nguyên
nhân, nhận diện các nhóm ngun nhân có tính phổ biến và đặc thù khác
nhau. Cũng cần thấy sự khác biệt, tính trội theo các vùng, các nhóm dân cư,
khu vực khi chịu tác động tác động của những nguyên nhân đó . Có ý kiến
Thân Văn Khoa - QLKT 46A


13


Đề án mơn học

đưa ra 3 nhóm ngun nhân, trong mỗi nhóm lại bao gồm nhiều nguyên nhân
cụ thẻ như sau:
Nhóm 1: Do bản thân người nghèo: khơng biết làm ăn, thiếu hoặc
khơng có vốn, đơng con, neo đơn , thiếu lao động, ăn tiêu lãng phí, lười lao
động, mắc vào tệ nạn xã hội.
Nhóm 2: Do điều kiện tự nhiên và mơi trường: đất canh tác ít và xấu,
thời tiết không thuận lợi, bất lợi về địa lý ( xa xơi, hẻo lánh, khơng có đường
giao thơng…)
Nhóm 3: Do thể chế, chính sách và cơ chế lạc hậu: Khơng đồng bộ,
khơng phù hợp với thực tiễn, khơng có sự quan tâm và khuyến khích phát
triển sản xuất, hoặc áp dụng chính sách cứng nhắc…
Tổng hợp các nguyên nhân trên chúng ta thấy; nhóm 1 có nguyên nhân
chủ yếu là do đối tượng ( chủ quan ) ; nhóm 2 và 3 có tính chất khách quan.
Cả ba nhóm này tác động vào đối tượng trong không gian và thời gian, dẫn
đến tình trạng đói nghèo.
Kết quả điều tra xã hội học cho thấy:
- Thiếu vốn : chiếm 70%-90% tổng số hộ được điều tra
- Đông con: chiếm 50%-60%
- Thiếu kinh nghiệm làm ăn: chiếm 40%-50%.
- Rủi ro, đau ốm nặng: 10%-15%
-Neo đơn, thiếu lao động: 6%-155.
- Lười lao động, ăn tiêu lãng phí: 5%-6%.
- Mắc các tệ nạn xã hội: 2%-3%.
Kết quả thu được đã xác nhận giả thiết nghiên cứu cho rằng thiếu vốn
và đông con cũng như thiếu kinh nghiệm làm ăn là những nguyên nhân quan

trọng và phổ biến nhất của đói nghèo.
Dùng phhương pháp điều tra xã hội học để kiểm chứng trên thực tế cho
thấy: Các phân loại theo ba nhóm nguyên nhân treen là hợp lý và có sức
thuyết phục.
Thân Văn Khoa - QLKT 46A

14


Đề án mơn học

Cũng theo phươnmg pháp này, có thể nhận diện một cách cụ thể hơn
thành năm nhóm nguyên nhân sau:
*Nhóm 1: Những nguyên nhân chủ quan
Là những nguyên nhân do bản thân người lao động , phổ biến là:
- Khơng có kinh nghiệm làm ăn, khơng biết cách sản xuất , kinh doanh
- Thiếu hoặc khơng có vốn.
- đơng con, ít lao động.
- Neo đơn, thiếu lao động.
- Rủi ro, đau ốm.
- Ăn tiêu lãng phí, lại lười biếng…
*Nhóm 2: Những nguyên nhân khách quan
Ở đây có nguyên nhân khách quan về mặt tự nhiên và nguyên nhân
khách quan về mặt xã hội:
Những nguyên nhân khách quan về mặt điều kiện tự nhiên như:
- Đất canh tác ít.
- Đất cằn cỗi , ít màu mỡ, canh tác khó, năng suất cây trồng và vật nuôi
đều thấp.
- Thời tiết, khí hậu khơng thuận lợi cho sản xuất.
- Xa xơi, hẻo lánh.

- Khơng có đường giao thơng…
Những ngun nhân khách quan về mặt xã hội như sự quan tâm xã hội
(của chính quyền địa phương và trung ương). Nhóm này có ảnh hưởng khá
mạnh tới tình trạng đói nghèo của nhân dân cả nước và địa phương. Chẳng
hạn như:
- Nhà nước ( trung ương- địa phương ) chưa có biện pháp xây dựng các
cơ sở hạ tầng tối thiểu: giao thơng, thủy lợi, điện…
- Chưa có biện pháp hành chính và giáo dục thích đáng để hạn chế xóa
bỏ tệ nạn xã hội.

Thân Văn Khoa - QLKT 46A

15


Đề án mơn học

- Chưa có biện pháp chấn áp, giáo dục thích đáng làm cho xã hội, địa
phương được an toàn như nạn trộm cắp tài sản, hoa màu, vật nuôi…làm cho
dân không yên tâm sản xuất.
- Hợp tác xã thu hồi bớt ruộng của người nghèo do họ không thể trả
được nợ sản phẩm, làm cho họ càng nghèo hơn.
*Nhóm 3: Các nguyên nhân kết hợp
Các nhóm 1 và 2 nêu trên là những nguyên nhân trực tiếp có tính chất
chủ quan và khách quan. Kết hợp lại tạo thành 3 dạng ngun nhân gây nghèo
đói:
- Vì mắc tệ nạn xã hội mà nghèo đói ( nhất là cờ bạc, nghiện hút, số
đề).
- Do thiếu đất và do bị thu hồi bớt ruộng đất mà nghèo đói.
- Do khơng biết làm gì khác ngồi nghề nơng mà nghèo đói.

Dĩ nhiên , thiếu vốn, đơng con, thiếu tư liệu sản xuất và kinh nghiệm
vẫn là trục tác động chính dẫn tới nghèo đói.
*Nhóm 4: Nguyên nhân do thiếu thị trường
Đối với người nghèo, tất cả mọi biện pháp cứu trợ chỉ có giá trị tức
thời, khơng thể làm thay đổi hồn cảnh đói nghèo kinh niên của người nghèo,
do đó cũng khơng thay đổi thân phận của người nghèo đói được. Điều quan
trọng để họ tự mình vượt qua đói nghèo là đẩy mạnh sản xuất, tăng thu nhập.
Muốn vậy phải có thị trường cung cấp vật tư nơng nghiệp, nguyên vật liệu,
tiêu thụ sản phẩm theo giá thỏa thuận. Ngun nhân thiếu thị trường lại có thể
tìm ở các nguyên nhân khác: xa xôi hẻo lánh, thiếu đường giao thơng, thiếu
an tồn, thiếu các chính sách, biện pháp khuyến khích.
*Nhóm 5: Những tình huống đột xuất.
Những tình huống đột xuất như sự tàn phá của các điều kiện tự nhiên
làm mât cân bằng, ổn định bình thường đã có như mưa đá, gió Lào, bão, lụt,
hạn hán, trựot núi, sóng thần, động đất, sâu bệnh… gây ra đói gay gắt cấp
tính, phải cứu trợ khẩn khấp.
Thân Văn Khoa - QLKT 46A

16


Đề án mơn học

Để tìm độ xác thực của từng giả thiết trên, một cuộc kiểm tra theo bảng
hỏi và thay đổi cách hỏi đối với đối tượng. Bảng hỏi được xây dựng thành
một khung có 9 vấn đề được hiểu là 9 tình huống, nguyên nhân. Kết quả cho
thấy:
1. Thiếu vốn: có 70-90% câu trả lời
2. Đơng con: 50-60%
3. Thiếu kinh nghiệm: 40-50%

4. Thiếu ruộng, thiếu việc làm: 10-30%
5. Gặp rủi ro, đau ốm: 10-15%.
6. Neo đơn, thiếu lao động:5-10%.
7. Lười và lãng phí: 5-6%.
8. Mắc tệ nạn xã hội:2-3%.
9. Thiếu thị trường: Không ai trả lời, không ai chú ý tới.
Tuy nhiên, trật tự sẽ thay đổi khi gợi ý đối tượng trả lời ngay vào hoàn
cảnh của chính mình.
1. Thiếu vốn; 50-70%
2. Thiếu kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh: 40-50%
3. Thiếu ruộng, thiếu việc làm: 10-30%.
4. Đông con, thiếu lao động; 10-25%.
5. Neo đơn, thiếu lao động: 5-10%.
6. Lười, lãng phí: 5-6%.
7. Rủi ro, đau ốm;2-3%.
8. Tệ nạn: 2-3%.
9. Thiếu thị trường: o%
Từ đây có thể nhận xét : Do người nghèo làm không đủ ăn nên hầu như
có rất ít, hoặc khơng có sản phẩm để tiêu thụ trên thị trường. Mặt khác, họ
cũng chưa thật sự có hoạt động kinh doanh , tư duy kinh tế hàng hóa chưa
phát triển. Đây là dấu vết của kinh tế tự nhiên, thuần nông, tự cấp tự túc.

Thân Văn Khoa - QLKT 46A

17


Đề án mơn học

Do hồn cảnh kinh tế mang lại, người nơng dân nghèo và hộ nơng dân

nghèo có những suy nghĩ, tâm lý khác căn bản so với người nơng dân giàu có.
Họ chưa có đầu óc sản xuất, kinh doanh sinh lãi, chưa dám mơ tưởng tới
doanh nghiệp, chủ trại của kinh tế nơng trại.
Từ vị trí, đặc điểm của các nguyên nhân trên, chúng ta có thể rút ra một
vài nhận xét:
- Trong các nguyên nhân gây nghèo đói, có một số nguyên nhân khá ổn
định, có ý nghĩa phổ biến, thay đổi không lớn. Thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm
làm ăn là nguyên nhân có trọng số cao.
- Rủi ro, bệnh tật, neo đơn, tệ nạn xã hội cũng là nguyên nhân ổn định
nhưng có trọng số thấp.
- Thị trường là một nguyên nhân tiềm tàng, có tầm quan trọng, là cơ sở
để khai thơng nghèo đói, vượt qua đói nghèo, tiến tới giàu có, khá giả. Đây là
một xu hướng khách quan, có vùng đã chín muồi, có nơi cịn ẩn dấu. Nó gắn
liền với xu hướng có tính quy luật; Muốn giảm bớt đói nghèo và vượt qua đói
nghèo, trở thành trung lưu, khá giả, phải chuyển kinh tế tự nhiên- thuần nông
thành kinh tế hàng hóa, đa dạng cơ cấu, loại hình nghành nghề, loại hình sản
phẩm, chuyển từ tư duy hiện vật sang tư duy giá trị.
- Nguyên nhân đông con tuy được thừa nhận ở nhiều nơi nhưng lại có
trọng số khơng ổn định, khác xa nhau, tùy theo vùng và địa phương ( từ 510% đến 50-60% ).
- Các nguyên nhân về điều kiện tự nhiên cũng có sự thay đổi theo địa
phương. Ở những vùng tưn nhiên quá khắc nghiệt thì tỷ lệ nghèo đói rất cao,
có khi biết làm ăn mà vẫn nghèo đói. Trong trường hợp này hoặc là Nhà nước
phải đầu tư để cải tạo, hoặc chuyển căn bản cơ cấu kinh tếtừ nông nghiệp
sang công nghiệp, thậm chí di dân.
- Ngun nhân về đường giao thơng có tính đặc thù rõ nét, nhất là vùng
núi, vùng cao. Ở đây, có khi nó lại là nguyên nhân bao trùm gây nên đói

Thân Văn Khoa - QLKT 46A

18



Đề án môn học

nghèo và lạc hậu. Đây cũng là vùng đòi hỏi đầu tư lớn của Nhà nước trung
ương.
- Đặc biệt nguyên nhân về thiên tai nặng là nguyên nhân bao trùm nhất,
quyết định nhất gây ra đói gay gắt cấp tính cục bộ, địi hỏi cứu trợ khẩn cấp.
Trên đây là những nguyên nhân cơ bản dẫn đến nghèo đói, tiếp theo
chúng ta sẽ tìm hiểu về thực trạng đói nghèo ở Việt nam hiện nay.
II.

Thực trạng nghèo đói ở Việt nam:
1. Việt Nam được xếp vào nhóm các nước nghèo của thế giới :
Tỷ lệ hộ đói nghèo của Việt Nam còn khá cao. Theo kết quả Điều tra

mức sống dân cư (theo chuẩn nghèo chung của quốc tế), tỷ lệ đói nghèo năm
1998 là trên 37% và ước tính năm 2000 tỷ lệ này vào khoảng 32% (giảm
khoảng 1/2 tỷ lệ hộ nghèo so với năm 1990). Nếu tính theo chuẩn đói nghèo
về lương thực, thực phẩm năm 1998 là 15% và ước tính năm 2000 là 13%.
Theo chuẩn nghèo của Chương trình xóa đói giảm nghèo quốc gia mới,
đầu năm 2000 có khoảng 2,8 triệu hộ nghèo, chiếm 17,2% tổng số hộ trong cả
nước.
2. Nghèo đói phổ biến trong những hộ có thu nhập thấp và bấp
bênh :
Mặc dù Việt Nam đã đạt được những thành công rất lớn trong việc
giảm tỷ lệ nghèo, tuy nhiên cũng cần phải thấy rằng, những thành tựu này vẫn
còn rất mong manh.
Thu nhập của một bộ phận lớn dân cư vẫn nằm giáp ranh mức nghèo,
do vậy chỉ cần những điều chỉnh nhỏ về chuẩn nghèo, cũng khiến họ rơi

xuống ngưỡng nghèo và làm tăng tỷ lệ nghèo.
Phần lớn thu nhập của người nghèo là từ nông nghiệp. Với điều kiện
nguồn lực rất hạn chế (đất đai, lao động, vốn), thu nhập của những người
nghèo rất bấp bênh và dễ bị tổn thương trước những đột biến của mỗi gia đình

Thân Văn Khoa - QLKT 46A

19


Đề án mơn học

và cộng đồng. Nhiều hộ gia đình tuy mức thu nhập ở trên ngưỡng nghèo,
nhưng vẫn giáp ranh với ngưỡng nghèo đói, do vậy, khi có những dao động
về thu nhập cũng có thể khiến họ trượt xuống ngưỡng nghèo. Tính mùa vụ
trong sản xuất nơng nghiệp cũng tạo nên khó khăn cho người nghèo.
Mức độ cải thiện thu nhập của người nghèo chậm hơn nhiều so với
mức sống chung và đặc biệt so với nhóm có mức sống cao. Sự gia tăng chênh
lệch thu nhập giữa nhóm 20% giàu nhất và 20% nghèo nhất (từ 7,3 lần năm
1993 lên 8,9 lần năm 1998) cho thấy, tình trạng tụt hậu của người nghèo
(trong mối tương quan với người giàu). Mặc dù chỉ số nghèo đói có cải thiện,
nhưng mức cải thiện ở nhóm người nghèo chậm hơn so với mức chung và đặc
biệt so với nhóm người có mức sống cao. Hệ số chênh lệch mức sống giữa
thành thị và nơng thơn cịn rất cao.
Những tỉnh nghèo nhất hiện nay cũng là tỉnh xếp thứ hạng thấp trong cả
nước về chỉ số phát triển con người và phát triển giới.
3. Nghèo đói tập trung ở các vùng có điều kiện sống khó khăn:
Đa số người nghèo sinh sống trong các vùng tài nguyên thiên nhiên rất
nghèo nàn, điều kiện tự nhiên khắc nghiệt như ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa
hoặc ở các vùng Đồng bằng sông Cửu Long, miền Trung, do sự biến động của

thời tiết (bão, lụt, hạn hán...) khiến cho các điều kiện sinh sống và sản xuất
của người dân càng thêm khó khăn. Đặc biệt, sự kém phát triển về hạ tầng cơ
sở của các vùng nghèo đã làm cho các vùng này càng bị tách biệt với các
vùng khác. Năm 2000, khoảng 20-30% trong tổng số 1.870 xã đặc biệt khó
khăn chưa có đường dân sinh đến trung tâm xã; 40% số xã chưa đủ phịng
học; 5% số xã chưa có trạm y tế; 55% số xã chưa có nước sạch; 40% số xã
chưa có đường điện đến trung tâm xã; 50% chưa đủ cơng trình thuỷ lợi nhỏ;
20% số xã chưa có chợ xã hoặc cụm xã.
Bên cạnh đó, do điều kiện thiên nhiên không thuận lợi, số người trong
diện cứu trợ đột xuất hàng năm khá cao, khoảng 1-1,5 triệu người. Hàng năm
Thân Văn Khoa - QLKT 46A

20


Đề án mơn học

số hộ tái đói nghèo trong tổng số hộ vừa thốt khỏi nghèo vẫn cịn lớn.
4. Đói nghèo tập trung trong khu vực nơng thơn :
Nghèo đói là một hiện tượng phổ biến ở nông thôn với trên 90% số
người nghèo sinh sống ở nông thôn. Năm 1999, tỷ lệ nghèo đói về lương thực,
thực phẩm của thành thị là 4,6%, trong khi đó của nơng thơn là 15,9%. Trên
80% số người nghèo là nơng dân, trình độ tay nghề thấp, ít khả năng tiếp cận
các nguồn lực trong sản xuất (vốn, kỹ thuật, công nghệ...), thị trường tiêu thụ
sản phẩm gặp nhiều khó khăn do điều kiện địa lý và chất lượng sản phẩm
kém, chủng loại sản phẩm nghèo nàn. Những người nông dân nghèo thường
không có điều kiện tiếp cận với hệ thống thơng tin, khó có khả năng chuyển
đổi việc làm sang các ngành phi nông nghiệp. Phụ nữ nông dân ở vùng sâu,
vùng xa, nhất là nữ chủ hộ độc thân, phụ nữ cao tuổi là những nhóm nghèo dễ
bị tổn thương nhất. Phụ nữ nghèo lao động nhiều thời gian hơn, nhưng thu

nhập ít hơn, họ ít có quyền quyết định trong gia đình và cộng đồng do đó có ít
cơ hội tiếp cận các nguồn lực và lợi ích do chính sách mang lại.
Ước tính quy mơ và tỷ lệ nghèo đói theo chuẩn nghèo mới giữa thành
thị và nơng thơn năm 2000
Số hộ nghèo
(nghìn hộ)

So với số hộ
trong vùng (%)

So với tổng số hộ
nghèo cả nước (%)

2.8

17,2

100

2.535

19,7

90,5

785

31,3

28,0


1.75

16,9

62,5

265

7,8

9,5

Tổng số
Nơng thơn:
Trong đó: - Nơng
thơn miền núi
- Nơng thơn đồng
bằng
Thành thị

Nguồn: Chương trình quốc gia xóa đói giảm nghèo.
Thân Văn Khoa - QLKT 46A

21


Đề án mơn học

5. Nghèo đói trong khu vực thành thị

Trong khu vực thành thị, tuy tỷ lệ nghèo đói thấp hơn và mức sống
trung bình cao hơn so với mức chung cả nước, nhưng mức độ cải thiện điều
kiện sống không đồng đều. Đa số người nghèo đô thị làm việc trong khu vực
kinh tế phi chính thức, cơng việc không ổn định, thu nhập thấp và bấp bênh.
Việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế và chủ sở hữu trong khu vực Nhà nước
dẫn đến sự dôi dư lao động, mất việc làm của một bộ phận người lao động ở
khu vực này, làm cho điều kiện sống của họ càng thêm khó khăn hơn. Số lao
động này phải chuyển sang làm các công việc khác với mức lương thấp hơn,
hoặc khơng tìm được việc làm và trở thành thất nghiệp.
Người nghèo đô thị phần lớn sống ở những nơi có cơ sở hạ tầng thấp
kém, khó có điều kiện tiếp cận tới các dịch vụ cơ bản (nước sạch, vệ sinh mơi
trường, thốt nước, ánh sáng và thu gom rác thải...).
Người nghèo đô thị dễ bị tổn thương do sống phụ thuộc chủ yếu vào
nguồn thu nhập bằng tiền. Họ thường khơng có hoặc có ít khả năng tiết kiệm
và gặp nhiều khó khăn trong việc vay vốn tạo việc làm.
Q trình cơng nghiệp hóa và đơ thị hóa làm tăng số lượng người di cư
tự do từ các vùng nông thôn đến các đô thị, chủ yếu là trẻ em và người trong
độ tuổi lao động. Hiện tại chưa có số liệu thống kê về số lượng người di cư tự
do này trong các báo cáo về nghèo đói đơ thị. Những người này gặp rất nhiều
khó khăn trong việc đăng ký hộ khẩu hoặc tạm trú lâu dài, do đó họ khó có
thể tìm kiếm được công ăn việc làm và thu nhập ổn định. Họ có ít cơ hội tiếp
cận các dịch vụ xã hội và phải chi trả cho các dịch vụ cơ bản như y tế, giáo
dục ở mức cao hơn so với người dân đã có hộ khẩu.
Ngồi ra, đói nghèo cịn chiếm tỷ lệ cao trong các nhóm đối tượng xã
hội khác như những người không nghề nghiệp, người thất nghiệp, người lang
thang và người bị ảnh hưởng bởi các tệ nạn xã hội (mãi dâm, nghiện hút, cờ
bạc...).

Thân Văn Khoa - QLKT 46A


22


Đề án mơn học

6. Tỷ lệ nghèo đói khá cao trong các vùng sâu, vùng xa, vùng núi
cao
Đói nghèo mang tính chất vùng rất rõ rệt. Các vùng núi cao, vùng sâu,
vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người sinh sống, có tỷ lệ đói nghèo khá
cao. Có tới 64% số người nghèo tập trung tại các vùng miền núi phía Bắc,
Bắc Trung bộ, Tây Nguyên và Duyên hải miền Trung. Đây là những vùng có
điều kiện sống khó khăn, địa lý cách biệt, khả năng tiếp cận với các điều kiện
sản xuất và dịch vụ còn nhiều hạn chế, hạ tầng cơ sở rất kém phát triển, điều
kiện thiên nhiên khắc nghiệt và thiên tai xảy ra thường xun.
Ước tính quy mơ và tỷ lệ nghèo đói theo chuẩn nghèo mới (2001-2005)
của Chương trình xóa đói giảm nghèo theo vùng đầu năm 2001
Số hộ nghèo,
(nghìn hộ)

So với tổng số hộ
trong vùng (%)

So với tổng số hộ
nghèo cả nước (%)

Tổng số

2.8

17,2


100

Vùng Tây Bắc

146

33,9

5,2

Vùng Đông Bắc

511

22,3

18,2

337

9,8

12,0

554

25,6

19,8


389

22,4

13,9

190

24,9

6,8

183

8,9

6,6

490

14,4

17,5

Vùng Đồng bằng
sông Hồng
Vùng Bắc Trung Bộ
Vùng


duyên

hải

miền Trung
Vùng Tây Nguyên
Vùng Đông Nam
Bộ
Vùng Đồng bằng
sông Cửu Long

Nguồn: Chương trình quốc gia xóa đói giảm nghèo

Thân Văn Khoa - QLKT 46A

23


Đề án mơn học

7. Tỷ lệ hộ nghèo đói đặc biệt cao trong các nhóm dân tộc ít người
Trong thời gian qua, Chính phủ đã đầu tư và hỗ trợ tích cực, nhưng
cuộc sống của cộng đồng dân tộc ít người vẫn gặp nhiều khó khăn và bất cập.
Mặc dù dân số dân tộc ít người chỉ chiếm khoảng 14% tổng số dân cư, song
lại chiếm khoảng 29% trong tổng số người nghèo.
Đa số người dân tộc ít người sinh sống trong các vùng sâu, vùng xa, bị
cô lập về mặt địa lý, văn hoá, thiếu điều kiện phát triển về hạ tầng cơ sở và
các dịch vụ xã hội cơ bản.
III.Các giải pháp chủ yếu để xóa đói giảm nghèo:
1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn:

Nền kinh tế thuần nông không thể đem lại sự giàu có, ổn định và phồn
vinh cho các hộ làm nghề nơng nói riêng và nền kinh tế nơng nghiệp nói
chung. Hơn nữa, nền kinh tế nơng nghiệp nước tảtong điều kiện canh tác lạc
hậu, ruộng đất bình quân đầu người quá thấp ( 0,1 ha/ người ), lại bị lệ thuộc
vào thiên nhiên ( nhiều vùng mỗi năm phải chịu đựng 4-5 cơn bão lụt, có tỉnh
3 năm liền liên tiếp bị thiên tai, mất mùa đói kém ), nếu chỉ sản xuất thuần
nông sẽ gặo rủi ro và khó vượt qua được tình trạng nghèo đói. Chuyển dịch cơ
cấu nông nghiệp và nông thôn theo tinh thần Nghị quyết 5 của ban chấp hành
Trung ương đảng khóa VII là một biện pháp quan trọng hàng đầu, vừa có tính
cấp bách để xóa đói, giảm nghèo, vừa mang tầm chiến lược cho sự phát triển
kinh tế nông nghiệp và nông thôntheo hướng chuyển nền kinh tế thuần nông,
tự túc tự cấp sang nền kinh tế hàng hóa, góp phần thực hiện cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, cần chú trọng
thực hiện một số giải pháp cụ thể sau đây:
Một là, thực hiện kiên quyết việc chuyển nền kinh tế thuần nơng gắn
với xóa đói, giảm nghèo, trước hết phải giúp cho tường hộ nghèo và xã nghèo
có kế hoạch sản xuất lương thực một cách hợp lý, đồng thời mở rộng phát

Thân Văn Khoa - QLKT 46A

24


×